Contents
1. Về tác giả Agatha Christie ........................................................................................ 2
2. Án Mạng Ðêm Cuối Năm ......................................................................................... 8
3. Ba điều bí ẩn ........................................................................................................... 12
4. Bí Mật Chiếc Bình Xanh ....................................................................................... 115
5. Bộ Tứ.................................................................................................................... 128
6. Cây Bách Buồn ..................................................................................................... 220
7. Chết Trong Đêm Noel ........................................................................................... 361
8. Chiếc Cốc Bằng Vàng ........................................................................................... 480
9. Chuyến Tàu 16 Giờ 50 .......................................................................................... 495
10. Cô Gái Thứ Ba ...................................................................................................... 593
11. Cú Vọ và Đàn Bồ Câu .......................................................................................... 721
12. 5 giờ 25 phút ......................................................................................................... 821
13. Bức họa chết người ............................................................................................... 932
14. Chiếc rương oan nghiệt ....................................................................................... 1069
15. Chuyện xảy ra trên con tàu tốc hành Phương Đông............................................. 1076
16. Dao kề gáy .......................................................................................................... 1188
17. Hãng Thám tử tư ................................................................................................. 1307
18. Hẹn với tử thần ................................................................................................... 1373
19. Mất tích .............................................................................................................. 1505
20. Một nắm lúa mạch .............................................................................................. 1511
21. Một, Ha, Ba Những cái chết bí ẩn ....................................................................... 1568
22. Mười người da đen nhỏ ....................................................................................... 1689
1/3720
23. Ngày hội quả bí................................................................................................... 1817
24. Người đàn ông bí ẩn ........................................................................................... 1896
25. Người phá tổ ong ................................................................................................ 1977
26. Những chiếc đồng hồ treo tường ......................................................................... 1980
27. Những quân bài trên mặt bàn .............................................................................. 2073
28. Nợ tình................................................................................................................ 2190
29. Nữ thần báo oán .................................................................................................. 2267
30. Oan trái ............................................................................................................... 2342
31. Rượu độc long lánh ............................................................................................. 2474
32. Sau tang lễ .......................................................................................................... 2607
33. Sự thật đằng sau cái chết ..................................................................................... 2718
34. Tại sao không là Evan ......................................................................................... 2724
35. Tận cùng là cái chết ............................................................................................ 2807
36. Thảm kịch ở Styles ............................................................................................. 2935
37. Thám tử rời sân khấu .......................................................................................... 3061
38. Tình yêu phù thủy ............................................................................................... 3153
39. Thám tử Hercule Poirot (tập truyện ngắn) .......................................................... 3254
Sự Biến Mất Của Ông Davenheim ............................................................... 3255
Thừa Một Chứng Tích Phạm Tội .................................................................. 3264
Tổ Ong Vò Vẽ .............................................................................................. 3270
Một Vụ Vu Khống ........................................................................................ 3276
Đàn Cừu Của Andersen ................................................................................ 3286
Một Chuyện Tình ......................................................................................... 3297
Một Vụ Tống Tiền........................................................................................ 3307
Bức Họa Của Rubens ................................................................................... 3318
Bí Mật Của Ngôi Nhà Nghỉ Mát Ở Nông Thôn ............................................ 3325
Việc Tìm Kiếm Bản Di Chúc Của Ông Marsh.............................................. 3333
Tấn Thảm Kịch Ở Trang Viên Mardson ....................................................... 3338
Vụ Mất Cắp Một Triệu Dollars Bằng Trái Phiếu .......................................... 3347
Vụ Ngài Thủ Tướng Nước Anh Bị Bắt Cóc.................................................. 3353
Vụ Giết Người Trong Khách Sạn ................................................................. 3366
Một Vụ Trả Thù ........................................................................................... 3372
Kẻ Buôn Bán Ma Túy................................................................................... 3387
Chiếc Cốc Bằng Vàng .................................................................................. 3397
Xuống Địa Ngục........................................................................................... 3404
40. Vì Sao Ông Ackroyd Chết .................................................................................. 3417
41. Vụ giết người trên sân golf ................................................................................. 3474
42. Vụ án mạng ở vùng Mesopotamie....................................................................... 3603
43. Xâu chuỗi ngọc trai ............................................................................................. 3715
1. Về tác giả Agatha Christie
2/3720
Sinh: 15 tháng 9 năm 1890, Torquay, Devon, Anh
Mất: 12 tháng 1 năm 1976 (85 tuổi), Cholsey, Oxfordshire, Anh
Công việc: Nhà văn
Thể loại: Trinh thám
Agatha Mary Clarissa, Lady Mallowan, DBE (15 tháng 9 năm 1890 - 12 tháng
1 năm 1976), thường được biết đến với tên Agatha Christie, là một nhà văn trinh
thám người Anh. Bà còn viết tiểu thuyết lãng mạn với bút danh Mary Westmacott,
nhưng vẫn được nhớ đến hơn cả với bút danh Agatha Christie và 66 tiểu thuyết trinh
thám. Với hai nhân vật thám tử nổi tiếng, Hercule Poirot và Bà Marple (Miss Marple),
Christie được coi là "Nữ hoàng trinh thám" (Queen of Crime) và là một trong những
nhà văn quan trọng và sáng tạo nhất của thể loại này.
Theo Sách kỷ lục Guinness, Agatha Christie là nhà văn có tác phẩm bán chạy nhất
mọi thời đại của thể loại trinh thám, và đứng thứ hai nếu tính cả các thể loại khác (chỉ
xếp sau William Shakespeare). Ước tính đã có khoảng 1 tỷ bản in bằng tiếng Anh và
khoảng 1 tỷ bản in bằng 103 thứ tiếng khác những tác phẩm của Christie được tiêu
thụ[1]. Một ví dụ cho sự hấp dẫn của những tác phẩm của Agatha Christie ở nước ngoài
là bà cũng là tác giả ăn khách nhất mọi thời đại ở Pháp với 40 triệu bản in bằng tiếng
Pháp đã tiêu thụ (tính cho đến năm 2003), trong khi người xếp thứ 2 là nhà văn
Pháp Emile Zola chỉ là 22 triệu bản.
Vở kịch The Mousetrap (Cái bẫy chuột) của bà cũng đang giữ kỷ lục vở kịch được
công diễn lâu nhất trong lịch sử sân khấu London, ra mắt lần đầu tại rạp Ambassadors
Theatre ngày 25 tháng 11 năm 1952 và vẫn tiếp tục được diễn cho đến nay (năm 2007)
với trên 20.000 buổi diễn. Năm 1955, Christie là người đầu tiên được nhận giải thưởng
Grand Master Award của Hội nhà văn trinh thám Mỹ (Mystery Writers of America).
Hầu như tất cả tác phẩm của bà đều đã được chuyển thể thành phim, một số tác phẩm
đã được chuyển thể nhiều lần như Murder on the Orient Express, Death on the
Nile, 4.50 From PaĐington, nhiều tác phẩm cũng được chuyển thể thành phim truyền
hình hoặc trò chơi điện tử.
Tiểu sử
3/3720
Agatha Christie có tên khai sinh là Agatha Mary Clarissa Miller sinh ngày 15
tháng 9 năm 1890 tại Torquay, Devon, bà có cha là người Mỹ và mẹ là người Anh, tuy
vậy chưa bao giờ Christie có hoặc tuyên bố là có quốc tịch Hoa Kỳ. Cha bà là ông
Frederick Miller, một nhà giao dịch chứng khoán người giàu có, còn mẹ, bà Clara
Bohemer có dòng dõi quý tộc Anh. Christie có một người chị, Margaret Frary Miller
(1879-1950) và một người anh Louis Montant Miller (1880-1929). Bố của Agatha
Christie mất khi bà còn rất nhỏ, bà Clara là người đã khuyến khích Christie viết từ khi
còn bé. Lên 16 tuổi, Christie sang Paris để học hát và piano.
Bà có cuộc hôn nhân đầu tiên không hạnh phúc với đại tá Archibald Christie, một
phi công của Không quân hoàng gia Anh. Hai người cưới nhau năm 1914, có một con
gái, Rosalind Hicks, và ly dị năm 1928.
Trong Thế chiến thứ nhất bà làm việc tại bệnh viện và sau đó là tiệm thuốc, công
việc này đã ảnh hưởng tới những sáng tác của bà sau này khi rất nhiều vụ giết người
trong các tác phẩm của Christie được thực hiện bằng thuốc độc như thạch
tín, ricin và thallium.
Ngày 8 tháng 12 năm 1926, khi đang sống ở Sunningdale, Berkshire, bà đột nhiên
biến mất 10 ngày khiến dư luận xôn xao. Cuối cùng bà được tìm thấy khi đang ở khách
sạn Swan Hydro vùng Harrogate dưới tên của người phụ nữ đã ngoại tình với chồng bà
trước đó. Agatha Christie nói rằng bà bị mắc chứng đãng trí vì suy sụp sau cái chết của
mẹ bà và sự phản bội của người chồng.
Năm 1930, Christie kết hôn với nhà khảo cổ Max Mallowan trẻ hơn bà 14 tuổi.
Agatha Christie mất ngày 12 tháng 1 năm 1976 ở tuổi 85, tại
Wallingford, Oxfordshire. Đứa con duy nhất của bà, Rosalind Hicks, mất ngày 28 tháng
10 năm 2004 cũng ở tuổi 85, và hiện cháu trai bà, Mathew Prichard đang giữ bản quyền
tất cả tác phẩm của bà ngoại.
Hercule Poirot và Bà Marple
Nơi Agatha Christie đã viết Murder on the Orient Express
Tiểu thuyết đầu tiên của Agatha Christie, The Mysterious Affair at Styles được
xuất bản năm 1920 và lần đầu tiên giới thiệu cho độc giả nhân vật thám tử nổi
tiếng Hercule Poirot, người sẽ xuất hiện trong 30 tiểu thuyết và 50 truyện ngắn khác của
Christie.
Nhân vật thám tử nổi tiếng nữa của Christie là Bà Marple (Miss Marple) xuất hiện
lần đầu trong The Murder at the Vicarage xuất bản năm 1930.
Trong Thế chiến thứ hai, Christie viết hai tiểu thuyết Curtain và Sleeping Murder,
bà dự định đó sẽ là những vụ án cuối cùng của hai thám tử Hercule Poirot và Bà
Marple. Hai tác phẩm này được giữ trong nhà băng hơn 30 năm và chỉ được phát hành
vào cuối đời của tác giả, khi Christie nhận ra rằng mình không thể viết thêm tiểu thuyết
nào nữa.
4/3720
Cũng giống Arthur Conan Doyle, Christie đã từng trở nên chán ngán với những
nhân vật thám tử của mình. Vào cuối thập niên 1930, Christie đã viết trong nhật ký rằng
bà nhận thấy Poirot là "không thể chịu đựng nổi", tuy nhiên khác với Doyle, Agatha
Christie đã chống lại được cảm giác muốn kết liễu nhân vật thám tử của mình khi anh ta
vẫn còn đang nổi tiếng. Bà coi mình là một người làm nghề giải trí mà công việc là
sáng tạo ra những thứ công chúng ưa thích, và thứ mà công chúng ưa thích lại chính là
nhân vật thám tử Poirot.
Trái ngược với Poirot, Christie rất yêu thích nhân vật Bà Marple. Đáng ngạc nhiên
là số tiểu thuyết có xuất hiện Bà Marple lại chưa bằng một nửa số tiểu thuyết có xuất
hiện ông thám tử người Bỉ Poirot.
Poirot là nhân vật hư cấu duy nhất cho đến nay được đăng cáo phó trên tờ New
York Times sau khi tiểu thuyết Curtain xuất bản năm 1975 trong đó Poirot bị bà
Christie "giết chết". Tiếp nối thành công của Curtain, Christie cho xuất bản tiểu
thuyết Sleeping Murder vào năm 1976, nhưng bà lại chết trước khi tác phẩm của mình
được phát hành. Điều này giải thích một số mâu thuẫn của tác phẩm này với loạt truyện
về Bà Marple, có lẽ Christie không còn thời gian để xem lại bản thảo trước khi bà qua
đời. Miss Marple được "đối xử" tốt hơn viên thanh tra Piorot khi bà vẫn sống sau khi
giải quyết xong vụ án của Sleeping Murder.
Tác phẩm
Tiểu thuyết
Năm xuất bản Tên Thám tử
1920 The Mysterious Affair at Styles Hercule Poirot
1922 The Secret Adversary
Tommy và Tuppence
1923 Murder on the Links
Hercule Poirot
1924 The Man in the Brown Suit
Anne BeĐingfeld
1925 The Secret of Chimneys Chánh thanh tra Battle
1926 The Murder of Roger Ackroyd Hercule Poirot
1927 The Big Four
Hercule Poirot
1928 The Mystery of the Blue Train Hercule Poirot
1929 The Seven Dials Mystery Chánh thanh tra Battle
1930 The Murder at the Vicarage
Bà Marple
1931 The Sittaford Mystery
1932 Peril at End HouseHercule Poirot
1933 Lord Edgware Dies
Hercule Poirot
1934 Murder on the Orient Express Hercule Poirot
1934 Why Didn't They Ask Evans?
1935 Three Act Tragedy Hercule Poirot
1935 Death in the Clouds
Hercule Poirot
1936 The A.B.C. Murders
Hercule Poirot
1936 Murder in Mesopotamia Hercule Poirot
1936 Cards on the TableHercule Poirot
1937 Death on the Nile Hercule Poirot
1937 Dumb Witness
Hercule Poirot
1938 Appointment with Death Hercule Poirot
5/3720
1938 Hercule Poirot's Christmas
Hercule Poirot
1939 And Then There Were None
1939 Murder is Easy
Chánh thanh tra Battle
1940 Sad Cypress Hercule Poirot
1940 One, Two, Buckle My Shoe
Hercule Poirot
1941 Evil Under the Sun Hercule Poirot
1941 N or M?
Tommy và Tuppence
1942 The Body in the Library Bà Marple
1942 Five Little Pigs
Hercule Poirot
1942 The Moving Finger
Bà Marple
1944 Towards Zero
Chánh thanh tra Battle
1944 Death Comes as the End
1945 Sparkling Cyanide Đại tá Race
1946 The Hollow Hercule Poirot
1948 Taken at the Flood Hercule Poirot
1949 Crooked House Charles Hayward
1950 A Murder is Announced Bà Marple
1951 They Came to Baghdad
1952 Mrs McGinty's Dead
Hercule Poirot
1952 They Do It with Mirrors Bà Marple
1953 A Pocket Full of Rye
Bà Marple
1953 After the Funeral Hercule Poirot
1954 Destination Unknown
1955 Hickory Dickory Dock Hercule Poirot
1956 Dead Man's Folly Hercule Poirot
1957 4.50 From PaĐington
Bà Marple
1958 Ordeal by Innocence
1959 Cat Among the Pigeons Hercule Poirot
1961 The Pale Horse Thanh tra Lejeune
1962 The Mirror Crack'd from Side to Side Bà Marple
1963 The Clocks Hercule Poirot
1964 A Caribbean Mystery
Bà Marple
1965 At Bertram's Hotel Bà Marple
1966 Third Girl Hercule Poirot
1967 Endless Night
1968 By the Pricking of My Thumbs Tommy và Tuppence
1969 Hallowe'en Party Hercule Poirot
1970 Passenger to Frankfurt
1971 Nemesis
Bà Marple
1972 Elephants Can Remember
Hercule Poirot
1973 Postern of Fate
Tiểu thuyết cuối cùng của Christie
Tommy và Tuppence
1975 Curtain
Vụ án cuối cùng của PoirotHercule Poirot
6/3720
1976 Sleeping Murder
Vụ án cuối cùng của Bà Marple Bà Marple
Tập truyện ngắn
1924, Poirot Investigates (11 truyện ngắn)
1929, Partners in Crime (15 truyện ngắn; về thám tử Tommy và Tuppence)
1930, The Mysterious Mr. Quin (12 truyện ngắn; giới thiệu Sir Harley Quin)
1933, The Hound of Death (12 truyện ngắn)
1933, The Thirteen Problems (13 truyện ngắn; về Bà Marple, còn có tên The
Tuesday Club Murders)
1934, Parker Pyne Investigates (12 truyện ngắn; giới thiệu Parker Pyne và Ariadne
Oliver, còn có tên Mr. Parker Pyne, Detective)
1934, The Listerdale mystery (12 truyện ngắn)
1937, Murder in the Mews (4 truyện ngắn; về Hercule Poirot, còn có tên Dead
Man's Mirror)
1939, Regatta Mystery and Other Stories (9 truyện ngắn)
1947, The Labours of Hercules (12 truyện ngắn; về Hercule Poirot)
1948, The Witness for the Prosecution and Other Stories (11 truyện ngắn)
1950, Three Blind Mice and Other Stories (9 truyện ngắn)
1951, The Under Dog and Other Stories (9 truyện ngắn)
1960, The Adventure of the Christmas PuĐing (6 truyện ngắn)
1961, Double Sin and Other Stories (8 truyện ngắn)
1971, The Golden Ball and Other Stories (15 truyện ngắn)
1974, Poirot's Early Cases (18 truyện ngắn)
1979, Miss Marple's Final Cases and Two Other Stories (8 truyện ngắn)
1991, Problem at Pollensa Bay and Other Stories (8 truyện ngắn)
1997, The Harlequin Tea Set (9 truyện ngắn)
1997, While the Light Lasts and Other Stories (9 truyện ngắn)
1997, Death is not the Worst Thing (12 truyện ngắn)
Viết bằng bút danh Mary Westmacott
1930, Giant's Bread
1934, Unfinished Portrait
1944, Absent in the Spring
1948, The Rose and the Yew Tree
1952, A Daughter's a Daughter
1956, The Burden
Kịch
1928, Alibi
1930, Black Coffee
1936, Love from a Stranger
1937, A Daughter's a Daughter (chưa bao giờ diễn)
1940, Peril at End House
1943, Ten Little Indians
1945, Appointment with Death
1946, Murder on the Nile
7/3720
1949, Murder at the Vicarage
1951, The Hollow
1952, The Mousetrap
1953, Witness for the Prosecution
1954, Spider's Web
1956, Towards Zero
1958, Verdict
1958, The Unexpected Guest
1960, Go Back for Murder
1962, Rule of Three
1972, FiĐler's Three
1973, Aknaton (viết năm 1937)
1977, A Murder is Announced
1981, Cards on the Table
1992, Problem at Pollensa Bay
1993, Murder is Easy
2005, And Then There Were None
Kịch truyền thanh
1937, Yellow Iris
1947, Three Blind Mice
1948, Butter In a Lordly Dish
1960, Personal Call
Kịch truyền hình
1937, Wasp's Nest
Tác phẩm khác
1946, "Come Tell Me How You Live"
1977, "Agatha Christie: An Autobiography"
2. Án Mạng Ðêm Cuối Năm
Luật sư Mayher chăm chú quan sát chàng trai ngồi trước mặt ông, con người bị
buộc tội giết người có dự mưu.
- Voler, tôi thiết nghĩ, anh nên thành thật khai báo, tôi mới có thể bào chữa cho anh
được.
- Biết nói thế nào nhỉ. Tôi không thể bị buộc một tội mà tôi không hề làm. Tôi vô
tội, tôi vô tội. Ông phải hiểu điều đó.
- Vâng. Tôi đang cố gắng lo cho anh được tự dọ Nhưng mọi bằng cớ đều chống lại
anh. Không phải cứ la lên là mình sẽ vô tội.
- Tôi xin thề trước Thượng đế là tôi bị nghi oan. Tôi đã rơi vào một cái lưới không
thể thoát ra được.
- Anh đừng thề mà hãy nói rõ cho tôi nghe, anh quen bà Fren trong trường hợp
nào?
- Hôm đó, bà Fren suýt bị xe buýt tông, nên hoảng hồn đánh rơi đồ đạc tung toé ra
đường. Tôi có mặt ở đó nên đã nhặt giùm cho bà ấy. Sau đó, tôi gặp lại bà trong một
bữa tiệc tại nhà người bạn. Bà nhận ra tôi, nói chuyện với tôi rất thân mật, và khi ra về,
8/3720
bà yêu cầu tôi ghé thăm bà. Bạn tôi nói bà là một cô gái già rất giàu có, sống một mình
với chị người làm và tám con mèo.
- Anh đang túng thiếu, lại làm quen với một bà già giàu sụ và cố tình kéo dài sự
liên hệ thân mật. Nếu chúng ta chứng tỏ rằng anh không hề biết bà Fren giàu và anh chỉ
đến thăm vì xã giao...
Mặt Voler tái đi:
- Havey, bạn tôi đã nói vụ bà Fren giàu trước mặt tôi và rất nhiều người, một vài
người còn chế giễu tôi là chuột sa hũ nếp nữa chứ.
- Như vậy thì tôi phải giải thích sao khi một người trẻ tuổi đẹp trai như anh lại mất
thì giờ cho một bà đã luống tuổi có tính khí khác thường.
- Thú thật với ông, sau lần viếng thăm đầu tiên, bà đã khẩn khoản mời tôi đến nữa.
Bà than rằng bà cô đơn quá, nên xem tôi như con. Bà tử tế, nuông chiều tôi, do đó, tôi
thực sự cảm mến bà như một người mẹ.
- Đến lúc nào thì bà ấy yêu cầu anh trông nom sổ sách cho bà?
- Sau bốn, năm lần viếng thăm. Bà ấy tính toán kém trong việc hùn hạp làm ăn.
- Vậy mà chị hầu phòng Jannette quả quyết rằng bà chủ của chị rất thạo việc. Đấy
cũng là ý kiến của các ngân hàng có tài khoản của bà ấy.
- Họ nói sao ấy chứ trước mặt tôi, bà ấy tỏ ra rất vụng về.
Luật sư Mayher nhìn Voler. Ông tin vào sự vô tội của chàng thanh niên. Voler đã
nói thật. Tâm lý các cô gái già là thường giả bộ ngây thơ để nhận ở những người đàn
ông sự giúp đỡ. Và Voler đã đáp ứng được điều đó. Tằng hắng, ông hỏi:
- Có bao giờ anh lợi dụng lòng tin của Fren để kiếm lợi riêng cho anh không? Tôi
sẽ có hai cách để bào chữa. Nếu trung thực, anh sẽ không cần nhúng tay vào máu để
kiếm được món tiền mà anh có thể kiếm được một cách lương thiện. Bằng ngược lại,
anh có những thủ đoạn mà bên công tố biết và sẽ đưa ra. Khi đó, tôi sẽ bảo rằng anh
chẳng dài gì mà giết con gà đẻ trứng vàng ấy cả.
- Cảm ơn lòng tốt của ông. Tôi lúc nào cũng ngay thẳng khi làm việc với bà ấy.
Nếu người ta cho rằng, tôi lợi dụng vật chất nơi bà ấy, thì cái chết của bà chỉ thiệt hại
cho tôi thôi.
Luật sư Mayher nhìn thẳng vào mắt Voler:
- Anh có biết là bà Fren đã lập di chúc để một phần lớn tài sản cho anh không?
Voler nhỏm dậy như bị điện giật"
- Ông nói sao? Bà ấy để của cho tôi à? Vô lý.
Giọng luật sư vẫn điềm tĩnh:
- Anh không biết việc này thật à?
- Ồ, tôi hoàn toàn không biết gì cả.
- Vậy mà cô Jannette lại quả quyết là anh biết cơ đấy. Chính bà Fren đã tiết lộ với
cô ta về chuyện này.
- Jannette ghét tôi nên bịa đặt đấy. Ông phải tin lời tôi.
- Anh đã đến nhà bà Fren vài buổi tối, chỉ có mình bà, và sáng hôm sau bà bị giết ở
phòng khách. Quả thật tối hôm đó, lúc 9 giờ rưỡi, Jannette có ghé nhà bằng cửa sau để
lấy một vài món lặt vặt ở phòng riêng rồi đi ngaỵ Cô ấy khai là có nghe thấy tiếng nói
chuyện giữa bà chủ và một người đàn ông từ phòng khách.
Voler đứng phắt dậy:
9/3720
- Vậy là tôi thoát nạn rồi. Vào lúc chín rưỡi, tôi đã về tới nhà. Vợ tôi có thể chứng
minh cho tôi. Cảm ơn Thượng đế xui khiến Jannette ghé về đúng lúc.
Nét mặt luật sư vẫn không bớt đăm chiêu:
- Vậy theo ý anh, ai đã giết bà Fren?
- Một tên cướp. Y đã dùng thanh sắt đập vào đầu bà Fren. Một cánh cửa sổ bị phá
vỡ, một số đồ vật bị lấy đi. Nếu không có sự nghi ngờ vô lý của Jannette và ác cảm của
cô ta đối với tôi...
- Sự việc không đơn giản như vậy đâu. Anh nói anh về nhà lúc chín rưỡi, vậy mà
Jannette lại nghe tiếng đàn ông nói chuyện với bà chủ trong phòng khách. Không lý bà
ấy đi nói chuyện bình thường với một tên cướp?
- Dù sao đi nữa, người đó cũng không phải là tôi. Tôi đã có mặt tại nhà lúc chín
rưỡi. Xin ông hãy đến gặp Romen, vợ tôi sẽ xác nhận lời khai của tôi.
- Bà Fren biết anh có vợ không?
- Dĩ nhiên là có.
- Jannette đã khai là chưa bao giờ anh đem vợ đến thăm bà Fren, cho nên bà ấy
tưởng anh độc thân và có ý định sẽ lập gia đình với anh.
- Vô lý, bà ta quá già.
- Chuyện đó không thành vấn đề.
Voler đỏ mặt:
- Đó chỉ là sự tưởng tượng của Jannettẹ Tôi van ông, hãy đến gặp vợ tôi.
Romen, vợ Voler là một phụ nữ cao lớn, tiều tụy. Bà tiếp luật sư Mayher với vẻ
hững hờ. Trông bà bình tĩnh đến lạnh lùng, điều này đã làm cho luật sư e ngại. Dù
muốn dù không, ông cũng phải trình bày mọi việc cho người đàn bà ấy nghe. Im lặng
một lát, Romen cất giọng đanh thép:
- Voler muốn tôi xác nhận là tối hôm đó, hắn trở về nhà lúc 9 giờ 20 phút chứ gì.
Đừng hòng. Tôi không bao giờ đồng lõa với kẻ sát nhân đâu. Ông hãy nghe cho rõ đây,
tôi xác nhận là Voler đã biết Fren có để lại gia tài cho hắn nên hắn đã giết mụ già để
sớm được vinh thân. Tối hôm đó hắn trở về lúc 10 giờ hai mươi, trên áo đầy máu. Hắn
thú nhận tất cả với tôi. Tôi sẽ là nhân chứng buộc tội hắn.
- Chị không thể làm chứng chống lại chồng.
- Hắn không phải là chồng tôi mà là một người đàn ông tồi tệ. Tôi căm thù hắn.
Tôi muốn trông thấy hắn bị treo cổ.
- Tôi sẽ đến gặp chị sau khi liên hệ với Voler.
Romen bĩu môi:
- Ông tin là hắn vô tội ư? Thật đáng thương!
Trước ngày tòa xử, luật sư Mayher nhận được một lá thư, nét chữ nguệch ngoạc:
"Nếu ông muốn vạch mặt mụ đàn bà đã hại chồng mình như thế nào, mời ông mang
theo 2.000 đô la, đến địa chỉ X... vào lúc 19 giờ, hỏi bà Motion".
Khó khăn lắm, luật sư Mayher mới tìm thấy địa chỉ căn nhà. Đó là một túp lều ổ
chuột nằm trong một con hẻm lầy lội, dơ dáy. Một mụ già lưng còng đợi ông sau cánh
cửa:
- Chào anh chàng luật sự Vào đây, vào đây.
Ngọn đèn trên trần tỏa ánh sáng lờ mờ. Luật sư Mayher giật mình khi thấy gương
mặt mụ già đầy những vết sần sùi đỏ hỏn. Mụ cất tiếng the thé:
10/3720
- Axit đấy, anh bạn trẻ ạ. Tôi sẽ trả thù, trả thù.
- Thôi đi, bà hãy vào vấn đề nhanh lên.
Bàn tay gầy đét với những ngón cáu bẩn đưa ra:
- Thế tiền đâu? Phải đủ hai ngàn đấy nhé.
- Nếu bà biết điều gì đó, bà có bổn phận ra tòa làm chứng.
- Không. Tôi chả biết quái gì cả, nhưng tôi có thể cho anh một vài thứ rất haỵ Anh
có thích đọc một lá thư của mụ Romen không? Rất cần thiết cho anh đấy. Đưa tiền đây.
- Tôi chỉ có một ngàn thôi. Nếu bà không chịu tôi xin kiếu.
- Quỷ tha ma bắt anh đi. Nào, bốc xỉa ngay.
Mụ già rút dưới tấm nệm rách ra một xấp bì thư, ném trước mặt Mayher:
- Chắc chắn anh sẽ khoái lá thư trên cùng.
Tất cả đều là những bức thư tình, do Romen viết gửi cho một người tên Mac. Lá
thư cuối cùng viết đúng ngày Voler bị bắt: "Mac yêu quý, Voler vừa bị bắt vì tình nghi
giết người. Em biết, Voler là một tên hiền như bụt, không hại đến một con ruồi. Nhưng
em sẽ khai trước tòa là hắn trở về nhà với máu me đầy mình và đã thú nhận tội lỗi với
em. Hắn sẽ bị treo cổ và chúng ta sẽ có nhau... ".
Mụ già nói thêm:
- Mac là chồng tôi. Ngày xưa, vì con bé Romen mà anh ta đã tạt axit vào mặt tôi.
Tôi thù nó và đã theo dõi, rình rập nó trong bao nhiêu năm trời. Bây giờ nó sẽ bị trừng
phạt vì tội khai man để đẩy chồng vào tù. Anh cứ tin đi. Hãy đến rạp chiếu bóng Eden
đưa tấm hình Romen ra, người ta sẽ cho anh biết sự thật.
Không bỏ phí thời gian, luật sư Mayher đến ngay rạp chiếu bóng và ông đã đạt
được ý muốn. Chẳng qua, trước khi lấy Voler, Romen từng là diễn viên kịch, nên nhiều
người biết mặt. Họ xác nhận, đêm hôm xảy ra án mạng, Romen vào rạp coi xuất chót,
vào lúc 10 giờ 20.
Ngày họp tòa. Romen khai rằng buổi tối hôm xảy ra án mạng, Voler ra khỏi nhà
mang theo một thanh sắt. Hắn trở về lúc 10 giờ 20 và thú nhận với chị là đã giết bà
Fren, hắn còn dọa sẽ giết chị nếu chị nói sự thật.
Lập tức, lá thư tội lỗi được đưa ra. Các chuyên viên về chữ viết đã xác nhận chữ
trong thư đúng là của Romen. Người đàn bà điêu ngoa đã phải gục đầu thú nhận. Quả
thật, Voler đã trở về nhà lúc 9 giờ 20 như lời anh đã khai.
Voler được trắng án.
Nhưng sự việc không ngừng ở đây, bởi lương tâm luật sư Mayher cảm thấy không
yên. Lòng dạ Ông bồn chồn khi nhớ lại những cử chỉ của Romen trước vành móng
ngựa. Lưng chị hơi còng, bàn tay phải luôn xòe ra, một thói quen kỳ la... hình như ông
đã thấy một người cũng có cái tật như thế. Ai? Luật sư giật nẩy mình. Đúng rồi, Romen
đã từng là kịch sĩ... mụ già mặt thẹo!
Ông tìm đến nơi Romen đang trả giá ba tháng tù vì tội khai man. Đầu óc ông quay
cuồng với bao câu hỏi. Tại sao? Tại sao?
Người đàn bà trở lại vẻ lạnh lùng cố hữu:
- Tại sao tôi lại chơi cái trò ấy à? Tôi phải cứu chồng tôi chứ. Một lời khai của
người vợ thương chồng đâu có thuyết phục được ai. Nếu những lời nói của tôi không tự
ý mình, mà do những tác động bên ngoài bắt buộc thì ai cũng phải tin. Tôi bị phạt tù vì
11/3720
khai man hại chồng, nhưng chồng tôi sẽ được cảm tình của tòa và mọi việc sẽ thuận
theo chiều hướng tốt đẹp.
- Còn tập thử Còn anh chàng Mac?
- Nếu chỉ viết một lá thư thì có vẻ giả tạo quá. Còn anh chàng Mac ư? Làm gì có,
đó chỉ là một cái tên ma.
Luật sư Mayher hậm hực:
- Lẽ ra chị không nên làm thế. Chúng ta có thể chứng minh sự vô tội của Voler
bằng một cách hợp pháp hơn.
Romen nhếch mép:
- Thế ông vẫn tin Voler vô tội ư?
- Dĩ nhiên. Chị đã rõ là tôi tin như vậy.
- Tôi thì chả rõ gì cả. Tôi biết chắc là chồng tôi đã giết bà Fren. Để làm gì ư? Vì
chúng tôi quá nghèo, ngài luật sư ạ.
3. Ba điều bí ẩn
Mục lục
Chương 1
Chương 3
Chương 5
Chương 7
Chương 9
Chương 11
Bí Ẩn II - CHUƠNG I
CHUƠNG III
CHƯƠNG V
CHƯƠNG VII
CHƯƠNG IX
Bí Ẩn III - Chương một
Chương ba
Chương năm
Chương bảy
Chương 2
Chương 4
Chương 6
Chương 8
Chương 10
Chương 12
CHUƠNG II
CHƯƠNG IV
CHƯƠNG VI
CHƯƠNG VIII
CHƯƠNG X
Chương hai
Chương bốn
Chương sáu
Chương tám
Dịch giả: DƯƠNG LINH
Chương 1
Bí Ẩn I
TẤM GƯƠNG CỦA NGƯỜI CHẾT
(Dead Man’s Mirror)
Căn hộ khá hiện đại, bàn ghế cũng vậy: ghế bành vuông, bàn có chân khúc khuỷu.
Trước bàn làm việc lớn đặt ngay trước cửa sổ, một con người nhỏ bé đang ngồi. Đầu
ông là vật duy nhất không vuông trong phòng này, vì nó tròn như hình quả trứng.
Hercule Poirot, vì đó là nhà thám tử của chúng ta, đang đọc một lá thư:
Hamborough Close, Westshire
Ngày 24-9-1936
Kính gửi ông Hercule Poirot,
Một vụ việc vừa phát sinh, đòi hỏi sự xử lý tinh tế và kín đáo. Tôi đã nghe nhiều
người nói tốt về ông, nên quyết định giao phó việc này cho ông. Tôi có nhiều lý do để
tự tin mình là nạn nhân của một vụ gian lận, Nhưng vì lý do gia đình, không muốn kêu
cảnh sát. Tôi đã có một số biện pháp để phòng thân và đối phó với tình hình, nhưng ông
12/3720
cần sẵn sàng đến đây ngaykhi vừa nhận được điện. Ông khỏi cần trả lời thư này, xin gửi
tới ông lòng biết ơn.
Kính thư: Gervase Chevenix-Gore
Lông mày Hercule Poirot nhướn cao trên trán đến mức gần lẫn với tóc.
- Cái lão Gervase này là ai nhỉ?
Ông lấy trong tủ một quyển sách dày cộp ra tra cứu, và dễ dàng có ngay thông tin.
Ngài Gervase Chevenix-Gore, nguyên đại uý Đoàn kỵ binh số 17. Sinh ngày 18-51878. Là con cả của ngài Guy Chevenix-Gore và phu nhân Claudia Bertherton. Năm
1912 kết hôn với Wanda Elizabeth, trưởng nữ của đại tá Fredirick Arbuthnot. Đã phục
vụ trong chiến tranh 1914-1918. Thú vui ưa thích: du lịch, săn bắn. Địa chỉ:
Hamborough Close, Westshire, và 218 Lowndes Square. Tham gia sinh hoạt các câu lạc
bộ kỵ binh và du hành.
Poirot lắc đầu có vẻ chưa hài lòng, ngồi suy nghĩ một lát, rồi mở ngăn kéo rút ra
một loạt thiếp mời. Mặt ông sáng lên:
- Đây rồi! Cái này chắc là đúng. Hẳn ông ta có mặt ở đó.
***
Nữ công tước chào đón Hercule Poirot với vẻ nồng nhiệt hết mực:
- Ôi, thế là ông cũng thu xếp để đến với chúng tôi, ông Poirot?
Poirot cúi người thật thấp.
- Không có gì ạ, tôi rất vui được tới đây.
Len lách qua rất nhiều nhân vật: một nhà ngoại giao có tiếng, một nữ nghệ sĩ nổi
danh v. v… cuối cùng Poirot cũng tới được người ông định tìm: ông Satterthwaite,
khách quen không thể thiếu trong các cuộc tiếp tân của nữ công tước.
Ông này tươi cười chào Poirot:
- Ôi, cái bà công tước này... đến dự các cuộc họp của bà bao giờ cũng thú vị... tính
cách bà rất hay. Tôi đã quen bà ấy từ hồi ở đảo Corse, cách đây nhiều năm. Lâu quá rồi
mới được gặp ông ở đây hôm nay...
Sau một lát điểm qua những người quen cũ, Poirot mới đưa được cái tên Gervase
vào câu chuyện.
- A! Gervase Chevenix-Gore! Người ta mệnh danh lão là "vị nam tước cuối cùng".
- Xin lỗi... tôi không hiểu.
Ông Satterthwaite lại có dịp được khoe sự thông thạo của mình.
- Đấy là nói đùa. Dĩ nhiên, ông ta không thực sự là nam tước cuối cùng của nước
Anh, song ông ta là đại diện cho một dòng họ đã cáo chung. Kiểu nam tước có đầu óc
ngông cuồng, thích chơi trội, thường được mô tả trong các tiểu thuyết của thế kỷ trước.
Ông kể thêm chi tiết: ngay lúc mới lớn, Gervase đã đi vòng quanh thế giới bằng
thuyền buồm, tham gia một đoàn thám hiểm Bắc cực. Hắn thách bạn đua ngựa theo một
lộ trình cực kỳ mạo hiểm và thắng cuộc. Một tối, ở rạp hát, hắn nhẩy từ lô tầng hai
xuống sân khấu, cướp đi cô diễn viên nổi tiếng đang diễn xuất... Có vô số giai thoại về
những trò ngông của Gervase.
- Đó là một dòng họ lớn, nhưng đang suy tàn. Và lão Gervase là thế hệ cuối cùng.
- Của cải đã bị tẩu tán hết rồi sao?
13/3720
- Không hề. Gervase vẫn giàu sụ. Sở hữu một dinh cơ lớn và nhiều mỏ than; ngoài
ra từ thời trẻ, lão đã hùn vốn khai thác mỏ ở Nam Mỹ, vớ được khối tiền. Thật kỳ lạ, lão
làm việc gì cũng trúng, cũng phất.
- Giờ chắc ông ta già lắm rồi?
- Phải, tội nghiệp lão, nếu nghe thiên hạ thì người ta đều bảo lão lú lẫn rồi. Điều đó
đúng một phần nào. Lão điên... không phải điên loạn phải nhốt vào trại, điên ở đây có
nghĩa là lão không bình thường. Tính lão vốn thích chơi ngông mà.
- Và tính ngông nghênh ngày càng trở nên quái đản? - Poirot nói.
- Ấy, đúng lão Gervase là thế đấy.
- Có lẽ ông ta tự đề cao mình một cách quá đáng?
- Đúng vậy. Tôi cho là trong trí óc của Gervase thế giới này chia làm hai phần: một
bên là dòng họ Chevenix-Gore, còn lại là tất cả những người khác.
- Hắn có tinh thần họ tộc đến vậy?
- Phải. Họ Chevenix-Gore đều kiêu căng, không coi ai ra gì. Gervase là hậu duệ
cuối cùng, càng không thoát cái tật vô lối ấy. Nghe lão nói, cứ tưởng như lão là Đức
Chúa Cha không bằng.
Poirot gật gù suy nghĩ:
- Bây giờ thì tôi hiểu. Tôi vừa nhận của ông ta một lá thư, không yêu cầu, mà cứ
như ra lệnh cho tôi phải đến gặp.
- Lệnh của đức Hoàng thượng! - ông Satterthwaite reo lên với vẻ hiểu ngầm thú vị.
- Đúng vậy đấy. Ông ta không hề nghĩ rằng tôi đây, Hercule Poirot cũng là một
nhân vật quan trọng, còn nhiều việc phải làm chứ không phải chi ngồi chờ lão vẫy một
cái là vội bỏ hết mọi thứ để chạy đến như một con chó ngoan ngoãn...!
Ông Satterthwaite cắn môi để kìm giữ khỏi mỉm cười. Ông vừa nhận thấy vẻ mặt
tự cao tự đại Hercule Poirot và Gervase chẳng kém gì nhau. Ông nhẹ nhàng nói:
- Tuy nhiên, nếu đó là việc khẩn cấp...
- Đâu có khẩn! - Poirot giơ hai tay lên trời - Tôi phải sẵn sàng phòng lúc nào lão
cần đến!
- Vậy tôi đoán là ông từ chối? - Satterthwaite nói.
- Tôi chưa có dịp nói lại - Poirot đáp.
- Nhưng ông sẽ từ chối?
Nét mặt thám tử đổi khác, ông cau mày lưỡng lự:
- Biết nói thế nào nhỉ? Từ chối... Phải, đó là ý nghĩ của tôi ngay lúc đó, nhưng rồi
không hiểu tại sao... tôi linh cảm... dường như có uẩn khúc gì đây.
Satterthwaite nghe tuyên bố ấy của Poirot một cách nghiêm túc:
- Ô! Thật là hay...
- Cứ nghe ông kể, tôi thấy một người như ông ta rất dễ bị tổn thương.
- Dễ bị tổn thương? - Satterthwaite ngạc nhiên lặp lại, ông không hình dung tính từ
ấy lại có thể gán cho Gervase Chevenix-Gore.
Song ông có trí óc nhạy bén, suy nghĩ nhanh nhạy nên nói tiếp:
- Có lẽ tôi hiểu ông nói gì.
- Một người tự giam mình trong chiếc áo giáp... áo giáp kiêu căng, tự mãn tự đại
vô hạn. Trong chừng mực nào đó, áo giáp ấy là một phương tiện bảo vệ tốt chống lại
các mũi tên của cuộc sống thường nhật… nhưng vẫn tồn tại mối nguy hiểm. Nai nịt như
14/3720
vậy có khi lại không nhận thấy mình đang bị tấn công. Chậm thấy, chậm nghe, càng
chậm cảm nhận.
Poirot ngừng lời, rồi đổi giọng, hỏi:
- Gia đình Gervase gồm những ai?
- Vợ là Wanda. Thuộc dòng họ Arbuthnot thời con gái rất đẹp, nay vẫn còn đẹp, rất
trung thành với Gervase. Gần đây sinh ra tin các thuyết huyền bí, mang bùa, đeo đá
thiêng trên người, tự cho mình là hiện thân của một nữ hoàng Ai Cập...
“Rồi đến Ruth cô con gái nuôi. Hai vợ chồng không có con. Ruth là một cô gái
xinh đẹp, loại hiện đại. “Gia đình chỉ có ngần ấy. Ngoài ra có Hugo Trent, cháu gọi
Gervase bằng cậu.
“Chị gái Gervase là Pamela kết hôn với Reggie Trent, Hugo là con trai duy nhất.
Hugo mồ côi cha mẹ và không thể thừa kế tước hiệu, tất nhiên, song tôi nghĩ cậu ta sẽ
thừa hưởng phần lớn tài sản của Gervase. Hugo là chàng trai tuấn tú, phục vụ trong đội
kỵ binh hoàng gia.
- Gervase chắc rất đau khổ vì không có con trai để nối dõi dòng họ, duy trì tước
hiệu - Poirot nói.
- Điều đó thì đã hẳn.
Im lặng một lúc lâu, Satterthwaite mới tò mò hỏi:
- Ông có thấy thật cần thiết phải đến gặp Gervase ở Hamborough Close?
Poirot thong thả lắc đầu;
- Không, lúc này thì chưa. Nhưng tôi nghĩ sẽ có lúc đến.
Chương 2
Ngồi đàng hoàng trên toa tầu hạng nhất rồi, Poirot rút bức điện từ trong túi đọc lại.
“Hãy đáp chuyến tàu bốn giờ ba mươi St. Paneras. Nhớ yêu cầu trưởng tàu cho tàu
đỗ ở Whimperley
Gervase Chevenix-Gore”
Viên trưởng tàu tỏ ra xum xoe:
- Dạ, quý ông đến Hamborough Close? Vâng, chúng tôi bao giờ cũng cho tầu đỗ ở
Whimperley riêng cho các khách của Ngài Gervase Chevenix-Gore. Đó là sự ưu tiên
đặc biệt.
Sau đó, trưởng tầu còn hai lần đích thân tới tận nơi, một lần để thăm hỏi khách có
vừa lòng không, và lần thứ hai để thông báo tầu đến chậm mười phút.
Sau khi đã đặt vào tay trưởng tầu món tiền "boa" nhỏ, Hercule Poirot bước xuống
sân cái ga xép. Lúc đó là tám giờ hai phút.
Tầu huýt còi, tiếp tục chuyển bánh. Một anh tài bận sắc phục trịnh trọng bước tới.
- Quý ông Poirot, đi Hamborough Close? Mời ngài lên xe.
Hắn đỡ va li và hướng dẫn khách ra khỏi ga, nơi chiếc xe hơi Rolls sang trọng đợi
sẵn. Poirot lên xe, anh tài phủ lên đầu gối ông một tấm chăn lông lộng lẫy.
Sau khi chạy mươi phút trên những con đường khúc khuỷu, xe đi qua một cái cổng
đồ sộ, chạy ngang khu vườn, leo lên bậc cửa. Một quản gia cao lớn mở cửa.
- Ngài Poirot? Xin mời ngài đi lối này.
Ông ta đi trước, tới một tấm cửa khác phía bên phải, xướng to:
- Ngài Hercule Poirot tới!
15/3720
Một số người trong trang phục chỉnh tề đang có mặt trong phòng. Poirot nhận thấy
ngay là không ai chờ đón mình. Tất cả các cặp mắt đều quay nhìn ông, lộ vẻ ngạc
nhiên.
Một bà dáng người cao lớn, tóc đen điểm vài sợi bạc, ngập ngừng tiến lại. Poirot
nghiêng mình, nói:
- Thành thật xin lỗi bà, xe lửa hôm nay đến hơi chậm giờ.
Phu nhân Chevenix-Gore vẫn nhìn khách với thái độ phân vân:
- Không hề gì, thưa ông... ông... xin lỗi... tôi chưa được hân hạnh...
- Tôi là Hercule Poirot.
Ông xưng danh một cách rành rẽ. Có tiếng người «Ồ!» lên ngạc nhiên sau lưng
ông. Cùng lúc ấy, Poirot hiểu là ngài chủ nhân không có trong phòng này. Ông nhẹ
nhàng hỏi:
- Bà biết là tôi sẽ tới chứ ạ?
- Ô vâng... à phải... nhưng mà tôi hay quên lắm. Người ta nói cái này cái nọ, tôi
tưởng là đã nghe nhưng rồi lời lẽ từ tai này sang tai khác, không còn gì nữa.
Rồi, như người suýt quên bổn phận, bà đưa mắt nhìn một vòng, nói:
- Hy vọng là ông đã quen biết mọi người ở đây.
Rõ ràng là không phải vậy, câu vừa rồi chỉ là cách nói thuận tiện để bà khỏi phải
giới thiệu từng người một.
Rồi cố gắng để thoát khỏi lúng túng, bà chỉ một cô gái:
- Ruth, con gái tôi.
Cô gái đứng trước mặt Poirot cũng cao nhưng thuộc túyp người khác hẳn. Mặt
người mẹ có những nét chung chung, còn cô con gái có cái mũi hơi gồ và chiếc cằm
đầy nghị lực. Mớ tóc đen uốn xoắn hất ngược ra đáng sau, làm lộ vầng trán cao ráo.
Nước da sáng hầu như không son phấn.
Hercule Poirot tấm tắc trong lòng, đánh giá đây là một trong những thiếu nữ đẹp
nhất ông từng gặp.
Chẳng bao lâu, ông còn nhận ra Ruth không chỉ đẹp, mà còn thông minh và không
kém kiêu hãnh và cá tính. Giọng nói cô cất lên thật dễ nghe.
- Hay quá, được tiếp ông Hercule Poirot tại nhà! Bố chắc muốn dành cho chúng ta
sự bất ngờ này.
- Vậy ra cô cũng không biết là tôi sẽ đến? - Poirot hỏi.
- Tôi không hề biết gì. Để ăn xong, tôi sẽ phải lấy sổ ra xin ông chữ ký.
Tiếng cồng vang lên trong sảnh, bác đầu bếp mở cửa, loan báo:
- Bàn ăn đã dọn.
Vừa nói xong câu ấy, nét mặt bác đầu bếp đột nhiên thay đổi từ trang trọng chuyển
sang ngạc nhiên kinh hãi. Sự thay đổi diễn ra rất nhanh rồi trở lại ngay bình thường, nếu
ai không nhìn đúng lúc đó thì không thể nhận ra. Nhưng Poirot đã nhìn thấy.
Bác đầu bếp lưỡng lự. Dù nét mặt đã trở lại nghiêm chỉnh, ta vẫn cảm thấy có sự
căng thẳng.
Phu nhân Chevenix-Gore thốt lên:
- Ôi trời! Lạ thật. Không biết ta nên làm gì.
Ruth quay sang Poirot, giải thích:
16/3720
- Mọi người sững sờ là vì đây là lần đầu từ ít nhất hai mươi năm nay, cha tôi ra ăn
muộn.
- Thật kỳ quặc - Phu nhân Chevenix-Gore than - Ông Gervase chưa bao giờ...
Một người đàn ông đứng tuổi, dáng dấp như quân nhân, lại gần phu nhân và cười
to:
- Chà chà, cái ông Gervase! Ông ta ra chậm, tha hồ cho chúng ta trêu nhé! Ông ta
còn chưa cài khuy áo xong hay sao? Cứ tưởng ông không bao giờ vướng bận những
chuyện vặt thường ngày!
Phu nhân Chevemx-Gore chỉnh lại.
- Ông Gervase không bao giờ ra chậm.
Tình huống lấn bấn gây ra vì một chuyện nhỏ như vậy, xem rá thật khôi hài... Song
Hercule Poirot đánh hơi ngay là có chuyện... Đáng lo ngại là đằng khác. Bản thân
Poirot cũng ngạc nhiên là Gervase không ra đón tiếp người khách mà mình cầu cứu.
Rõ ràng là mọi người lúng túng chưa biết làm gì trước sự kiện có một không hai
này. Cuối cùng, phu nhân Chevenix-Gore chỉ còn biết quay hỏi anh đầu bếp:
- Snell, hay là ông chủ..
Anh đầu bếp trả lời ngay:
- Dạ, ông nhà đã xuống lúc tám giờ kém năm, và đi thẳng vào văn phòng.
- À! Vậy thì...
Bà chỉ thốt lên được thế, rồi nói tiếp:
- Anh có nghĩ rằng... rằng ông chủ đã nghe tiếng cồng chứ?
- Thưa bà, chắc chắn phải nghe đấy, vì cồng đạt ngay cạnh cửa văn phòng. Tôi
không biết ông nhà vẫn ở trong ấy, nếu không tôi đã báo trực tiếp với ông là bàn ăn đã
dọn. Bây giờ tôi đi báo, được không ạ?
- Ô! Được! Anh vào báo đi - Phu nhân thở phào, nhẹ nhõm.
Anh đầu bếp đi rồi, bà nói:
- Snell thật được việc, tôi hoàn toàn tin cậy. Không có anh ta, tôi thật khó xoay sở.
Có người nào đó gật gù đồng tình, nhưng không ai nói gì.
Hercule Poirot đứng quan sát kỹ từ nẫy, nhận thấy ai nấy đều cực kỳ căng thẳng.
Ông nhìn khắp một lượt, thử điểm những người có mặt:
Hai đàn ông đứng tuổi, một là người dáng bộ quân nhân vừa nói lúc trước, còn
người gầy, tóc hoa râm, môi mím lại, trông có vẻ luật gia.
Hai chàng trai, một để ria mép, điệu bộ vênh vang, Poirot đoán là người cháu của
Gervase, tức cái anh ở đội kỵ binh Hoàng gia. Anh kia tóc chải mượt, vẻ mặt khá tuấn
tú, nhưng rõ ràng thuộc tầng lớp xã hội thấp hơn.
Còn một bà đứng tuổi nhỏ thó đeo kính, đôi mắt tinh anh, và một cô cái tóc hung
đỏ rực.
Snell xuất hiện ở bậc cửa. Trong dáng bộ hoàn hảo của một người hầu có giáo dục,
toát lên sự lo âu sâu sắc.
- Thưa bà, cánh cửa văn phòng bị khóa chặt.
- Cửa khoá?
Đó là tiếng nói của chàng trai tóc mượt, đầy vẻ lo lắng, sốt ruột.
- Để tôi đi xem nhé.
17/3720
Song Hercule Poirot đã lập tức đứng ra làm chủ tình thế; ông làm một cách bình
tĩnh, tự nhiên khiến không ai kịp ngạc nhiên bỗng dưng có một người lạ mới tới lại nắm
quyền điều khiển. Ông nói với Snell:
- Nào, lại đây ta cùng đi.
Anh đầu bếp đi trước, Poirot bám sát theo, những người khác cũng tiếp nối đi sau
như một đàn cừu. Họ đi chéo cái sảnh rộng qua chân cầu thang đồ sộ, qua chiếc đồng
hồ đứng và một khúc tường lõm nơi đặt cồng, vào một hành lang hẹp tận cùng bằng
một cánh cửa.
Poirot vượt lên trước Snell, khẽ xoay quả đấm cửa, nhưng cánh cửa bất động. Ông
gõ cửa, gõ nhiều lần thật mạnh, cũng không có tiếng thưa. Ông liền quỳ một đầu gối
xuống đất, ghé nhòm vào lỗ khoá. Rồi ông thong thả đứng lên và quay lại:
- Phải phá cửa, vào ngay!
Hai chàng trai lực lưỡng lập tức ra tay. Nhiệm vụ không dễ dàng, vì các cửa nhà
Hamborough Close rất chắc. Cuối cùng ổ khoá cũng bật tung, cánh cửa mở ra trong
tiếng ồn ào.
Trong một lát, tất cả đều đứng sững trước cảnh tượng bày ra trước mắt. Đèn vẫn
sáng, dọc tường bên trái là một bàn viết lớn màu gụ. Ngồi trước bàn, nhưng người xoay
nghiêng so với mép bàn và quay lưng ra phía cửa, là một người cao lớn gục trong ghế
bành. Đầu và nửa thân trên ngoẹo sang thành ghế bên phải, cánh tay phải thõng xuống.
Ngay phía dưới bàn tay, một khẩu súng nhỏ lấp lánh trên sàn.
Khỏi phải hỏi nhau, ai cũng thấy rõ: Ngài Chevenix-Gore vừa tự vẫn.
Chương 3
Tất cả đứng lặng nhìn cảnh tượng rồi Poirot bước vào phòng, trong lúc Hugo Trent
kêu:
- Trời! Cụ cố tự tử!
Phu nhân Chevenix-Gore rên rỉ:
- Ôi, ông Gervase... Gervase…
Poirot quay đầu lại:
- Hãy đứa phu nhân đi chỗ khác. Ở đây chẳng ích gì.
Người có dáng bộ quân nhân làm theo:
- Đi, chị Wanda. Đi thôi, chẳng làm gì được nữa rồi, thế là hết. Ruth, cháu đưa mẹ
đi.
Nhưng Ruth đã vào tận trong phòng theo sát Poirot đang cúi xuống người chết,
một con người to lớn, vạm vỡ, để râu như hiệp sĩ thời Viking.
- Có chắc là bố cháu đã chết chưa? - Ruth hỏi bằng giọng nói hơi nghèn nghẹn một
cách kỳ lạ.
Poirot ngước mắt. Mặt cô gái thể hiện sự xúc động khó kìm nén khiến ông hơi khó
hiểu. Không hẳn là sự đau khổ, mà la một niềm kích động pha lẫn kinh hoàng.
Cô gái có bộ tóc hung đỏ nói the thé:
- Vậy ra lúc nẫy cái ta nghe không phải là tiếng xe hơi hay nổ sâm banh. Mà là
tiếng súng...
Poirot quay về phía mọi người:
- Ai đó cần đi báo cảnh sát.
- Không! - Ruth Chevenix-Gore kêu to.
18/3720
Người đàn ông đứng tuổi có vẻ luật gia, nói:
- E rằng không thể nào làm khác. Anh Burrous, anh lo cho việc đó nhé? Còn
Hugo...
Poirot quay sang chàng thanh niên có ria mép:
- Anh là Hugo Trent? Có lẽ mọi người nên giải tán, chỉ tôi và anh ở lại.
Một lần nữa, lời của Poirot được coi như mệnh lệnh. Ông luật gia xua mọi người đi
ra. Còn Poirot và Hugo Trent... anh này nói:
- Vậy ông là ai? Tôi chưa hề nghe nói về ông, và ông ở đây làm gì?
Poirot rút túi một tấm danh thiếp đưa cho Hugo.
- Ô, thám tử tư! Tôi có nghe tiếng ông... song vẫn chưa hiểu ông tới đây làm gì?
- Anh không biết là cậu anh... vì đây chính là cậu anh, phải không?
- Ông cố này? Phải, là cậu tôi.
- Anh không biết là cậu anh yêu cầu tôi đến?
Hugo lắc đầu.
- Không hề.
Giọng chàng trai run run một niềm xúc động khó tả, trong khi bộ mặt thì ngỡ
ngàng, ngơ ngác... Poirot: "một kiểu mặt nạ rất tiện để che giấu sự lo sợ, nếu có". Ông
nói nhẹ nhàng, thong thả:
- Khu vực này thuộc xứ Westshire. Tôi rất quen ông thiếu tá Riddle, thanh tra cảnh
sát địa phương.
- Ông Riddle ở cách đây nửa dặm, chắc sẽ tới bây giờ.
- Thế thì tốt.
Poirot đi một lượt quanh phòng, kéo các rèm cửa, xem xét các cánh cửa sổ đóng
kín.
Trên tường, phía sau bàn giấy, là một tấm gương tròn, mặt bị vỡ. Poirot cúi xuống
nhặt một vật.
- Ông thấy cái gì đó? - Hugo Trent hỏi.
- Viên đạn.
- Đạn xuyên qua đầu từ bên này sang bên kia rồi đập vào mặt gương?
- Có vẻ như vậy.
Poirot cẩn thận đặt lại viên đạn vào chỗ cũ, và lại gần bàn. Một số giấy tờ sắp xếp
có trật tự. Trên tờ giấy thấm, có một mảnh giấy viết chữ xin lỗi bằng chữ in hoa, hơi run
rẩy.
- Cụ đã viết chữ này trước khi tự vẫn - Hugo nói.
Poirot nghiêng đầu không nói. Ông lần lượt nhìn tấm gương và xác chết, vẻ suy
nghĩ. Rồi lại gần cánh cửa lúc nẫy bị phá lủng lẳng, với chiếc ổ khóa bật tung. Ổ khóa
không có chìa, điều đó ông đã biết, nếu không lúc nẫy đã không nhòm được vào trong và chìa cũng không rơi xuống sàn. Poirot trở lại với người chết, nắn nắn quần áo.
- Đúng rồi. Chìa khóa ở trong túi áo ông ấy.
Hugo châm một điếu thuốc nói giọng khàn:
- Mọi thứ có vẻ đã rõ. Cậu tôi khóa cửa ngồi đây, nguệch ngoạc mấy chữ rồi tự bắn
vào đầu.
Poirot gật gù đồng tình.
- Nhưng tôi vẫn không hiểu tại sao cụ ấy lại mời ông đến? Có chuyện gì?
19/3720
- Điều này khó giải thích hơn. Nhưng trong lúc chờ cảnh sát tới, anh có thể nói tôi
biết những người tôi gặp lúc đến đây gồm những ai?
- Họ là ai ấy à? - Hugo đáp, vẻ lơ đãng - À phải, tất nhiên, xin lỗi ông. Ta ra ngồi
kia, được không?
«Trước hết có dì Wanda và cô em họ Ruth ông biết rồi. Cô gái kia là Susan
Cardwell, một khách mời, đại tá Bury bạn lâu năm của gia đình và ông Forbes, cũng là
bạn lâu năm, đồng thời là luật gia giúp cậu tôi quản lý công việc về luật pháp. Hai ông
già này mê Wanda từ hồi dì còn trẻ và hiện nay vẫn rất quý mến và tận tụy với dì. Buồn
cười thật, nhưng cũng cảm động.
«Ngoài ra có Godfrey Burows thư ký riêng của cậu tôi, và cô Lingard đến đây giúp
cậu tôi viết lịch sử dòng họ Chevenix-Gore; cô này từng làm việc nghiên cứu lịch sử
giúp các nhà văn. Đó, ngần ấy người, hết.
- Nếu tôi hiểu đúng, mọi người đều nghe thấy tiếng súng cậu anh bắn?
- Có, chúng tôi có nghe. Tôi tưởng là nút sâm banh nổ; Susan và cô Lingard lại cho
là tiếng xe hơi nổ máy... Đường cái chạy qua gần đây.
- Lúc đó là bao giờ?
- Khoảng tám giờ mười. Snell vừa đánh cồng.
- Lúc đó anh đứng chỗ nào?
- Trong phòng sảnh lớn. Chúng tôi còn đùa nhau xem tiếng ấy từ đâu phát ra. Tôi
bảo nó từ phòng ăn. Susan bảo là từ phía ngoài, còn cô Lingard nói là từ tầng hai. Snell
thì khẳng định là tiếng nổ từ ngoài đường, lọt vào nhà từ những cửa sổ tầng hai.
Susan nói: "Còn giả thuyết nào nữa không?" và tôi cười mà nói còn một giả thuyết
nữa là có án mạng! Nay nghĩ lại, thật chua chát.
Nói rồi, nét mặt Hugo có vẻ đau khổ.
- Không ai nghĩ có thể là ông Gervase tự tử?
- Không.
- Và anh cũng không có suy nghĩ gì về lý do mà ông cụ phải kết liễu cuộc đời?
- Ồ! - Hugo thong thả nói - không hẳn.
- Vậy ý của anh là thế nào?
- Vâng... nhưng ý không rõ lắm. Tất nhiên, tôi không ngờ ông cụ tự tử, nhưng dù
sao điều đó không làm tôi thực sự ngạc nhiên. Sự thật là cậu tôi điên lẫn quá rồi, mọi
người đều biết.
- Anh cho giải thích như vậy là xuôi?
- Thì cũng phải có điên thì mới tự bắn mình vào đầu chứ!
- Một kết luận tuyệt vời đơn giản.
Hugo mở to đôi mắt.
Poirot đứng lên, đi tha thẩn trong phòng. Phòng bày biện toàn bàn ghế kiểu cổ đẹp
và vững chãi. Poirot tấm tắc trước mấy pho tượng đồng nhỏ đặt trên lò sưởi, ông nhấc
lên từng cái một ngắm nghía rồi mới để lại vào chỗ cũ. Trên một bức tượng đặt ở bên
trái, ông lấy ngón tay gẩy ra một vật.
- Cái gì thế? - Hugo hỏi.
- Không có gì đặc biệt. Một mảnh gương vỡ rất nhỏ.
- Lạ là tấm gương bị đạn bắn vỡ. Gương vỡ là điềm tai hoạ. Tội nghiệp ông cụ...
ông cụ đã hưởng số may quá lâu.
20/3720
- Xem thêm -