A. PHẦN MỞ ĐẦU
I.Lý do chọn đề tài
Trong các môn học ở tiểu học, môn Tiếng Việt là môn có vị trí hết sức quan
trọng. Nó cung cấp vốn ngôn ngữ, xây dựng nền tảng kiến thức. Nó còn là công
cụ giúp cho học sinh học các môn khác. Đặc biệt phân môn Luyện từ và câu là
phân môn rèn học sinh kỹ năng nghe, đọc, nói , viết trong đó kỹ năng nói là
yêu cầu cơ bản khá trọng tâm ở phân môn Luyện từ và câu.
Qua mỗi tiết Luyện từ và câu, các em được mở rộng một lượng vốn từ nho
nhỏ, tích lũy cho mình một vốn từ phong phú và đa dạng…Nhưng điều quan
trọng hơn là các em biết cách dùng từ ngữ, câu văn để diễn đạt một ý, liên kết
các ý trong một đoạn, một bài. Đấy chính là yêu cầu rèn kĩ năng nói cho học
sinh.
Qua thực tế giảng dạy nhiều năm, tôi thấy dạy học sinh nói được một câu hay,
giàu cảm xúc là một kĩ năng khó của phân môn Luyện từ và câu. Bởi vậy, hiệu
quả giờ dạy Luyện từ và câu còn hạn chế. Một phần người dạy còn chưa tìm ra
quy trình và phương pháp dạy thích hợp. Hơn nữa đây là phân môn hoàn toàn
khó đối với học sinh lớp1, 2.. Với đối tượng này vốn từ ít, kỹ năng diễn đạt còn
hạn chế, các em đọc còn chưa lưu loát vì vậy ít nhiều hạn chế đến khả năng đặt
câu đúng, câu hay, diễn đạt bằng lời nói, lời kể và cách diễn xuất của mình qua
từng đoạn chuyện, câu chuyện. Vì vậy, các em thiếu tính mạnh dạn, tính tự tin
trong học tập .
Để khắc phục tình trạng trên nhiệm vụ đặt ra cho tôi là làm thế nào để học sinh
mở rộng được vốn từ ngữ của mình một cách sâu sắc, có một vốn từ phong phú
và đa dạng?
Vì những lý do trên tôi mạnh dạn nghiên cứu đề tài : “ Một số biện pháp dạy
học giúp học sinh lớp 2A trường Tiểu học Lý Thường Kiệt làm giàu vốn từ ngữ
trong phân môn Luyện từ và câu”, để góp phần nâng cao chất lượng học môn
Luyện từ và câu nói riêng và học Tiếng Việt nói chung trong nhà trường Tiểu
học.
II. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài
1.Mục đích nghiên cứu
Đề tài nhằm mục đích nghiên cứu, đề xuất những biện pháp góp phần vào đổi
mới cách dạy học sinh mở rộng vốn từ ngữ trong phân môn Luyện từ và câu ở
lớp 2. Từ cách đổi mới phương pháp dạy của thầy góp phần đổi mới cách học
của trò. Phát huy hết khả năng tự phát hiện của học sinh thông qua cách tổ chức
dạy học của giáo viên và cách học của học sinh.
Qua đề tài này tôi mong muốn được góp một phần nhỏ vào việc rèn luyện cho
học sinh kỹ năng chính:
– Làm giàu vốn từ ngữ cho học sinh
– Biết sử dụng từ ngữ trong đời sống hàng ngày.
2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Do thời gian nghiên cứu có hạn nên đề tài này tôi chỉ tập trung hướng tới giải
quyết các nhiệm vụ sau:
+ Tìm hiểu thực trạng về vốn từ của học sinh trong phân môn Luyện từ và câu
ở lớp 2 nói chung và lớp 2A nói riêng.
+ Đề xuất các giải pháp giúp giáo viên áp dụng một số phương pháp vào việc
làm giàu vốn từ ngữ cho học sinh trong phân môn Luyện từ và câu.
3.Đối tượng nghiên cứu:
– Một số biện pháp giúp học sinh lớp 2a làm giàu vốn từ ngữ trong phân môn
Luyện từ và câu
4 .Khách thể nghiên cứu
Học sinh lớp 2, đặc biệt là học sinh lớp 2A trường Tiểu học Lý Thường Kiệt
5. Phạm vi nghiên cứu
– Đề tài hướng dẫn học sinh mở rộng vốn từ nhằm phát huy tính tích cực của
học sinh trong môn Luyện từ và câu bao gồm các nội dung cụ thể sau:
* Nghiên cứu kĩ nội dung sách giáo khoa, vở bài tập, các loại sách tham khảo
Tiếng Viêt lớp 2 để giáo viên nắm chắc trọng tâm chương trình môn học
* Điều tra tình hình thực tiển những vấn đề có liên quan đến đề tài:
+Trao đổi với đồng nghiệp để đánh giá khả năng nhận thức dạy học sinh biết
tìm từ ngữ xoay quanh một chủ đề. chủ điểm để từ đó rút ra bài học có giá trị.
+Dự giờ giáo viên cùng khối để nắm phương pháp giảng dạy hướng dẫn học
sinh mở
rộng vốn từ để rút ra bài học kinh nghiệm.
+Đề xuất một số giải pháp về hướng dẫn học sinh mở rộng vốn từ ngữ trong
phân môn Luyện từ và câu. Từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cùng với kết quả
nghiên cứu của đề tài.
6.Phương pháp nghiên cứu
+ Phương pháp thống kê.
+ Phương pháp trò chuyện.
+ Phương pháp đọc sách và tài liệu.
+ Phương pháp thực nghiệm.
+ Phương pháp phân tích, tổng hợp
B : PHẦN NỘI DUNG
I.Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn
1.Cơ sở lý luận
Trong những năm gần đây, phong trào đổi mới phương pháp dạy học trong
trường Tiểu học được quan tâm và đẩy mạnh không ngừng để ngay từ cấp Tiểu
học, mỗi học sinh đều cần và có thể đạt được trình độ học vấn toàn diện, đồng
thời phát triển được khả năng của mình về một môn học, nhằm chuẩn bị ngay từ
bậc Tiểu học những con người chủ động, sáng tạo đáp ứng được mục tiêu chung
của cấp học và phù hợp với yêu cầu phát triển của đất nước.
Giáo dục Tiểu học là cơ sở ban đầu hết sức quan trọng, đặt nền móng cho sự
phát triển toàn diện con người, đặt nền tảng cho giáo dục phổ thông. Vì vậy
phương pháp dạy học ở bậc tiểu học có tầm quan trọng đặc biệt, góp phần hình
thành cho học sinh phương pháp học tập đúng đắn, hình thành nếp tư duy sáng
tạo ngay từ khi các em bắt đầu đến trường phổ thông.
Trong các môn học ở tiểu học môn Tiếng Việt là môn có vị trí hết sức quan
trọng. Nó cung cấp vốn ngôn ngữ, xây dựng nền tảng kiến thức ban đầu còn là
công cụ giúp cho học sinh học các môn khác. Đặc biệt là phân môn Luyện từ và
câu là phân môn đóng vai trò quan trọng đối với việc phát triển ngôn ngữ của
học sinh nói chung và của học sinh lớp Hai nói riêng. Trong thực tế môn Luyện
từ và câu có vị trí rất quan trọng là chìa khóa mở ra kho tàng văn hóa trên mọi
lĩnh vực đời sống xã hội của con người.Hơn nữa phân môn Luyện từ và câu
giúp học sinh lĩnh hội Tiếng việt, văn hóa là công cụ giúp học sinh sử dụng
Tiếng Việt đạt hiệu quả tốt mà còn học tốt các môn học khác, rèn cho học sinh
bốn kỹ năng nghe, đọc, nói, viết thành thạo.
Qua thực tế giảng dạy nhiều năm, tôi thấy dạy học sinh biết cách giao tiếp tốt,
viết được đoạn văn ngắn thì phải làm giàu vốn ngôn ngữ cho học sinh. Làm
giàu vốn ngôn ngữ cho học sinh lớp Hai là một việc làm quan trọng trong phân
môn Luyện từ và câu.Việc phát triển và làm giàu vốn ngôn ngữ cho học sinh
góp phần giúp học sinh có kĩ năng dùng từ để đặt câu và giao tiếp tốt. Hơn
nữa, phân môn Luyện từ và câu hoàn toàn mới đối với học sinh lớp 2. Vì các
em từ lớp 1 lên, các em mới làm quen với thể loại này. Với đối tượng này vốn
từ ít, kỹ năng nói và viết diễn đạt còn hạn chế. Học sinh chưa hiểu sâu về nghĩa
các từ ngữ và bản chất của câu nên khi nói và viết một đoạn văn các em thường
bộc lộ các yếu điểm về diễn đạt như : từ lặp lại nhiều, câu không rõ nghĩa, các
câu trong đoạn văn còn lộn xộn, viết đoạn văn mang tính chất trả lời câu hỏi.
Học sinh thường dập khuôn theo sự hướng dẫn của giáo viên.
2. Cơ sở thực tiễn
Bước vào đầu năm học, nhà trường phân công cho tôi chủ nhiệm lớp 2a. trong
quá trình trực tiếp giảng dạy các em tôi cảm thấy hầu hết các em chưa biết nói
thành câu. Các em giao tiếp với nhau lời lẽ cụt ngủn, đôi khi nói năng cộc lốc
không lịch sự. Ngôn ngữ của các em rất hạn chế, vốn sống còn ít, vốn hiều biết
về Tiếng Việt chưa nhiều, việc nói và viết thành câu, thành một đoạn văn gặp
nhiều khó khăn.
Việc dạy từ ngữ cho học sinh chính là quá trình giáo viên khơi dậy sự hiểu biết
và cảm nhận của các em về người, vật và cuộc sống xung quanh. Điều đó đòi
hỏi giáo viên có phương pháp mở rộng vốn từ giúp các em tìm được nhiều từ
ngữ và biết sử dụng từ ngữ một cách thích hợp, sử dụng từ chính xác và hay
khi nói và viết. Song thực tế chỉ ra rằng một số học sinh lớp 2 vốn sống của các
em còn hạn chế do đó khi diễn đạt nói và viết học sinh còn gặp nhiều khó khăn.
II. Thực trạng và nguyên nhân
1.Thực trạng
a.Thuận lợi
-Trường Tiểu học Lý Thường Kiệt được nằm giữa trung tâm của xã EaM’nang,
dân cư đông đúc, chủ yếu là người Kinh. Trường được sự quan tâm của các cấp
ủy đảng và chính quyền địa phương. Được sự quan tâm của sở, phòng giáo dục
huyện nhà đã cung cấp đầy đủ cơ sở vật chất, trang thiết bị, đồ dùng dạy học.
-Ban giám hiệu luôn quan tâm tới việc chỉ đạo đổi mới phương pháp và hình
thức tổ chức dạy học, chỉ đạo thực hiện công tác nâng cao chất lượng giáo dục
toàn diện cho thế hệ trẻ. Dạy học đã và đang chuyển hướng từ chủ yếu là trang
bị kiến thức sang trang bị những năng lực cần thiết cho học sinh.
-Giáo viên tích cực tìm tòi đổi mới phương pháp, dạy học luôn luôn lấy học
sinh làm trung tâm.
-Lớp 2A rất thuận lợi được học 7 buổi trên tuần. Đa số học sinh ngoan ngoãn,
biết vâng lời thầy cô giáo.
b.Khó khăn
Năm học 2014-2015, nhà trường phân công cho tôi chủ nhiệm lớp 2A, tổng số
học sinh là 30 em, nữ 15 em, dân tộc thiểu số 3 em, con hộ nghèo và cận nghèo
6 em
100% Học sinh bố mẹ làm nông nghiệp. Mặt bằng dân trí không đồng đều. Một
số gia đình không quan tâm nhiều đến sự học tập của con em mình, sự học hành
của con em họ thường phó mặc cho nhà trường.
c.Điều tra thực trạng
-Hằng ngày, trên lớp, vào những giờ ra chơi, tôi thường xuyên chuyện trò với
các em, hỏi han về gia đình, sở thích của các em, vừa tạo môi trường thân thiện,
thân mật gần gũi giữa giáo viên và học sinh vừa tìm hiểu về cách giao tiếp bằng
ngôn ngữ của các em. Qua những cuộc chuyện trò với học sinh tôi thấy khoảng
hơn một phần ba số học sinh trong lớp đã chủ động đến để nói chuyện với cô.
Số còn lại e dè không dám nói hoặc nói rất ít. Những em chủ động đến nói
chuyện với tôi thì thấy các em diễn đạt ngôn ngữ có phần trôi chảy hơn những
em nói ít.
Qua tất cả các giờ học trên lớp, tôi thường quan sát về thái độ học tập, về cách
dùng từ ngữ, cách diễn đạt các câu trả lời của học sinh trong những tuần đầu của
năm học, tôi thấy thực trạng của học sinh như sau:
+ Quan sát học sinh khi học môn luyện từ và câu, tôi yêu cầu các em tìm từ ngữ
thuộc các chủ đề, chủ điểm đang học. Đa số các em tìm được rất ít từ, chỉ khi cô
giáo gợi mở sát vào từng ngữ cảnh học sinh mới tìm được từ mà giáo viên yêu
cầu.
+ Quan sát học sinh khi học môn tập đọc, phần giải nghĩa từ đa số các em
không hiểu bản chất của từ nên các em không giải nghĩa được, khi tìm hiểu nội
dung của bài tập đọc, giáo viên nêu câu hỏi thì có khoảng ¼ số học sinh trong
lớp xung phong trả lời câu hỏi. Tuy học sinh có hiểu ý nội dung câu hỏi nhưng
vì học sinh chưa diễn đạt được câu trả lời trọn vẹn. Số học sinh còn lại rụt rè
không dám giơ tay phát biểu vì các em không tự tin khi nói và khi trả lời các em
thường bê luôn cả đoạn văn hay một khổ thơ chứ chưa biết trả lời theo ý hiểu
của mình.
+ Qua tiết học Tập làm văn tôi thường quan sát các em trong việc trả lời câu
hỏi, đặt câu, viết đoạn văn ngắn từ 3-5 câu. Tôi thấy các em đa số chưa biết đặt
câu, sử dụng từ chưa chính xác, chỉ hơn ¼ số học sinh biết dùng một số mẫu
câu đơn giản.
Ngoài ra, tôi còn quan sát các em khi các em giao tiếp bằng ngôn ngữ với nhau ,
tôi thấy các em nói năng còn cộc lốc chưa có chủ-vị. Các em giao tiếp với nhau
chưa tỏ thái độ thân thiện và lịch sự.
Qua quá trình thực hiện phương pháp quan sát trên tất cả các lĩnh vực tôi thấy
ngôn ngữ của các em còn rất hạn chế, việc trả lời câu hỏi thường thiếu phần chủ
ngữ,câu cú còn lộn xộn, gọn lỏn. Sử dụng ngôn ngữ trong văn bản còn nghèo
nàn.
Tôi theo dõi việc tiếp thu bài học của học sinh trong một tháng đầu của năm học
và tiến hành điều tra kết quả học tập môn Luyện từ và câu của lớp.
Kết quả điều tra giai đoạn giữa tháng 9 như sau:
Sau khi dạy các bài Luyện từ và câu tuần 1,2,3,4 mở rộng vốn từ về sự vật và
mở rộng vốn từ ngữ về học tập.
Tôi ra 1 bài tập cho học sinh làm vào giấy:
1. Tìm từ?
– Tìm 5 từ chỉ đồ dùng học tập:………………….
-Tìm 5 từ chỉ các bộ phận bên ngoài của người:………..
-Tìm 5 từ có tiếng chăm:……………….
2. Đặt một câu với 1 từ vừa tìm được
Mẫu: Em chăm chỉ học tập.
Sau khi học sinh làm bài xong, tôi kiểm tra bài tập của các em, tôi thấy các em
có vốn từ rất ít chỉ tìm được vài ba từ, chứ chưa tự tìm được các từ theo yêu cầu
của cô giáo đã giao. Tôi cho học sinh đặt 1 câu với một trong các từ tìm được
thì học sinh đa số không biết dùng từ để đặt câu, giáo viên phải nói câu mẫu học
sinh mới đặt được câu theo dập khuôn một cách máy móc
Kết quả đạt được như sau :
TÌM TỪ
ĐẶT CÂU
Giai
đoạn
TỪ CHỈ DD HỌC
TỪ CÓ TIẾNG
CÂU
đầu
TẬP
CHĂM
ĐÚNG
CÂU SAI
NGỮ
PHÁP
th tháng TÌM ĐỦ, CHƯA
9
Lớp 2a:
ss:30
TÌM ĐỦ, CHƯA
ĐÚNG( 5 ĐẠT
ĐÚNG( 5 ĐẠT
TỪ)
YC
TỪ)
YC
SL %
SL %
SL %
SL %
5
16,6 25 83,4 5
SL %
16,6 25 83,4 8
SL
26,7 22
%
73,3
Nhìn vào bảng dữ liệu, số lượng học sinh của lớp 2a có vốn từ quá ít ỏi, biết
dùng từ để đặt câu đúng theo một chủ điểm chỉ có 8 em .Số lượng học sinh viết
thành câu chưa đúng ngữ pháp chiểm quá nhiều 73,3%. Đa số các em còn trả lời
theo câu hỏi gợi ý, chứ chưa biết đặt một câu hoàn chỉnh, một số các em
còn viết câu lộn xộn.
d. Mặt mạnh, mặt yếu
*Mặt mạnh: Bản thân tôi đã có 18 năm trong nghề dạy học. Tôi là người luôn
luôn tận tụy với công việc, yêu nghề, mến trẻ, luôn thích tìm tòi học hỏi kinh
nghiệm của đồng nghiệp, có ý chí phấn đấu, không sợ khó khăn gian khổ. Nhiều
năm liền là giáo viên dạy giỏi cấp huyện, cấp tỉnh, nhiều năm liền đạt chiến sĩ
thi đua cấp cơ sở. Chính vì thế, tôi muốn đầu tư công sức để nghiên cứu đề tài
này góp phần vào việc nâng cao hiệu quả dạy học phân môn Luyện từ và câu có
chất lượng cao.
Ngoài nỗ lực của bản thân, tôi còn được các đồng chí đồng nghiệp giúp đỡ tạo
điều kiện thuận lợi như góp ý kiến, thao giảng cho tôi dự giờ lấy kinh nghiệm
để tôi hoàn thành đề tài này.
* Mặt yếu: Thời gian để thực nghiệm chưa nhiều, nên phần nào kết quả học tập
của học sinh chưa đạt tối đa như ý muốn. Trình độ viết sáng kiến còn hạn hẹp,
câu từ để trình bày ý tưởng chưa được trau chuốt và làm sáng tỏ rõ trong đề tài,
vì thế đề tài còn có nhiều khuyết điểm.
2.Nguyên nhân
Sau khi điều tra,tôi thấy những nguyên nhân chính ảnh hưởng trực tiếp đến việc
sử dụng từ ngữ trong giao tiếp, trong việc sử dụng từ để đặt câu trong một câu
văn của học sinh lớp 2 nói chung và của học sinh lớp 2a nói riêng là:
2.1 Về tâm sinh lí
Nguyên nhân chính là các em tuổi còn nhỏ.Các em mới học từ lớp Một lên lớp
Hai vốn từ ngữ của các em còn hạn chế, thậm chí còn quá nghèo nàn ít ỏi. Cách
giao tiếp bằng ngôn ngữ của các em chưa hoàn chỉnh, nói năng còn cộc lốc.
Chính vì vốn từ ngữ còn hạn chế nên việc nói và viết không thành câu, viết một
đoạn văn ngắn còn lúng túng, lủng củng.
2.2 Về hoàn cảnh gia đình của học sinh
Học sinh lớp 2a do tôi chủ nhiệm, 100% con nhà làm nông nghiệp, dân trí thấp.
Số hộ nghèo và cận nghèo (6 hộ), số gia đình còn lại mức sống cũng chỉ đủ ăn.
Nhiều gia đình chưa có chỗ học riêng cho con cái. Cha mẹ các em chưa chú
trọng đến việc rèn cho con mình nói năng, xưng hô như thế nào cho lễ phép,
cho lịch sự. Con cái giao tiếp với ông bà, cha mẹ, anh chị em của mình đa số trả
lời cụt ngủn chưa thành câu, lâu dần thành thói quen.
-Mặt khác, do thực tế học sinh mới được làm quen với phân môn Luyện từ và
câu ở lớp hai nên học sinh còn nhiều bỡ ngỡ, chưa có phương pháp học tập bộ
môn một cách khoa học và hợp lí.Tài liệu tham khảo của các em chưa nhiều, đồ
dùng dạy học, phương tiện chủ yếu là tranh trong sách giáo khoa. Chính vì lẽ đó
một phần nào cũng ảnh hưởng đến việc giao tiếp của trẻ, nói và viết chưa thành
câu.
III. GIẢI PHÁP, BIỆN PHÁP
Căn cứ thực trạng của học sinh đã được nêu ở trên, căn cứ vào thực tế giảng
dạy, tôi luôn suy nghĩ: ” làm thế nào để học sinh mở rộng được vốn từ của mình
một cách sâu sắc?”. sau thời gian nghiên cứu, tìm tòi tôi đã đúc kết được một số
những kinh nghiệm trong việc mở rộng vốn từ ngữ cho học sinh như sau:
1.Cung cấp, mở rộng và nhân vốn từ ngữ cho học sinh
*.Mục tiêu: Cung cấp vốn từ giúp học sinh có vốn từ phong phú, để học
sinh tự tin trong giao tiếp, biết dùng từ để đặt câu trong mọi tình huống giao
tiếp, biết nói và viết những câu văn hay giàu cảm xúc, các em có khả năng diễn
đạt được trí tưởng tượng của mình trong từng câu truyện kể…
*Nội dung và cách thức thực hiện
Với lứa tuổi của các em học sinh lớp 2, vốn từ của các em còn nghèo nàn, việc
sử dụng từ ngữ trong giao tiếp còn nhiều hạn chế. Hầu hết học sinh sử dụng từ
ngữ chưa phù hợp, chưa chính xác. Vì vậy, tôi đã cung cấp vốn từ cho học sinh
giúp các em lựa chọn, phân tích để sử dụng từ ngữ cho hợp lý. Khi dạy Luyện
từ và câu tôi đã chú trọng mở rộng vốn từ cho học sinh, bằng cách cho các em
thi nhau tìm những từ ngữ thuộc chủ đề, chủ điểm các em đang học, khuyến
khích học sinh tìm càng nhiều từ càng tốt. Khi học sinh không tìm được từ
nhiều, tôi đã nêu câu hỏi gợi mở để các em hiểu và dễ dàng tìm được.
Bên cạnh đó, tôi đã giới thiệu, cung cấp thêm các từ đồng nghĩa, gần nghĩa, trái
nghĩa phù hợp với chủ đề các em học.
a.Về từ cùng nghĩa
Học sinh lớp hai chưa học khái niệm về từ cùng nghĩa, nên học sinh rất khó
khăn tìm được những từ cùng nghĩa, vì thế tôi cho học sinh mở rộng các từ
cùng nghĩa theo một số trường hợp sau:
a.1.Những cặp từ cùng nghĩa có cấu tạo nghich đảo:
Ví dụ: dạy bài 1 tuần 12 Mở rộng vốn từ ngữ về tình cảm
Bài tập yêu cầu ghép tiếng theo mẫu để tạo thành các từ chỉ tình cảm gia đình.
Để dạy bài tập này tôi cho các em dùng những cặp từ cùng nghĩa có cấu tạo
nghịch đảo: yêu thương – thương yêu, yêu quý – quý yêu, yêu mến- mến yêu,
thương mến- mến thương.
Dựa vào cấu tạo nghich đảo ấy học sinh dễ dàng tìm được nhiều cặp từ cùng
nghĩa khác theo yêu cầu cô ra.
a.2.Từ cùng nghĩa theo địa phương:
Khi dạy mở rộng vốn từ về con vật, tôi cho học sinh mở rộng vốn từ bằng cách
khai thác vốn từ cùng nghĩa theo vùng, miền.
ví dụ :giáo viên treo tranh vẽ con ngan và hỏi học sinh: miền bắc gọi con vật
này là con gì?- (con ngan), còn miền Nam gọi con vật này là con gì? (con vịt
xiêm). Dùng cách hỏi như vậy vơí các con vật khác:
con ngan- vịt xiêm, con heo- con lợn, con hổ- con cọp
Với cách khai thác từ địa phương giáo viên khuyến khích học sinh phân vùng
để tìm từ.
Ví dụ: mẹ, má, mế, u , bu, bầm, bủ…cái tẩy – cái gôm, bút- cây viết, bông –
hoa, bát ăn cơm- chén ăn cơm, thìa – muỗng
b. Từ gần nghĩa
Lớp hai học sinh cũng chưa học về khái niệm từ gần nghĩa, nên việc học sinh
tìm được những từ gần nghĩa cũng rất khó khăn, do đó tôi đã dựa vào từng chủ
đề, chủ điểm mà tôi cho học sinh phân định rõ từng kiểu từ gần nghĩa.
+ Từ chỉ sự vật
Ví dụ: dạy về từ chỉ sự vật, tôi đặt câu hỏi gợi mở cho học sinh tìm các từ gần
nghĩa
Chẳng hạn: tổ quốc còn gọi là gì? ( non sông, đất nước, giang sơn, quốc gia,…)
Tương tự cách hỏi như vậy với:
+Từ chỉ tinh chất : dũng cảm, can đảm, anh dũng, gan dạ.. hiền lành, hiền hậu,
nhân hậu, vv..
+ Từ chỉ hoạt động: ăn, xơi, .., bưng, bê, cắp, ôm..
c. Từ trái nghĩa: giáo viên cần phân biệt cụ thể nghĩa các từ mà cho học sinh
xét từ trái nghĩa theo các trường hợp sau:
-Những cặp từ trái nghĩa chỉ hoạt động: làm- chơi, lên – xuống, bay- đậu, đi dừng, đứng – ngồi…
-Những cặp từ trái nghĩa chỉ tính chất: đẹp- xấu, hiền – dữ, đen- trắng, nóng –
lạnh…
-Những cặp từ trái nghĩa có cùng một tiếng gốc
Ví dụ: bền lòng / nản chí, tốt bụng/ xấu bụng, đẹp mã/ xấu mã..
-Những cặp từ trái nghĩa không cùng một gốc
Ví dụ: ấm áp/ lạnh lẽo, cứng rắn/ mềm dẻo, dũng cảm/ hèn nhát..
d.Chú trọng nhân vốn từ của học sinh:
Mở rộng vốn từ bằng cách ghép tiếng thành từ có nghĩa, để học sinh tìm được
nhiều từ, tôi hướng dẫn các em tìm các từ ghép, từ láy cùng gốc:
Ví dụ: Cho học sinh tìm một số từ chỉ màu đỏ khác nhau
Tôi cho học sinh quan sát nhiều màu đỏ, yêu cầu học sinh nhận xét mức độ đỏ
của từng màu mà phân biệt được tên của màu đỏ đó.
+Từ ghép: đỏ tươi, đỏ thắm, đỏ hoe, đỏ chót, đỏ rực..
+Từ láy: đo đỏ, đỏ đắn..
Ngoài ra, tôi cho học sinh tìm từ dựa vào tiếng cho trước.
Ví dụ dạy bài 1 tuần 25 luyện từ và câu lớp 2. Bài tập yêu cầu tìm từ có tiếng
biển.
Tôi cho học sinh dựa vào tiếng cho trước tìm từ có tiếng biển đứng trước hoặc
tiếng biển đứng sau: biển cả, biển rộng, biển đông, sóng biển, nước biển, cá
biển….
Hoặc dạy bài 3 tuần 33- Luyện từ và câu lớp hai về chủ đề nhân dân
+Tìm từ ngữ chỉ nghề nghiệp. tôi cho học sinh một tiếng cho trước ghép lại
thành từ có nghĩa: thợ
– Học sinh dễ dàng tìm được các từ có tiếng thợ:
+thợ điện, thợ cơ khí, thợ mỏ, thợ hàn, thợ may, thợ mộc….
e.Hướng dẫn học sinh phát hiện các từ ngữ xoay quanh một đề tài:
Để các em phân biệt được các từ ngữ, giáo viên thường xuyên luyện cho các em
theo các bài tập từ đơn giản đến phức tạp.
Ví dụ:tìm các từ có hai tiếng trở lên chỉ các kiểu mưa khác nhau: mưa dầm, mưa
phùn, mưa rào, mưa ngâu, mưa bóng mây, mưa rả rích, mưa đá, mưa rươi.. .
Tương tự kiểu bài đó, giáo viên cho học sinh tìm từ có từ “gió”: gió lốc, gió nhè
nhẹ, gió mơn man, gió hây hẩy, gió lồng lộng…
Đặc biệt tôi rất quan tâm đến dạy cho học sinh một số thành ngữ, quán ngữ và
tục ngữ thông dụng. theo từng chủ đề tôi dạy cho học sinh tìm và biết sử dụng
một số thành ngữ, tục ngữ khi diễn đạt nói và viết.
Ví dụ : Khi dạy về chủ đề thầy cô giáo tôi cho các em tìm những câu thành ngữ
nói về công ơn của thầy cô giáo chẳng hạn: Một chữ cũng là thầy, nửa chữ cũng
là thầy. Hoặc: Muốn sang phải bắc cầu kiều, muốn con hay chữ phải yêu lấy
thầy. ..
Dạy về chủ đề gia đình cho học sinh tìm những câu thành ngữ nói về công ơn
cha mẹ: công cha như núi thái sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra,
hoặc : Con có cha như nhà có nóc, con có mẹ như măng ấp bẹ…
Dạy về chủ đề các loài chim cho học sinh tìm những câu thành ngữ nói về các
loài chim: nói như vẹt, hót như khướu, đen như quạ, hôi như cú,
-Chú trọng cách dùng từ đặt câu của học sinh.
-Tăng cường củng cố, mở rộng kiến thức cho học sinh:
+Trong quá trình giảng dạy, tôi thường liên hệ những nội dung kiến thức có liên
quan đến các chủ đề học tập trong các phân môn: Tập đọc, chính tả và phân
môn Tập làm văn, để cung cấp thêm vốn hiểu biết, vốn từ ngữ về sự vật, hiện
tượng xoay quanh các chủ đề để học sinh có kiến thức, không bỡ ngỡ khi gặp
những đề bài mới chưa được luyện tập trên lớp. Giúp học sinh có hiểu biết về đề
tài, vận dụng kỹ năng thực hành để học sinh có vốn kiến thức và vốn từ phong
phú, đa dạng. Khi học sinh đã có vốn từ phong phú thì chắc chắn các em sẽ tự
tin trong giao tiếp, học sinh trình bày lời nói của mình sẽ lưu loát hơn. Các em
đứng trước đám đông sẽ tự nhiên mà không ngại ngùng e sợ.
Khi sử dụng phương pháp trên vào dạy học sinh mở rộng vốn từ ngữ, tôi thấy
kích thích sự sáng tạo của học sinh trong quá trình tìm từ ngữ, rèn luyện tư duy
cho học sinh Học sinh tìm được nhiều từ mới hơn khi kết hợp với phương
pháp gợi mở của giáo viên.
2.Sử dụng phương pháp phân tích ngôn ngữ để mở rộng vốn từ
a.Mục tiêu
– Sử dụng phương pháp phân tích ngôn ngữ kích thích sự sáng tạo, sự chủ động
của học sinh trong quá trình tìm hiểu ngôn ngữ giúp học sinh hiểu cặn kẽ hơn về
hiện tượng ngôn ngữ cần nhận thức và nhớ kĩ bài học hơn.
b. Nội dung và cách thức thực hiện
Học sinh lớp 2 chưa được học về lý thuyết, ngữ pháp, các khái niệm từ và câu
được hình thành thông qua thực hành luyện tập. Chính vì vậy, việc tăng cường
sử dụng phương pháp phân tích ngôn ngữ rất cần thiết trong giờ học Luyện từ
và câu.
Để sử dụng phương pháp này, giáo viên giới thiệu ngữ liệu cần phân tích,
hướng dẫn học sinh quan sát và phân tích ngữ liệu theo định hướng của nội
dung bài học, hướng dẫn học sinh hình thành khái niệm lý thuyết cần đúc kết
qua phân tích hiện tượng ngôn ngữ, hướng dẫn học sinh củng cố và vận dụng lí
thuyết đã học vào việc luyện tập phân tích một số hiện tượng ngôn ngữ.
ví dụ: dạy bài tuần 2 – Mở rộng vốn từ ngữ về học tập-Luyện Từ và câu lớp 2
trang 9
Bài tập 1 tìm các từ
– Có tiếng học
mẫu: học hành
– Có tiếng tập
mẫu: tập đọc
Bài tập trên là bài tập tạo lập từ nhiều tiếng từ một tiếng cho trước nhằm mở
rộng và hệ thống hóa vốn từ liên quan đến học tập.
Giáo viên vận dụng phương pháp phân tích ngôn ngữ để giúp học sinh xác định
được: các tiếng học và tiếng tập là những tiếng cho trước, có thể đứng phía
trước hoặc phía sau ở từ nhiều tiếng mới tìm được.
Giáo viên yêu cầu học sinh phân tích ví dụ ( mẫu) mà bài tập đưa ra đã đạt được
những yêu cầu nào. Học sinh cần nêu được:
– Nêu đúng tiếng mà khi ghép với tiếng “học” hay tiếng “tập” tạo thành từ có
nghĩa liên quan đến học tập.
Bài 2 : Đặt câu với mỗi từ tìm được ở bài tập 1
Sau khi học sinh đã hiểu nghĩa của từ giáo viên yêu cầu học sinh đặt câu theo
yêu cầu của bài.
ví dụ: Bạn Lan học hành rất chăm chỉ./ Em rất thích tập vẽ.
– Ngoài ra, sử dụng phương pháp phân tích ngôn ngữ để GV có cơ sở giúp HS
nhận ra cấu tạo câu, nhằm giúp các em viết câu đúng, đủ bộ phận.
Khi sử dụng phương pháp trên vào dạy học sinh mở rộng vốn từ ngữ, tôi thấy
kích thích sự sáng tạo của học sinh trong quá trình tìm hiểu ngôn ngữ, rèn luyện
tư duy cho học sinh trong quá trình phân tích ngôn ngữ. Học sinh tìm được
nhiều từ mới hơn khi kết hợp với phương pháp gợi mở của giáo viên.
.3.Vận dụng phương pháp quan sát để mở rộng vốn từ
a.Mục tiêu
Dùng phương pháp quan sát giúp học sinh phối hợp nhiều giác quan để quan sát
sự vật, hiện tượng, hình thành các biểu tượng, các khái niệm cụ thể. giúp các em
hứng thú học tập, phát triển khả năng tập trung, chú ý, óc tò mò, khám phá. phát
triển tư duy nâng cao tính tự lực, tích cực của học sinh.
b.Nội dung và cách thức thực hiện
Kỹ năng quan sát rất cần cho học sinh khi mở rộng vốn từ: Quan sát trên lớp
theo gợi ý, hướng dẫn của giáo viên hoặc tự quan sát khi chuẩn bị bài ở nhà.
Giáo viên cần khai thác kỹ tranh ảnh, hình ảnh, tập trung quan sát đặc điểm nổi
bật của đối tượng, mục đích là giúp HS tránh được kiểu kể theo liệt kê. Bên
cạnh đó, tôi cũng hướng dẫn HS cách quan sát bằng các giác quan để cảm nhận
một cách có cảm xúc về sự vật.
ví dụ: dạy bài 29 Mở rộng vốn từ về cây cối -Luyện từ và câu lớp 2 có bài tập
1 yêu cầu học sinh kể tên các bộ phận của cây ăn quả.
Bước 1:Lựa chọn đối tượng quan sát
+Để học sinh tìm được các bộ phận của cây ăn quả, tôi cho học sinh quan sát
tranh vẽ các cây ăn quả để thấy được các đặc điểm chung của cây ăn quả. Sau
đó, tôi cho học sinh quan sát kĩ 1 cây ăn quả có đủ các bộ phận của cây.
Bước 2:Xác định mục đích quan sát:
Hướng dẫn quan sát từ trên xuống dưới hoặc từ dười lên trên của cây để tìm các
bộ phận của cây.
Bước 3: Báo cáo kết quả quan sát
Sau khi học sinh quan sát xong, tôi yêu cầu học sinh kể tên các bộ phận của
cây, em nào kể chưa đủ bộ phận của cây tôi đặt câu hỏi để các em tìm và bổ
sung kết quả. Ví dụ: Bộ phận nào hút chất dinh dưỡng dưới đất để nuôi sống
cây? Bộ phận nào của cây gần tiếp giáp với đất?
Chắc chắn các em sẽ tìm ra được đó là rễ cây, gốc cây
Để làm được dạng bài này, giáo viên cần hướng dẫn các em quan sát các đối
tượng khác nhau: một bức tranh, một cái cây, một con vật. Biết quan sát tức là
các em biết dùng các giác quan( mắt, mũi, lưỡi, da) để nhận biết đặc điểm của
bức tranh hay con vật, cây cối có hình dạng, màu sắc như thế nào. Khi quan sát,
đầu tiên các em phải có một cái nhìn chung để xác định được mình đang phải
quan sát cái gì? Quan sát cảnh gì? Quan sát con gì? Tiếp theo các em phải biết
cách chia đối tượng thành nhiều phần rồi lần lượt quan sát theo nhiều góc độ.
Các phương tiện dạy học chủ yếu: tranh vẽ minh họa.
-Hoạt động chính của học sinh khi học kiểu bài này: giáo viên hướng đẫn học
sinh quan sát tranh, thực hiện các thao tác quan sát. Diễn đạt những điều quan
sát được bằng ngôn ngữ có tính tạo hình. Hướng dẫn học sinh tìm từ ngữ để thể
hiện một cách có hình ảnh những điều đã quan sát được.
Sau khi sử dụng phương pháp quan sát để mở rộng vốn từ, tôi thấy các em rất
hứng thú học tập, tò mò thích được khám phá ra những biểu tượng, những khái
niệm cụ thể về đối tượng. Được quan sát các em đã tìm được rất nhiều từ ngữ
mới mà các em chưa được dùng tới bao giờ.
4. Phương pháp thực hành giao tiếp:
a.Mục tiêu
Sử dụng phương pháp theo định hướng giao tiếp chính là dạy cho học sinh cách
tổ chức giao tiếp bằng ngôn ngữ một cách hiệu quả trong những tình huống điển
hình và những tình huống cụ thể trong dạy học Tiếng Việt đặc biệt là môn
Luyện từ và câu sử dụng phương pháp giao tiếp giúp học sinh học tập sinh
động, hứng thú hơn.
b. Nội dung và cách thực hiện
Thông qua phương pháp quan sát, giáo viên rèn cho học sinh kỹ năng sử dụng
từ ngữ để đặt câu, kĩ năng nói, trước khi làm bài viết. Trên cơ sở đó, giáo viên
điều chỉnh giúp học sinh hoàn thiện bài viết. Với phương pháp này, tôi thường
tổ chức cho học sinh luyện nói cá nhân, luyện nói trong nhóm. ( HS có thể kết
nhóm theo ý thích, để có sự thoải mái tự nhiên, tự tin khi tham gia làm việc
trong nhóm ).
Chẳng hạn: sau khi học sinh tìm được các từ tả các bộ phận của cây tôi cho học
sinh nối tiếp nhau mỗi em đặt một câu tả về một bộ phận của cây tạo thành một
đoạn văn tả cây cối.Ví dụ: Rễ cây ngoằn ngoèo nằm trên mặt đất./ Thân cây to
như cái cột đình./ Cành lá sum suê. ….
Trong quá trình học sinh đặt câu, nếu em nào dùng từ chưa đúng, giáo viên
chỉnh sửa giúp các em hoàn thiện câu văn đúng và hay.
Khi sử dụng phương pháp thực hành giao tiếp trong việc mở rộng vốn từ và rèn
kĩ năng sử dụng từ đúng, tôi thấy các em rất hứng thú học tập, bởi các em được
nói ra những điều mình khám phá, được cô giáo trau chuốt cho từng câu, từng
lời, được cô khen biết đặt những câu đúng và hay vì thế hiệu quả học tập của
các em ngày càng cao.
5 .Sử dụng phương pháp trò chơi trong việc mở rộng vốn từ
Xuất phát từ đặc điểm tâm lí của học sinh nói riêng và người học nói chung nội
dung học tập càng hấp dẫn thì người học càng có hứng thú cao và hiệu quả học
tập do đó càng cao, việc học gắn với thực hành thì sẽ giúp cho người học nhớ
lâu kiến thức và biết cách vận dụng kiến thức, kĩ năng vào một tình huống giải
quyết vấn đề cụ thể, người học muốn thể hiện năng lực của mình.
5.1. Trò chơi ghép nhanh tên sự vật
Ví dụ: tranh bài tập 1 tuần 3 trang 26, bài tập 2 tuần 7, trang 59, bàitập 3 tuần 16
trang 134 trong SGK Tiếng Việt 2 tập 1.
Chuẩn bị 2 bộ đồ dùng để chơi: mỗi bộ gồm 1 số đồ vật thật hoặc tranh ảnh đại
diện cho nghĩa của từ được nêu trong sách giáo khoa Tiếng Việt 2, các thẻ từ(
bìa giấy) ghi tên các đồ vật (tranh ảnh)
ví dụ: tranh bài tập 1 tuần 3 trang 26, bài tập 2 tuần 7, trang 59, bàitập 3 tuần 16
trang 134 trong SGK Tiếng Việt 2 tập 1. một số mảnh bìa ghi từng từ ( tương
ứng với từng đồ vật hoặc tranh ảnh)
-Gíaó viên hoặc một học sinh là trọng tài để đánh giá kết quả.
c.Cách chơi
-Chơi theo từng cặp 2 học sinh hoặc 2 nhóm học sinh ( mỗi nhóm từ 2 đến 4
người chơi-Các đồ vật hoặc tranh ảnh đã được sắp xếp hoặc treo thành 2 nhóm.
Mỗi học sinh ( hoặc mỗi nhóm) tham gia trò chơi được phát một bộ thẻ từ ghi
tên các đồ vật ( tranh ảnh). Học sinh ( hoặc nhóm) nào dán đúng và nhanh nhất
các tên ( từ) vào đồ vật hoặc tranh thích hợp thì thắng cuộc.
5.2.Trò chơi tìm nhanh từ cùng chủ đề
a.Mục tiêu
-Mở rộng vốn từ, phát huy óc liên tưởng, so sánh
-Rèn tác phong nhanh nhẹn, luyện trí thông minh và cách ứng xử nhanh
b. Chuẩn bị: bảng phụ hoặc giấy nháp
c. Cách tiến hành
Trò chơi có từ 2 đến 4 nhóm, mỗi nhóm có từ 2 đến 4 học sinh tham gia.
– Sau khi giải nghĩa từ ngữ được dùng để gọi tên chủ đề ( ví dụ: đồ dùng học
tập là những dụng cụ của cá nhân dùng để học tập hoặc vật nuôi là những con
vật nuôi trong nhà…), giáo viên nêu yêu cầu:
+ Hãy kể ra những từ gọi tên đồ dùng học tập ( hoặc những từ nói về tình cảm
gia đình..)
+ Từng nhóm ghi lại những từ đó vào bảng phụ hoặc ghi vào giấy nháp để đọc
lên. Thời gian viết khoảng 2-3 phút.
5.3.Trò chơi tìm nhanh từ đồng nghĩa
Trò chơi này giúp học sinh nhận biết nhanh các từ ngữ đồng nghĩa, làm giàu
vốn từ ngữ của học sinh. Trò chơi này được dùng khi dạy về chủ đề học tập
tuần 2 sách Tiếng Việt 2 môn Luyện từ và câu tập 1.
a. Chuẩn bị
– Từ 2 đến 4 bộ quân bài có nội dung như nhau, nhưng khác màu để khỏi lẫn(
xanh, đỏ, vàng…), tương tự quân bài trong cỗ tam cúc. Mỗi bộ có 10 hoặc 12
quân bài đã ghi sẵn các từ.
– 1 bộ quân bài dành cho người cầm cái ( trọng tài) khác màu với mỗi bộ quân
bài của người chơi. Trên mỗi quân bài này có ghi từng từ đồng nghĩa với từ
được ghi trên quân bài của người chơi
– Mỗi quân bài đều được ghi ở cả hai đầu để người chơi dễ nhìn khi cầm bài
trên tay
b.. Cách tiến hành
Để thực hiện trò chơi cần thực hiện qua 4 bước sau:
Bước 1: Giới thiệu tên và mục đích của trò chơi: mục đích của trò chơi là học
sinh thi tìm từ đồng nghĩa
Bước 2: chia lớp thành nhiều nhóm, mỗi nhóm 2-4 học sinh. Quản trò là giáo
viên và hai học sinh giúp giáo viên làm trọng tài.
-Giáo viên hướng dẫn học sinh chơi:
-Từ 2 đến 4 người chơi. Mỗi người có 1 bộ quân bài như nhau ( 10, 12 quân)
– Trọng tài lật 1 quân bài của mình ( có từ đồng nghĩa với từ trong bộ bài của
người chơi). Những người chơi phải chọn thật nhanh quân bài của mình có từ
đồng nghĩa với quân bài của trọng tài để đánh ra.
-Trọng tài công nhận quân bài đánh ra là từ đồng nghĩa thì người đánh quân bài
đó đã “ăn” , nếu sai thì người đánh quân bài đúng tiếp theo sẽ được ” ăn “.
Trường hợp 2-3 người cũng ra quân bài đúng thì cũng được ‘ăn”.
– Đánh hết bộ quân bài, ai có số lượng quân bài được “ăn” nhiều nhất sẽ thắng
cuộc. như vậy, người thắng cuộc nhận ra nhanh, đúng từ đồng nghĩa.
Bước 3: Học sinh thực hiện trò chơi
Bước 4: giáo viên thay mặt cho tổ trọng tài công bố nhóm tìm được nhiều từ
đúng và chính xác nhất và tuyên dương thưởng cho nhóm tìm được nhiều từ
đúng và nhanh.
Các cặp từ đồng nghĩa nói về chủ đề học tập dùng làm bộ bài để chơi và bộ bài
để cầm cái: học tập- học hành, siêng năng – chăm chỉ, vui vẻ – phấn khởi, giảng
dạy- dạy dỗ, bài tập- bài vở, chăm chú- chú ý, lễ phép- lễ độ, thông minh- sáng
dạ, vâng lời- nghe lời, kiên nhẫn – kiên trì….
5.4. Trò chơi tìm nhanh từ trái nghĩa
Giúp học sinh nhận biết nhanh từ trái nghĩa, làm giàu vốn từ của học sinh luyện
trí thông minh, nhanh mắt nhanh tay
Cách chuẩn bị và cách chơi giống như cách chơi tìm nhanh từ đồng nghĩa
Áp dụng trò chơi này khi dạy bài 1 tuần 16 luyện từ và câu lớp 2 tập 1
Các cặp từ trái nghĩa chỉ hoạt động, tính chất dùng làm bộ bài để chơi: tốt- xấu,
ngoan -hư, nhanh – chậm, trắng – đen, cao – thấp, khỏe – yếu, đẹp – xấu, ngắn
– dài…
5.5 Trò chơi thi đoán từ – Trò chơi này giúp cho học sinh có kĩ năng đoán
nhanh một từ khi biết nghĩa hoặc một số dấu hiệu hình thức của từ đó. Củng cố
về nghĩa từ và mở rộng vốn từ ngữ cho học sinh.
Để thực hiện trò chơi này cần chuẩn bị:
– Một số câu đố về từ. Mỗi phiếu ghi một câu đố theo thứ tự 1,2,3…làm các bộ
phiếu giống nhau đủ cho số nhóm chơi, phiếu khổ to ghi sẵn kết quả các từ ( ghi
theo số thứ tự trong phiếu câu đố), giấy, bút để ghi kết quả
– Giáo viên cùng 2,3 học sinh làm trọng tài, ghi điểm các nhóm tham gia chơi.
Cách tiển hành: Giáo viên lập 4 nhóm chơi ( mỗi nhóm 4,5 học sinh), nêu yêu
cầu:
Sau khi nhận 2 bộ phiếu ghi các câu đố về từ, các nhóm thảo luận với nhau để
giải câu đố, tìm từ và ghi kết quả vào tờ giấycủa nhóm.( nhớ ghi đúng từ theo
số thứ tự trên phiếu.
– Hết 3 phút, các nhóm dừng lại, lần lượt đọc kết quả để tổ trọng tài đánh giá
( mỗi từ tìm đúng được tính 2 điểm)
Ví dụ: dạy chủ đề trường học tôi có thể đưa ra các câu đố cho học sinh giải như
sau:
-Viên màu trắng dùng để viết lên bảng.
(là gì?)
- Xem thêm -