ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA QUỐC TẾ HỌC
HỒ THỊ BÍCH NGỌC
THỰC TRẠNG TRANH CHẤP CHỦ QUYỀN TẠI
BIỂN ĐÔNG TRONG NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ XXI
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: QUAN HỆ QUỐC TẾ
Hà Nội - 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA QUỐC TẾ HỌC
HỒ THỊ BÍCH NGỌC
THỰC TRẠNG TRANH CHẤP CHỦ QUYỀN TẠI
BIỂN ĐÔNG TRONG NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ XXI
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH QUAN HỆ QUỐC TẾ
Mã số: 60310206
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
GS.TS Đỗ Tiến Sâm
Hà Nội - 2014
1
MỤC LỤC
Nội dung
Số trang
PHẦN MỞ ĐẦU ………………………………………………….
4
CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ TÌNH HÌNH BIỂN ĐÔNG
1.1Khái quát về Biển Đông ……………………………………….
16
1.1.1 Vị trí địa lý ............................................................................
16
1.1.2 Tầm quan trọng của Biển Đông …………………………….
16
1.2Lịch sử tranh chấp chủ quyền tại Biển Đông ………………….
20
1.2.1 Giai đoạn trước 1958 ………………………………………
20
1.2.2 Giai đoạn từ 1958 đến 2009 ……………………………….
22
1.2.3 Giai đoạn từ 2009 đến nay …………………………………
26
1.3 Một số cơ sở pháp lý liên quan đến vấn đề chủ quyền của các
nƣớc ở Biển Đông ………………………………………………
27
1.3.1 Luật tập quán quốc tế về thụ đắc lãnh thổ …………………
27
1.3.2 Công ước Luật Biển năm 1982 của Liên Hợp Quốc ……….
29
1.3.3 Luật quốc tế nói chung ……………………………………..
32
1.3.4 Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông ……………..
34
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG TRANH CHẤP CHỦ QUYỀN
TẠI BIỂN ĐÔNG TRONG NHỮNG NĂM ĐẦU THẾ KỶ 21
2.1 Yêu sách chủ quyền và hiện trạng chiếm đóng của các bên tại
Biển Đông…………..……………………………………………...
40
2.1.1 Yêu sách và hiện trạng chiếm đóng của Trung Quốc ……….
40
2.1.2 Yêu sách và hiện trạng chiếm đóng của Đài Loan ………….
43
2.1.3 Yêu sách và hiện trạng chiếm đóng của Malaysia ………….
45
2.1.4 Yêu sách và hiện trạng chiếm đóng của Philippines ..………
49
2.1.5 Yêu sách và hiện trạng chiếm đóng của Brunei …………….
52
2.1.6 Quan điểm và hiện trạng đóng quân của Việt Nam ………...
54
2.2 Quan hệ tƣơng tác giữa Trung Quốc, các nƣớc ASEAN và các
nƣớc lớn ngoài khu vực trong vấn đề Biển Đông………………....
2
58
2.3 Hoạt động của các bên nhằm khẳng định yêu sách chủ quyền
tại Biển Đông hiện nay ……………………………………………
64
2.3.1 Hoạt động của Trung Quốc ………………………………..
64
2.3.2 Hoạt động của Đài Loan …………………………………...
84
2.3.3 Hoạt động của Malaysia …………………………………...
86
2.3.4 Hoạt động của Brunei ……………………………………...
87
2.3.5 Hoạt động của Philippines …………………………………
87
2.3.6 Hoạt động của Việt Nam …………………………………...
90
CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP CHO VẤN ĐỀ TRANH CHẤP CHỦ
QUYỀN TẠI BIỂN ĐÔNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ĐỐI VỚI
VIỆT NAM
3.1 Tình hình giải quyết tranh chấp chủ quyền tại Biển Đông hiện nay
94
3.1.1 Một số kết quả đạt được …………………………………….
94
3.1.2 Một số vấn đề còn tồn tại …………………………………...
96
3.2 Một số giải pháp cho vấn đề tranh chấp chủ quyền tại Biển
Đông hiện nay …………………………………………………….
99
3.3 Một số kiến nghị trong việc đấu tranh bảo vệ chủ quyền,
quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam tại Biển Đông
104
KẾT LUẬN ……………………………………………………….
120
TÀI LIỆU THAM KHẢO ………………………………………...
123
PHỤ LỤC …………………………………………………………
139
3
PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Biển Đông có vị trí địa chiến lƣợc quan trọng đối với nhiều nƣớc trong
và ngoài khu vực. Biển Đông là một biển nửa kín ở khu vực Thái Bình Dƣơng,
có diện tích hơn 3.5 triệu km², có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú với
trữ lƣợng lớn, đặc biệt là dầu, khí và hải sản. Các tài nguyên này là một điều
kiện cần thiết cho sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế của các nƣớc liên
quan. Ngoài ra, Biển Đông còn là tuyến hàng hải nhộn nhịp thứ hai trên thế
giới, sau tuyến Địa Trung Hải. Mỗi ngày có khoảng 150 - 200 tàu trọng tài lớn
đi qua Biển Đông. Hàng hóa xuất nhập khẩu thiết yếu đối với các nền kinh tế
nhƣ Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông phụ thuộc rất
nhiều vào tuyến đƣờng biển này. Do vậy, tranh chấp Biển Đông giữa các nƣớc
trong khu vực thực chất là nhằm tranh chấp chủ quyền đối với các quần đảo,
đảo, các tuyến hàng hải quan trọng, đồng thời kiểm soát các nguồn tài nguyên
đa dạng tại khu vực này.
Bối cảnh xung quanh khu vực Biển Đông đang có nhiều biến chuyển
quan trọng. Vấn đề tranh chấp chủ quyền tại Biển Đông từ lâu đƣợc xem là
một trong những nguồn gốc chính của căng thẳng và bất ổn định trong khu
vực Châu Á - Thái Bình Dƣơng. Tranh chấp tại Biển Đông không chỉ là tranh
chấp giữa các nƣớc ASEAN với nhau mà còn là tranh chấp giữa các nƣớc
ASEAN với Trung Quốc. Tình trạng tranh chấp chủ quyền tại Biển Đông là
một vấn đề do lịch sử để lại. Tuy nhiên, trong bối cảnh thế giới và khu vực có
nhiều biến động nhƣ hiện nay, vấn đề biển đảo nổi lên nhƣ một trong những
vấn đề quan trọng nhất trong chính sách phát triển của tất cả các quốc gia trên
thế giới. Với tầm quan trọng đó, cộng đồng quốc tế đã xác định thế kỷ XXI là
thế kỷ biển. Do vậy, từ khi bƣớc sang thế kỷ XXI đến nay, các nƣớc ASEAN
nhƣ Việt Nam, Philippines, Malaysia, Brunei, Indonesia, Thái Lan,
Singapore... một mặt tăng cƣờng các hoạt động nhằm đòi hỏi chủ quyền biển,
đảo của mình, mặt khác cũng đang đẩy mạnh hợp tác để tìm giải pháp cho vấn
4
đề Biển Đông. Trong khi đó, về phía Trung Quốc, với tƣ cách là một nƣớc lớn
trong khu vực, Trung Quốc cũng đang gia tăng các hoạt động thực hiện quyền
kiểm soát, quản lý của mình đối với các vùng biển, đảo mà họ yêu sách chủ
quyền. Trung Quốc một mặt tích cực triển khai các hoạt động ngoại giao song
phƣơng và đa phƣơng để xoa dịu mặc cảm về “mối đe dọa Trung Quốc”, thể
hiện “thiện chí” mong muốn giải quyết tranh chấp ở Biển Đông bằng biện
pháp hòa bình; mặt khác đối với các nƣớc có tranh chấp trực tiếp, Trung Quốc
vừa lôi kéo vừa gây sức ép, thậm chí răn đe bằng vũ lực để buộc các nƣớc này
phải chấp nhận việc giải quyết tranh chấp theo ý muốn của Trung Quốc. Điều
này dẫn đến sự gia tăng của nhiều vụ va chạm và tranh luận về vấn đề Biển
Đông, đặc biệt giữa Trung Quốc với Việt Nam và Philippines. Việc Trung
Quốc đẩy mạnh các hoạt động tăng cƣờng ảnh hƣởng tại Biển Đông đã đe dọa
đến an ninh và lợi ích của nhiều nƣớc lớn nhƣ Ấn Độ, Nga, Nhật Bản, Hàn
Quốc, Australia… và kể cả Mỹ. Do đó, tranh chấp Biển Đông không chỉ là
vấn đề của riêng các nƣớc liên quan trong khu vực mà nó còn thu hút sự quan
tâm của nhiều nƣớc lớn khác ngoài khu vực. Biển Đông hiện nay đang là địa
bàn đóng quân và hoạt động của các hạm đội hải quân của nhiều nƣớc trong và
ngoài khu vực. Nhƣ vậy, vấn đề Biển Đông có sự đan xen rất chặt chẽ những
lợi ích của nhiều nƣớc với các mức độ khác nhau. Hòa bình và ổn định ở Biển
Đông ảnh hƣởng trực tiếp đến hòa bình và ổn định của khu vực và thế giới.
Hiện nay, các văn bản pháp lý liên quan việc giải quyết tranh chấp tại
các vùng biển nói chung và tại Biển Đông nói riêng có sự gia tăng và phát
triển mạnh về số lƣợng và chất lƣợng, tạo ra nhiều sự ràng buộc khác nhau
cho các bên tranh chấp. Các văn bản pháp lý này đƣợc xem nhƣ những luật
chơi chung mà tất cả các quốc gia tranh chấp phải áp dụng và tuân thủ. Tuy
nhiên trên thực tế vấn đề Biển Đông, trong khi hầu hết các bên tranh chấp đều
dựa trên Công ƣớc Liên Hợp Quốc về Luật biển 1982 để tuyên bố những đòi
hỏi chủ quyền thì Trung Quốc lại đƣa ra yêu sách “đƣờng lƣỡi bò” một cách
phi lý và không dựa trên Luật pháp quốc tế. Theo đó, Trung Quốc yêu sách
gần 80% Biển Đông và cho rằng đó là vùng nƣớc lịch sử của họ. Yêu sách
5
này hiện đang gây ra sự tranh cãi và gặp phải sự phản đối gay gắt của rất
nhiều nƣớc trong và ngoài khu vực. Điều này làm cho tình hình tranh chấp ở
Biển Đông thêm căng thẳng và phức tạp. Ngoài ra, một số văn bản pháp lý
khác mà các bên liên quan đã dành nhiều thời gian và mất công nghiên cứu
soạn thảo để góp phần giảm bớt căng thẳng tại Biển Đông nhƣ Tuyên bố về
ứng xử của các bên ở Biển Đông, tiến tới là Bộ Quy tắc ứng xử trên Biển
Đông (COC)… hiện vẫn chƣa đạt đƣợc sự thống nhất triệt để và chƣa thực sự
đƣợc triển khai trên thực tế.
Cuộc tranh chấp Biển Đông hiện vẫn đang là một “nguy cơ” gây bất ổn
trong khu vực. Tranh chấp Biển Đông đã trở thành một trong những cuộc
tranh chấp phức tạp bậc nhất trên thế giới. Sự phức tạp của tranh chấp Biển
Đông đến từ các yêu sách phức tạp về chủ quyền của nhiều quốc gia đối với
các khu vực chồng lấn, hơn thế nữa, nó không chỉ đơn thuần là tranh chấp về
mặt luật pháp quốc tế về biên giới biển, lãnh thổ trên biển mà nó còn đƣợc
đan xen với những lợi ích về địa – chính trị, về kiểm soát con đƣờng vận tải
biển chiến lƣợc, và về khai thác các nguồn tài nguyên biển, đặc biệt là dầu
mỏ. Thực tế cho thấy tranh chấp các đảo trong Biển Đông đã trở thành một
trong những vấn đề an ninh quan trọng nhất trong khu vực bởi yêu sách
“đƣờng lƣỡi bò” của Trung Quốc sẽ có tác động rất lớn đến việc phân định
các đƣờng biên giới biển của khu vực này trong tƣơng lai, và cũng ảnh hƣởng
nghiêm trọng đến chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ cũng nhƣ quyền lợi trên biển
của nhiều nƣớc trong khu vực, trong đó có Việt Nam. Vì vậy, nhu cầu nghiên
cứu thực trạng tranh chấp tại Biển Đông hiện nay là một vấn đề cần thiết. Với
lý do đó, tác giả đã chọn chủ đề “Thực trạng tranh chấp chủ quyền tại Biển
Đông trong những năm đầu thế kỷ XXI” để nghiên cứu luận văn cao học.
2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
Biển Đông có một tầm quan trọng đáng kể nên từ trƣớc đến nay, vấn đề
này đã đƣợc nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu. Ngay từ những triều đại phong
kiến trƣớc đây đã có những tác phẩm đề cập đến khu vực Biển Đông mà trọng
6
tâm là quần đảo Hoàng Sa và Trƣờng Sa nhƣ: “Toàn tập Thiên nam Tứ chí Lộ
đồ Thư” do Đỗ Bá biên soạn (1630 - 1653). Tài liệu này bao gồm các bản đồ
An Nam từ thế kỷ XV trong đó có tấm vẽ các quần đảo Hoàng Sa và Trƣờng
Sa trong biển Đông dƣới tên gọi Bãi Cát Vàng và Trƣờng Sa, thuộc phủ
Quảng Ngãi.
Đến thời nhà Nguyễn, Hoàng Sa và Trƣờng Sa đã đƣợc chính thức ghi
trong các sách sử và địa lý của triều đình. Đó là: “Phủ biên Tạp lục” của Lê
Quý Đôn (1776), “Lịch triều Hiến chương Loại chí” của phan Huy Chú (1821),
“Việt sử Cương giám Khảo lược” của Nguyễn Thông (1876) và những cuốn
sách do Quốc Sử quán triều Nguyễn biên soạn nhƣ: “Đại Nam Thực lục Tiền
biên”, “Đại Nam Thực lục Chính biên”, “Đại Nam Nhất thống chí”, “Quốc
Triều Chính biên Toát yếu”… Những tài liệu này mô tả chi tiết về các hoạt
động của các đội Hoàng Sa, Bắc Hải, minh chứng sự xác lập và bảo vệ chủ
quyền của Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa và Trƣờng Sa. Đáng chú ý, trong
cuốn “Đại Nam Thực lục Tiền biên”, phần về các chúa Nguyễn (1600 – 1775),
quyển X ghi nhận địa danh Hoàng Sa, Trƣờng Sa và các hoạt động quản lý của
chính quyền Việt Nam: “Xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn, phủ Quảng Ngãi, ở
ngoài biển, có hơn một trăm ba mươi bãi cát, cách nhau hoặc một ngày đường
hoặc vài trống canh, kéo dài không biết mấy ngàn dặm, tục gọi là Vạn Lý
Hoàng Sa, trên bãi có giếng nước ngọt. Sản vật có hải sâm, đồi mồi, ốc hoa,
vích… Hồi đầu dựng nước, đặt đội Hoàng Sa gồm 70 người, lấy dân xã An
Vĩnh sung vào, hằng năm đến tháng 3 đi thuyền ra đảo, bộ ba ngày đêm thì
đến, thu lượm hóa vật, đến tháng 8 trở về nộp. Lại có đội Bắc Hải, mộ dân ở
phường Tư Chính, ở Bình Thuận hoặc xã Cảnh Dương sung vào, được lệnh đi
thuyền ra các vùng Bắc Hải, Côn Lôn, thu lượm hóa vật. Đội này cũng do đội
Hoàng Sa kiêm quản”1. Đó đều là các nguồn tài liệu chính thức và có giá trị
chân thực.
Trƣớc năm 1975, tài liệu đáng chú ý là công trình luận văn tốt nghiệp
Ban Đốc Sự của Học viện Quốc gia Hành Chánh (Sài Gòn) của Đinh Văn Cƣ
1
Viện Sử học (1962), Đại Nam thực lục tiền biên, NXB Sử học,Hà Nội, t.1, tr.22
7
với đề tài: “Chủ quyền quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa”, dày 137 trang đánh
máy. Công trình này dành hơn một phần tƣ nội dung nói về hoàn cảnh địa lý và
trình bày diễn tiến sự tranh chấp chủ quyền của nhiều quốc gia tại Hoàng Sa.
Từ sau ngày 30/4/1975, một số cơ quan nhƣ Ban Biên giới Chính phủ, Viện
Nghiên cứu Trung Quốc, các trƣờng đại học bắt đầu quan tâm đến vấn đề
Biển Đông, đặc biệt sau cuộc chiến tranh xâm lƣợc của Trung Quốc tháng
2/1979. Tháng 9/1979, Bộ Ngoại giao nƣớc Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt
Nam công bố tài liệu “Chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa
và Trường Sa”. Tháng 1/1982, Bộ Ngoại giao nƣớc Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam tiếp tục công bố cuốn Sách trắng “Quần đảo Hoàng Sa và
quần đảo Trường Sa, lãnh thổ Việt Nam”. Tháng 4/1988, Bộ Ngoại giao nƣớc
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam công bố tài liệu: “Các quần đảo Hoàng
Sa, Trường Sa và luật pháp quốc tế”. Các tài liệu này đã chứng minh một
cách rõ ràng chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo trên tất cả các khía
cạnh: Lịch sử, pháp lý và thực tiễn quốc tế.
Năm 1981, Mẫn Khánh Dƣơng Kỵ và Trần Xuân Cầu viết bài “Từ Bãi
Cát vàng đến Hoàng Sa và Trường Sa, lãnh thổ Việt Nam ” trong Sử học số 2
(nhà xuất bản Đại học và Trung học Chuyên nghiệp) đã đƣa ra một vài thông
tin mới, cách tiếp cận mới qua thực địa tại Cù Lao Ré. Trƣớc đó, cuốn
“Hoàng Sa, quần đảo Việt Nam” 90 trang của Văn Trọng xuất bản năm 1979
là đúc kết cô đọng và chú trọng về phần tranh chấp chủ quyền với Trung
Quốc thêm một số hình ảnh nhƣ bia chủ quyền của Việt Nam trên quần đảo
Hoàng Sa chụp năm 1938, trên quần đảo Trƣờng Sa chụp năm 1961.
Ngoài ra, cũng có một số cuốn sách khác có giá trị về mặt khoa học,
lịch sử và pháp lý trong việc khẳng định chủ quyền hợp pháp của Việt Nam
đối với hai quần đảo ở Biển Đông nhƣ: cuốn “Sự thật về những lần xuất quân
của Trung Quốc và quan hệ Việt - Trung” do Nhà xuất bản Đà Nẵng in năm
1996 viết về vấn đề Hoàng Sa - Trƣờng Sa trong quan hệ Việt – Trung; cuốn
“Hoàng Sa Trường Sa - lãnh thổ Việt Nam nhìn từ công pháp quốc tế” của
Nguyễn Q. Thắng do Nhà xuất bản Tri Thức phát hành năm 2008. Cuốn sách
8
đƣợc chia thành 7 chƣơng và vài phần phụ, cung cấp cho ngƣời đọc những
kiến thức căn bản về Hoàng Sa, Trƣờng Sa nhƣ: vị trí địa lý, khí hậu, tài
nguyên, tham chiếu về Hoàng Sa – Trƣờng Sa trong các bản đồ cổ, trong sử
liệu cổ, diễn biến vụ tranh chấp chủ quyền giữa Việt Nam với một số nƣớc
khác trong khu vực (chủ yếu là Trung Quốc); cuốn “Hoàng Sa – Trường Sa:
Hỏi và Đáp” của Trần Nam Tiến do Nhà xuất bản Trẻ ấn hành năm 2011.
Cuốn sách đƣợc trình bày dƣới dạng câu hỏi và trả lời, súc tích nhƣng giàu
thông tin về hai quần đảo Hoàng Sa và Trƣờng Sa. Đặc biệt sách có công bố
một số bản đồ của châu Âu và Trung Quốc từ thế lỷ XVII cho thấy chủ quyền
của Đại việt đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trƣờng Sa; cuốn “Bằng chứng
lịch sử và cơ sở pháp lý: Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam” của nhiều
tác giả do Nhà xuất bản Trẻ phát hành năm 2011. Cuốn sách bao gồm các
công trình nghiên cứu cùng các bài báo và tƣ liệu về chủ quyền không thể
tranh cãi của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trƣờng Sa. Các tác
giả còn đƣa ra những luận cứ bác bỏ yêu sách phi lý về “đƣờng lƣỡi bò” của
Trung Quốc ở Biển Đông. Ngoài ra, sách còn giới thiệu Biên niên sự kiện về
Hoàng Sa – Trƣờng Sa, phần Phụ lục với các văn kiện và điều ƣớc quốc tế có
liên quan, cùng những hình ảnh và kiến thức cơ bản về biển đảo Việt Nam…
Bên cạnh đó, cũng có một số đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nƣớc
liên quan Biển Đông, cụ thể là Hoàng Sa, Trƣờng Sa đã đƣợc tiến hành.
Trong đó có đề tài “Hợp đồng nghiên cứu khoa học về lịch sử chủ quyền của
Việt Nam ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa”, mã số BĐHĐ 01 - 01 do
Tiến sĩ Nguyễn Quang Ngọc (Đại học Quốc gia Hà Nội) chủ trì đã báo cáo
tổng kết ngày 30/4/1995. Đề tài bƣớc đầu đã có những đóng góp đáng kể về
bản đồ cổ Việt Nam do Trần Bá Chí phụ trách, tìm ra đƣợc 22 sách cổ có bản
đồ vẽ Hoàng Sa và Trƣờng Sa. Ngoài ra, 15 bản báo cáo trong Hội thảo Quốc
gia “Luận cứ khoa học lịch sử, địa lý và pháp lý chủ quyền Việt Nam trên hai
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa” tại Hà Nội ngày 18/1/1996 đã đóng góp
đáng kể vào việc nghiên cứu lịch sử tranh chấp Hoàng Sa với Trung Quốc và
những tƣ liệu của phía Trung Quốc nhƣ việc tìm hiểu hệ thống bản đồ của
9
Trung Quốc của Nguyễn Quang Ngọc để chứng minh việc đến 1909 bản đồ
Trung Quốc chƣa bao giờ vẽ đến Hoàng Sa, quan điểm của Trung Quốc về
Hoàng Sa - Trƣờng Sa của Hoàng Ngọc Bảo, quan điểm của Đài Loan về
Hoàng Sa - Trƣờng Sa của Nguyễn Huy Quý hay tìm hiểu về bộ sƣu tập tƣ
liệu Hoàng Sa của Hàn Chấn Hoa (Trung Quốc) chủ biên do Phạm Kim Hùng
phụ trách… Ngoài ra còn có luận án tiến sĩ “Quá trình xác lập chủ quyền của
Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa” năm 2003 của Nguyễn Nhã.
Trong công trình này, ông đã sử dụng các tài liệu của Trung Quốc và cả các
sách vở, bản đồ, nhật ký… của phƣơng Tây để phản bác các lập luận của
Trung Quốc và chứng minh chủ quyền của Việt Nam đối với hai quần đảo
Hoàng Sa và Trƣờng Sa đã đƣợc thực hiện từ rất lâu trong lịch sử trƣớc khi
xảy ra tranh chấp với Trung Quốc.
Một số bài viết đáng chú ý nhƣ bài “Chủ quyền trên hai quần đảo
Hoàng Sa và Trường Sa” của tác giả Từ Đặng Minh Thu và bài viết “Lập
trường của Trung Quốc trong tranh chấp chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng
Sa, Trường Sa và luật quốc tế” của Luật gia Đào Văn Thụy. Cả hai bài viết
này đƣợc đăng trên Tạp chí Nghiên cứu và thảo luận Thời đại mới số 11,
tháng 7/2007. Trong bài viết của tác giả Từ Đặng Minh Thu, ông đã phân tích
lập luận của Việt Nam và Trung Quốc để đƣa ra những kết luận về cơ sở và
thời gian thực hiện chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trƣờng Sa.
Trong khi đó, Luật gia Đào Văn Thụy lại bàn về những chứng cứ lịch sử do
phía Trung Quốc đƣa ra, phân tích những điểm mập mờ, không chính xác,
thậm chí mâu thuẫn trong các lập luận của Trung Quốc, đồng thời so sánh với
những chứng cứ rõ ràng, rành mạch trong lập luận do Việt Nam đƣa ra để
chứng minh Việt Nam và quốc gia đầu tiên xác lập và thực hiện chủ quyền
liên tục đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trƣờng Sa.
Đáng chú ý, các nhà nghiên cứu phƣơng Tây cũng ngày càng quan tâm
hơn về vấn đề Biển Đông, cụ thể là hai quần đảo Hoàng Sa và Trƣờng Sa. Có
thể kể đến một số tác giả nhƣ Marwyn S. Samuels với cuốn sách “Contest for
the South China Sea (Tranh chấp Biển Đông)”, dày 225 trang, do Nhà xuất
10
bản Methuen London ấn hành năm 1982. Trong phần đầu của cuốn sách này,
tác giả đã nói tới những hoạt động của Trung Quốc trên khu vực Biển Đông
và kết luận rằng trong lịch sử ngƣời Trung Quốc tuy có các chuyến du hành
đƣờng dài để phát triển buôn bán cùng tham vọng khống chế các tuyến vận tải
đƣờng biển, nhƣng tham vọng này đã dần dần “chìm vào dĩ vãng” kể từ thế
kỷ XV khi các quốc gia hùng mạnh của châu Âu nhƣ Tây Ban Nha, Bồ Đào
Nha, Hà Lan tăng cƣờng giao thƣơng trong khu vực này. Một tác giả khác là
Giáo sƣ công pháp và khoa học chính trị trƣờng Đại học Paris VII, nguyên
Chủ tịch Hội luật gia dân chủ Pháp, nguyên Chủ tịch Hội Luật gia châu Âu –
bà Monique Chemillier – Gendreau với cuốn sách “La Souveraireté sur les
archipels Paracels et Spratleys (Chủ quyền trên hai quần đảo Hoàng Sa và
Trƣờng Sa)” do Nhà xuất bản L’Harmattan Paris ấn hành năm 1996. Cuốn
sách dày gần 300 trang của bà là một công trình nghiên cứu công phu, độc lập
và kéo dài nhiều năm, trong đó bà đã nói đến những chứng cứ lịch sử và đánh
giá lập luận của các bên, chủ yếu là Trung Quốc và Việt Nam, liên quan đến
hai quần đảo, rồi dựa trên việc áp dụng luật pháp và thực tiễn quốc tế để đƣa
ra những phân tích sâu sắc về vấn đề chủ quyền đối với hai quần đảo. Bà có
quan điểm khách quan khi cho rằng Việt Nam là nƣớc có đủ danh nghĩa thực
thi chủ quyền tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trƣờng Sa...
Hiện nay, các website và các diễn đàn trên mạng Internet có hàng ngàn
tài liệu liên quan đến Biển Đông nhƣ các trang http://nghiencuubiendong.vn/,
http://www.tranhchapbiendong.com/,
http://biendong.vntime.vn/,
http://truongsahoangsa.info/, http://www.mofa.gov.vn... Các trang mạng này
đăng tải rất nhiều nội dung khác nhau nhƣ các bài viết phân tích đánh giá, các
bài phát biểu, phân tích của những nhà lãnh đạo quốc gia trong các cuộc họp,
diễn đàn trong nƣớc và quốc tế hoặc của đại diện các cơ quan chức năng nhƣ
Ngƣời Phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam… liên quan đến vấn đề tranh chấp
chủ quyền giữa các bên có đòi hỏi chủ quyền tại Biển Đông.
Tất cả những tài liệu trên đều là những tƣ liệu quan trọng trong việc
nghiên cứu các vấn đề liên quan tình hình Biển Đông, đặc biệt là trong việc
khẳng định chủ quyền hợp pháp của Việt Nam đối với hai quần đảo Hoàng Sa
11
và Trƣờng Sa. Tuy nhiên, những tài liệu trên vẫn chƣa có nhiều thông tin mới
cập nhật về tình hình, diễn biến các sự kiện diễn ra gần đây. Mặt khác, tại
Việt Nam hiện nay, các hoạt động nghiên cứu, đánh giá về thực trạng tranh
chấp giữa các bên có đòi hỏi chủ quyền tại Biển Đông trong những năm đầu
vẫn còn hạn chế. Với những lý do đó, tác giả luận văn mong muốn đi sâu
nghiên cứu thực trạng vấn đề tranh chấp chủ quyền tại Biển Đông trong
những năm đầu thế kỷ XXI nhƣ là một công trình riêng, qua đó cố gắng bổ
sung thêm những thông tin mới về tình hình tranh chấp giữa các bên có đòi
hỏi chủ quyền tại Biển Đông, góp phần làm rõ hơn kết quả của các nghiên
cứu trƣớc đó về vấn đề này.
3. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU VÀ ĐÓNG GÓP CỦA
ĐỀ TÀI
* Mục đích: Đánh giá vai trò của Biển Đông đối với các nƣớc trong
khu vực, các nƣớc liên quan và thực trạng tranh chấp giữa các nƣớc có đòi hỏi
chủ quyền tại Biển Đông hiện nay, sau đó đƣa một số giải pháp chung nhằm
giải quyết tình trạng tranh chấp tại Biển Đông, đồng thời đề xuất một số kiến
nghị trong việc đấu tranh bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài
phán của Việt Nam tại Biển Đông. Qua đó, góp phần cung cấp tƣ liệu một
cách tổng hợp và có hệ thống về quá trình xác lập chủ quyền và thực trạng
tranh chấp giữa các nƣớc có đòi hỏi chủ quyền tại Biển Đông; rút ra những
luận điểm vững chắc chứng minh chủ quyền của Việt Nam tại hai quần đảo
Hoàng Sa và Trƣờng Sa; góp phần xây dựng nhận thức và trách nhiệm của
mỗi ngƣời dân Việt Nam trong việc đấu tranh giành lại chủ quyền hợp pháp
của Việt Nam tại hai quần đảo này.
* Nhiệm vụ:
- Nghiên cứu, đánh giá tầm quan trọng của Biển Đông trong môi
trƣờng chiến lƣợc mới.
- Tìm hiểu lịch sử tranh chấp chủ quyền của các quốc gia tại khu vực
Biển Đông, qua đó làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của thực trạng tranh chấp
tại Biển Đông giữa các bên liên quan.
12
- Nghiên cứu một số văn bản pháp lý liên quan việc giải quyết tình
trạng tranh chấp tại Biển Đông, đồng thời tìm hiểu thái độ và sự tham gia của
các bên tranh chấp đối với các văn bản pháp lý này.
- Phân tích quan điểm, lập trƣờng, thực trạng chiếm đóng và các hoạt
động của các nƣớc có tranh chấp chủ quyền tại Biển Đông hiện nay.
- Đánh giá việc giải quyết vấn đề tranh chấp tại Biển Đông thời gian qua,
từ đó đƣa ra một số giải pháp nhằm giải quyết tình trạng tranh chấp tại khu
vực này.
- Đề xuất một số kiến nghị trong việc đấu tranh bảo vệ chủ quyền,
quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam tại Biển Đông.
* Đóng góp của đề tài:
Đề tài “Thực trạng tranh chấp chủ quyền tại Biển Đông trong những
năm đầu thế kỷ XXI” là một đề tài vừa có ý nghĩa khoa học, vừa có ý nghĩa
thực tiễn.
Cho đến nay, Việt Nam tuy đã có nhiều công trình nghiên cứu chung về
tình hình Biển Đông và về chủ quyền của Việt Nam đối với các quần đảo tại
Biển Đông nhƣng các công trình nghiên cứu tập trung vào thực trạng tranh
chấp chủ quyền tại Biển Đông trong những năm đầu thế kỷ XXI vẫn còn hạn
chế. Do đó, về mặt khoa học, luận văn này sẽ góp phần nghiên cứu một cách
cụ thể, sâu sắc và toàn diện hơn về thực trạng tranh chấp chủ quyền tại Biển
Đông giữa các bên liên quan trong giai đoạn hiện nay.
Về mặt thực tiễn, việc nghiên cứu luận văn này sẽ tạo điệu kiện để đánh
giá một cách khoa học, trung thực và toàn diện về các vấn đề có liên quan đến
hoạt động tranh chấp giữa các bên có đòi hỏi chủ quyền tại Biển Đông trong
những năm đầu thế kỷ XXI, từ đó bƣớc đầu đƣa ra những giải pháp cho các
bên có đòi hỏi chủ quyền trong việc giải quyết tranh chấp tại Biển Đông, đồng
thời đề xuất một số kiến nghị cho Việt Nam trong việc khẳng định và bảo vệ
chủ quyền đối với những khu vực vốn thuộc chủ quyền của mình.
13
4. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
* Đối tƣợng: Thực trạng tranh chấp chủ quyền Biển Đông giữa các
nƣớc liên quan, giải pháp giải quyết vấn đề tranh chấp chủ quyền Biển Đông
hiện nay và những kiến nghị trong việc đấu tranh bảo vệ chủ quyền, quyền
chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam tại Biển Đông.
* Phạm vi: Đề tài tập trung nghiên cứu một số vấn đề liên quan đến thực
trạng tranh chấp Biển Đông nhƣ yêu sách chủ quyền, thực trạng chiếm đóng,
hoạt động thực địa, biện pháp giải quyết… giữa các nƣớc có yêu sách chủ
quyền tại khu vực này trong những năm đầu thế kỷ XXI (từ 2000 đến 2013).
5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đề tài đƣợc viết dựa trên các phƣơng pháp khoa học nhƣ: thu thập dữ
liệu, phân tích, tổng hợp, đối chiếu, so sánh, lịch sử, lôgic, hệ thống hóa. Các
phƣơng pháp này giúp cho việc đánh giá thực trạng vấn đề tranh chấp Biển
Đông một cách tổng thể, toàn diện, theo trình tự thời gian và trong bối cảnh
lịch sử cụ thể. Ngoài ra, do đề tài luận văn có đề cập tới tranh chấp chủ quyền
tại Biển Đông giữa nhiều nƣớc trong giai đoạn hiện nay nên tác giả còn sử
dụng các phƣơng pháp nghiên cứu quốc tế khi phân tích những vấn đề liên
quan đến quan hệ đối ngoại của các nƣớc.
6. NGUỒN TÀI LIỆU THAM KHẢO
Vấn đề tranh chấp chủ quyền tại Biển Đông giữa các nƣớc đƣợc đề cập
nhiều trong các công trình nghiên cứu, các sách báo, tạp chí, tài liệu lịch sử.
Do đó đề tài nghiên cứu này sẽ sử dụng những nguồn tài liệu tham khảo:
Nguồn tài liệu gốc gồm: Các văn kiện pháp lý, các văn kiện Đảng Cộng
sản Việt Nam, sách, những công trình nghiên cứu, báo và tạp chí về vấn đề
Biển Đông, các website bằng tiếng Việt và tiếng Anh.
7. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn đƣợc kết cấu gồm 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Khái quát về tình hình Biển Đông
14
Chƣơng 2: Thực trạng tranh chấp chủ quyền tại Biển Đông trong những
năm đầu thế kỷ XXI
Chƣơng 3: Giải pháp cho vấn đề tranh chấp chủ quyền tại Biển Đông
và một số kiến nghị đối với Việt Nam
Trong quá trình hoàn thành luận văn này, tác giả đã tranh thủ sự hƣớng
dẫn sát sao của giáo viên hƣớng dẫn, cố gắng đầu tƣ nhiều thời gian, công sức
để thu thập tài liệu và tổ chức nghiên cứu. Tuy nhiên, đây là một chủ đề có
phạm vi nghiên cứu rộng, khối lƣợng công việc nhiều, hơn nữa tác giả còn có
những hạn chế nhất định nên luận văn không tránh khỏi những khiếm khuyết
cần đƣợc tiếp tục bổ sung, hoàn chỉnh.
15
CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ TÌNH HÌNH BIỂN ĐÔNG
1.1Khái quát về Biển Đông
1.1.1Vị trí địa lý
Trải dài hơn 1.800 dặm từ Sumatra tới Đài Loan, nối liền Ấn Độ
Dƣơng với Thái Bình Dƣơng trong phạm vi từ vĩ độ 3 độ lên đến vĩ độ 26 độ
Bắc và từ kinh độ 100 độ đến 121 độ Đông, Biển Đông có diện tích khoảng
3,5 triệu km² (là hình thể biển lớn nhất sau 5 đại dƣơng). Biển Đông đƣợc bao
quanh bởi các nƣớc và vùng lãnh thổ gồm: Trung Quốc đại lục, Đài Loan,
Philippines, Brunei, Malaysia, Indonesia, Singapore, Thái Lan, Campuchia và
Việt Nam.
Biển Đông có 4 nhóm đảo, gồm quần đảo Đông Sa nằm ở phía Đông
Bắc Biển Đông; quần đảo Hoàng Sa (gồm 18 đảo, cồn và 22 bãi, đá) nằm ở
phía Tây Bắc Biển Đông, cách đảo Lý Sơn của Việt Nam khoảng 200km và
cách đảo Hải Nam, Trung Quốc 235 km; bãi Trung Sa (hầu hết các đảo đá tại
bãi Trung Sa đều là bãi chìm) và quần đảo Trƣờng Sa (gồm 230 đảo, đá chìm
và đảo nhỏ, có diện tích khoảng 800 nghìn km², chiếm khoảng 38% tổng diện
tích Biển Đông) nằm bên trong vùng biển. Ngoài ra, các eo biển lớn nhƣ
Malacca, Lombok và Sunda đều thuộc vùng biển này.
Trung Quốc gọi vùng biển này là biển Nam Trung Hoa, Việt Nam gọi là
Biển Đông, Philippines gọi là biển Luzon hoặc biển Tây Philippines. Tên gọi
quốc tế của Biển Đông ra đời từ nhiều thế kỷ trƣớc là biển Nam Trung Hoa vì
Trung Quốc là nƣớc lớn, sớm phát triển và có giao thƣơng với phƣơng Tây.
1.1.2 Tầm quan trọng của Biển Đông
Biển Đông là tuyến đường biển quan trọng bậc nhất thế giới
Biển Đông là tuyến hàng hải nhộn nhịp lớn thứ hai thế giới, bao gồm
các tuyến giao thông đƣờng biển huyết mạch nối liền Thái Bình Dƣơng với
Ấn Độ Dƣơng, châu Âu với châu Á, Trung Đông với châu Á. Năm trong số
mƣời tuyến đƣờng biển lớn nhất trên thế giới đi qua Biển Đông là: (1) Tuyến
16
Tây Âu, Bắc Mỹ đến Địa Trung Hải và kênh đào Suez; (2) Tuyến Trung
Đông đến Ấn Độ, Đông Á, Australia và New Zealand; (3) Tuyến Đông Á đi
qua kênh đào Panama đến bờ Đông Bắc Mỹ và Caribe; (4) Tuyến Đông Á đi
Australia, New Zealand và Nam Thái Bình Dƣơng; (5) Tuyến Tây Bắc Mỹ
đến Đông Á và Đông Nam Á.
Nhiều nƣớc và lãnh thổ ở khu vực Đông Á nhƣ Trung Quốc, Nhật Bản,
Hàn Quốc, Đài Loan và Hồng Kông có nền kinh tế phụ thuộc sống còn vào
tuyến đƣờng biển này. Đây là đƣờng vận chuyển dầu và là nơi diễn ra các
hoạt động thƣơng mại thiết yếu từ Trung cận Đông và Đông Nam Á của các
nƣớc nói trên (khoảng 70% khối lƣợng dầu mỏ nhập khẩu và 45% khối lƣợng
hàng hóa xuất khẩu của Nhật Bản đƣợc vận chuyển qua Biển Đông, hàng hóa
xuất khẩu của các nƣớc Đông Nam Á qua đây là 55%, các nƣớc công nghiệp
mới là 26%, Australia là 40%; hơn 90% lƣợng vận tải thƣơng mại của thế giới
thực hiện bằng đƣờng biển và 45% trong số đó phải đi qua Biển Đông)2.
Đáng chú ý, khu vực Đông Nam Trung Quốc và Đông Nam Á có
khoảng 536 cảng biển, trong đó có hai cảng vào loại lớn và hiện đại nhất thế
giới nằm ở Singapore và Hồng Kông. Tốc độ gia tăng hàng hải tại Biển Đông
cũng tỷ lệ thuận với tăng trƣởng kinh tế của các nƣớc xung quanh khu vực
này, tiêu biểu là Trung Quốc. Với sự phụ thuộc ngày càng lớn vào vận tải
đƣờng biển, Trung Quốc đã trở thành nền kinh tế lớn thứ hai thế giới và là
nƣớc xuất khẩu hàng hóa lớn nhất trên thế giới. Hiện Trung Quốc có 29/39
tuyến đƣờng hàng hải qua Biển Đông, 60% lƣợng hàng hóa xuất nhập khẩu và
90% lƣợng dầu mỏ nhập khẩu của Trung Quốc đƣợc vận chuyển qua đây3.
Biển Đông có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú
Vị trí địa lý và khí hậu nhiệt đới mƣa nhiều đã tạo cho vùng Biển Đông
có hệ sinh học đa dạng, phong phú bậc nhất thế giới, cả về cấu trúc thành
phần loài, hệ sinh thái và nguồn gen. Cho đến nay, trong vùng biển này đã
2
Trần Nam Tiến (2011), Hoàng Sa Trường Sa: Hỏi và đáp, Nxb Trẻ, tr.28
Fenna Egberink and Frans-Paul van der Putten (4/2011), ASEAN, China’s Rise and geopolitical Stability in
Asia, Netherlands Institute of international relations Clingendael, Clingendael papers No. 2, pg. 32
3
17
phát hiện đƣợc khoảng 11.000 loài sinh vật, trong hơn 20 kiểu hệ sinh thái
điển hình. Trong đó có khoảng 6.000 loài động vật đáy, 2.038 loài cá, trên
100 loài cá kinh tế, hơn 300 loài san hô cứng, 300 loài cua, 300 loài trai, ốc,
hải sâm, 225 loài tôm, 25 loại mực, 7 loại bạch tuộc, 15 loài rắn biển, 12 loài
thú biển, 5 loài rùa biển và khoảng 2000 loài thực vật biển…4
Nguồn tài nguyên sinh vật biển quan trọng đã mang đến những ƣu thế
cho đời sống và sự phát triển kinh tế của các nƣớc xung quanh Biển Đông.
Với những khu vực đánh bắt và nuôi trồng hải sản rộng lớn, quy mô hàng đầu
thế giới và có thể khai thác quanh năm, mỗi năm sản lƣợng hải sản (chủ yếu
là cá) thu hoạch đƣợc khá lớn, khoảng 7-8 triệu tấn với cơ cấu rất phong phú
và có giá trị kinh tế cao. Trong đó, Trung Quốc là nƣớc đánh bắt cá lớn nhất
thế giới (khoảng 4,5 triệu tấn/năm), Thái Lan đứng thứ 10 thế giới (với
khoảng 1,5 - 2 triệu tấn/năm), cả khu vực đánh bắt khoảng 10% tổng sản
lƣợng đánh bắt cá trên toàn thế giới 5.
Theo cơ quan năng lƣợng thế giới (IEA), Biển Đông là một trong năm
bồn trũng chứa dầu khí lớn nhất thế giới nhƣ bồn địa Saba (Brunei), Natuna
(Indonesia), Suba, Sarawak (Malaysia), Pattani (Thái Lan)... Ngoài các khu vực
trũng địa chất trên, vùng biển bao quanh quần đảo Trƣờng Sa cũng đƣợc đánh
giá là giàu có về nguồn lợi dầu mỏ. Hiện nay, hầu hết các nƣớc trong khu vực
đều là những nƣớc khai thác và sản xuất dầu khí từ biển nhƣ Trung Quốc, Việt
Nam, Malaysia, Brunei, Indonesia, Thái Lan… trong đó Indonesia là thành
viên của Tổ chức các nƣớc xuất khẩu dầu mỏ OPEC. Theo đánh giá của Bộ
Năng lƣợng Mỹ, trữ lƣợng dầu đã đƣợc kiểm chứng ở Biển Đông là 7 tỉ thủng
(bằng 1 tỷ tấn dầu) với khả năng sản xuất 2,5 triệu thùng/ngày, còn con số ƣớc
tính là khoảng 30 tỷ thùng. Theo dự đoán của Cục Khảo sát Địa chất Hoa Kỳ
(USGS), khu vực này có thể chứa trữ lƣợng lớn gần gấp hai lần trữ lƣợng dầu
hiện Trung Quốc đã phát hiện. Theo báo chí Trung Quốc, trữ lƣợng dầu tại
4
5
http://www.seafoodsource.com/ (FAO: Aquaculture nearly half of global seafood production)
http://www.seafoodsource.com/ (FAO: Aquaculture nearly half of global seafood production
18
Biển Đông đủ đáp ứng nhu cầu sử dụng của Trung Quốc trong khoảng 60
năm tới6.
Về nguồn tài nguyên băng cháy (Hydrocacbon), theo các nhà khoa học
của USGS, khu vực biển Hoàng Sa và Trƣờng Sa còn chứa đựng tài nguyên
khí đốt băng cháy rất dồi dào, khoảng 3.790 tỷ khối. Trữ lƣợng loại tài nguyên
này trên thế giới ngang bằng với dầu khí và đang đƣợc coi là nguồn năng lƣợng
thay thế dầu khí trong tƣơng lai gần. Trung Quốc có kế hoạch là nƣớc đi tiên
phong trong lĩnh vực khai thác và sử dụng năng lƣợng băng cháy ở quy mô
công nghiệp (bắt đầu từ năm 2013). Ngoài ra, Biển Đông còn nhiều khoáng sản
quý nhƣ mangan, thiếc, titan, silicat, cobalt… là nguyên liệu quan trọng trong
nhiều lĩnh vực nhƣ chế tạo tên lửa đạn đạo, máy móc chính xác, công nghiệp
hàng không và điện tử.
Biển Đông có ý nghĩa phòng thủ chiến lược quan trọng
Do có thể bố phòng quân sự, đặt trạm ra đa, do thám thông tin, xây
dựng các trạm dừng chân và tiếp tế cho tàu bè… tại các quần đảo thuộc Biển
Đông nên ngay từ những năm 1930 – 1933 Pháp đã tăng cƣờng thúc đẩy việc
thiết lập, thực thi chủ quyền hiệu quả (nhân danh Hoàng đế An Nam) ở
Trƣờng Sa và Hoàng Sa, cho xây dựng bia chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa
(1938) cùng một ngọn hải đăng, hai đài quan sát khí tƣợng, đồn trú quân và
thực thi chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa. Vào năm 1939, Nhật Bản xuất
phát từ quan điểm bảo vệ tuyến đƣờng biển, phục vụ cho cuộc hành quân về
phƣơng Nam và xâm lƣợc Đông Nam Á đã chiếm quần đảo Hoàng Sa và
Trƣờng Sa. Pháp đã phản đối điều này và Nhật Bản phải rút khỏi hai quần đảo
này khi bị thất bại trong Chiến tranh thế giới thứ hai.
Với Mỹ, Biển Đông là tuyến vận chuyển đƣờng biển trọng yếu khi 3
trong 10 tuyến đƣờng biển của Mỹ ở Tây Thái Bình Dƣơng là qua Biển Đông.
Vì vậy, kể từ Chiến tranh thế giới thứ 2, Biển Đông luôn là con đƣờng chiến
lƣợc không chỉ để đi từ Thái Bình Dƣơng qua Ấn Độ Dƣơng đến Trung Đông
mà còn là “con mắt” cảnh báo an ninh đối với Mỹ từ nửa vòng trái đất. Về vai
trò của các quần đảo trong Biển Đông, các chuyên gia quân sự Mỹ cho rằng,
6
Yang Fuchang (2003), Contemporary China and Its Foreign Policy, World Affairs, May 5, pg.8
19
- Xem thêm -