TRANH CHẤP BIỂN ĐÔNG:
LUẬT PHÁP, ĐỊA CHÍNH TRỊ VÀ
HỢP TÁC QUỐC TẾ
2
Đặng Đình Quý
(Chủ biên)
TRANH CHẤP BIỂN ĐÔNG:
LUẬT PHÁP, ĐỊA CHÍNH TRỊ VÀ
HỢP TÁC QUỐC TẾ
3
ISBN: 9786047705641
Các bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả chứ không phản ánh quan điểm của các cơ
quan, tổ chức nơi tác giả đang công tác, cũng như quan điểm của chủ biên và nhà xuất bản.
4
MỤC LỤC
LỜI GIỚI THIỆU . .................................................................................................. 9
Đặng Đình Quý
Giám đốc Học viện Ngoại giao
Phần I: TẦM QUAN TRỌNG CỦA BIỂN ĐÔNG ĐỐI VỚI THẾ GIỚI VÀ
KHU VỰC . .............................................................................................................. 17
1. THỬ NHIỆT TẦM QUAN TRỌNG TOÀN CẦU CỦA
TRANH CHẤP BIỂN ĐÔNG . ............................................................................ 19
GS. Geoffrey Till
2. CÁC VẤN ĐỀ VÀ LỢI ÍCH TẠI BIỂN ĐÔNG.................................................. 41
ĐS. Rodolfo C. Severino
3. MỸ “QUAY TRỞ LẠI” CHÂU Á VÀ VẤN ĐỀ BIỂN ĐÔNG......................... 51
TS. Bronson Percival
Phần II: LỢI ÍCH CỦA CÁC BÊN TRONG VÀ NGOÀI KHU VỰC
Ở BIỂN ĐÔNG ....................................................................................................... 63
4. TÓM TẮT VỀ RỦI RO CỦA VIỆC ÁP DỤNG CHÍNH TRỊ THỰC TIỄN
TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BIỂN ĐÔNG:
HỆ LỤY ĐỐI VỚI AN NINH KHU VỰC ......................................................... 65
TS. Renato Cruz De Castro
5. TẠI SAO TRUNG QUỐC NHẤT ĐỊNH CẦN BIỂN ĐÔNG
CHO RIÊNG MÌNH: MỘT QUAN ĐIỂM DỰ ĐOÁN VÀ
ĐỘC LẬP TỪ BÊN NGOÀI . ............................................................................... 83
Tướng (nghỉ hưu) Daniel Shaeffer
6. ASEAN VÀ TRANH CHẤP Ở BIỂN ĐÔNG .................................................... 95
NCS. Hà Anh Tuấn
7. LỢI ÍCH CỦA ẤN ĐỘ Ở BIỂN ĐÔNG . ......................................................... 109
TS. Vijay Sakhuja
8. NGA VÀ VẤN ĐỀ BIỂN ĐÔNG: ĐI TÌM MỘT CÁCH TIẾP CẬN
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ ....................................................................................... 121
GS. Evgeny A.Kanaev
5
Mục lục
Phần III: NHỮNG DIỄN BIẾN GẦN ĐÂY Ở BIỂN ĐÔNG ..................................... 133
9. TRANH CHẤP BIỂN ĐÔNG: TÁC ĐỘNG CỦA NHỮNG DIỄN BIẾN
GẦN ĐÂY VÀ TRIỂN VỌNG CHO TƯƠNG LAI ........................................ 135
TS. Trần Trường Thủy
10. CĂNG THẲNG GIA TĂNG TẠI BIỂN ĐÔNG: NGUYÊN NHÂN VÀ
GIẢI PHÁP............................................................................................................. 151
TS. S. D. Pradhan
11. NHỮNG SỰ KIỆN GẦN ĐÂY Ở BIỂN ĐÔNG VÀ QUAN HỆ VIỆT NAM –
TRUNG QUỐC: PHÂN TÍCH QUA LĂNG KÍNH CỦA TRUYỀN THÔNG
TRUNG QUỐC VÀ CÁC BÁO CÁO CHÍNH THỨC................................... 161
Li Jianwei và Chen Pingping
12. TRUNG QUỐC, VIỆT NAM VÀ TRANH CHẤP BIỂN ĐÔNG:
ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA CÁC SỰ KIỆN
THÁNG 5 – 6 NĂM 2011 ................................................................................... 175
GS. Ramses Amer
13. NHỮNG VẬN ĐỘNG TRONG NỘI KHỐI ASEAN VÀ
TRANH CHẤP BIỂN ĐÔNG: TÁC ĐỘNG VỚI TIẾN TRÌNH DOC/COC
VÀ ĐỀ XUẤT ZOPFFC........................................................................................ 195
TS. Ian Storey
14. BẢN HƯỚNG DẪN THỰC THI DOC CÓ LÀM DỊU
CĂNG THẲNG Ở BIỂN ĐÔNG? ĐÁNH GIÁ NHỮNG DIỄN BIẾN
VÀ SAU KHI KÝ KẾT......................................................................................... 209
GS. Carlyle A. Thayer
15. BIỂN ĐÔNG: SỰ TRỖI DẬY CỦA TRUNG QUỐC VÀ
NHỮNG HỆ LỤY ĐỐI VỚI HỢP TÁC AN NINH ....................................... 237
GS. Koichi Sato
Phần IV: TRANH CHẤP Ở BIỂN ĐÔNG: NHỮNG KHÍA CẠNH
PHÁP LÝ QUỐC TẾ............................................................................................ 253
16. LUẬT PHÁP QUỐC TẾ Ở BIỂN ĐÔNG:
LIỆU ĐẨY MẠNH HAY GÓP PHẦN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP? . .... 255
GS. Stein Tønnesson
17. VÙNG ĐẶC QUYỀN KINH TẾ TRÊN CÁC PHƯƠNG TIỆN TRUYỀN
THÔNG VÀ TẠP CHÍ CHUYÊN NGÀNH LỚN NĂM 2010:
BIỂN ĐÔNG VÀ CÁC VÙNG BIỂN KHÁC .................................................. 275
TS. Koh Choong Suk và TS. Yearn Hong Choi
18. NHỮNG PHÁT TRIỂN GẦN ĐÂY VỀ LUẬT ĐƯỜNG CƠ SỞ
CỦA PHILIPPIN . ................................................................................................ 293
GS. TS. Raul C. Pangalangan
19. ĐƯỜNG CƠ SỞ THẲNG BAO QUANH CÁC ĐẢO
6
Mục lục
KHÔNG CẤU THÀNH MỘT QUỐC GIA QUẦN ĐẢO . ........................... 301
GS. Erik Franckx và Marco Benatar
20. CÔNG ƯỚC LUẬT BIỂN NĂM 1982 CỦA LIÊN HỢP QUỐC VÀ
AN NINH HÀNG HẢI Ở BIỂN ĐÔNG........................................................... 313
TS. Nguyễn Thị Lan Anh
Phần V: GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VÀ QUẢN LÝ XUNG ĐỘT
Ở BIỂN ĐÔNG..................................................................................................... 327
21. CÁC KHU VỰC TRANH CHẤP Ở BIỂN ĐÔNG: TRIỂN VỌNG
GIẢI QUYẾT BẰNG TRỌNG TÀI HOẶC Ý KIẾN TƯ VẤN . .................... 329
GS. Robert Beckman và Leonardo Bernard
22. VAI TRÒ CỦA QUỐC TẾ HÓA BIỂN ĐÔNG TRONG QUẢN LÝ VÀ
NGĂN NGỪA XUNG ĐỘT............................................................................... 347
GS. Leszek Buszynski
23. BIỂN ĐÔNG: HỢP TÁC VÌ AN NINH VÀ PHÁT TRIỂN Ở KHU VỰC .365
ĐS. Hasjim Djalal
Phần VI: PHƯƠNG CÁCH VÀ BIỆN PHÁP THÚC ĐẨY HỢP TÁC
Ở BIỂN ĐÔNG . ................................................................................................. 373
24. GIẢI PHÁP CHO TRANH CHẤP NGHỀ CÁ Ở BIỂN ĐÔNG
THÔNG QUA HỢP TÁC VÀ QUẢN LÝ KHU VỰC .................................... 375
GS. Kuan-hsiung Dustin Wang
25. HỢP TÁC KHU VỰC Ở BIỂN ĐÔNG ............................................................ 389
GS. Jon Van Dyke
26. MẠNG LƯỚI SONG PHƯƠNG CÁC KHU BẢO TỒN BIỂN
GIỮA TRUNG QUỐC VÀ VIỆT NAM: GIẢI PHÁP THAY THẾ CHO
LỆNH CẤM ĐÁNH BẮT CÁ ĐƠN PHƯƠNG CỦA TRUNG QUỐC
TRÊN BIỂN ĐÔNG?............................................................................................ 397
NCS. Vũ Hải Đăng
Phụ lục: Tiểu sử các tác giả................................................................................................. 431
7
8
LỜI GIỚI THIỆU
Đặng Đình Quý
Giám đốc Học viện Ngoại giao
Thời gian qua, cộng đồng khu vực và thế giới ngày càng quan tâm nhiều hơn tới
Biển Đông bởi ý nghĩa quan trọng của vùng biển này đối với hòa bình, ổn định và phát
triển, không chỉ của khu vực Đông Á mà của toàn Châu Á - Thái Bình Dương.
Trong 3-5 năm trở lại đây, tình hình Biển Đông cơ bản vẫn giữ được hòa bình, ổn
định nhưng cũng có lúc nguy cơ xung đột “nóng” đã hiện hữu. Sau nhiều năm bàn thảo,
ASEAN và Trung Quốc đã đạt được thỏa thuận về các Nguyên tắc triển khai Tuyên bố
về ứng xử của các bên ở Biển Đông. Giữa các nước liên quan trực tiếp tới tranh chấp,
nhất là giữa Việt Nam, Philippin và Trung Quốc cũng đã có rất nhiều nỗ lực ngoại giao.
Trên các hội nghị, diễn đàn chính thức của ASEAN và giữa ASEAN với các đối tác, Biển
Đông và việc duy trì hòa bình, ổn định và phát triển ở Biển Đông đã trở thành chủ đề
quan trọng được quan tâm và thảo luận với tinh thần xây dựng. Từ một chủ đề bị coi là
“nhạy cảm”, Biển Đông đã được bàn thảo chính thức trên tinh thần tôn trọng luật pháp,
công khai, minh bạch vì lợi ích của các bên liên quan và lợi ích chung của cả cộng đồng
quốc tế.
Đồng hành cùng với những diễn biến tích cực trên, Biển Đông vẫn tiềm ẩn những
bất ổn mà nếu không có sự kiềm chế của các bên liên quan, sự tôn trọng các nguyên tắc
cơ bản của luật pháp quốc tế và những nỗ lực có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế thì
xung đột có thể xảy ra bất cứ lúc nào. Biển Đông là một trong những khu vực có tranh
chấp phức tạp nhất trên thế giới. Sự phức tạp ấy đang gia tăng gấp bội do những biến
chuyển của tình hình kinh tế, chính trị, quân sự và an ninh ở khu vực. Bên cạnh những
vấn đề an ninh truyền thống như tranh chấp đảo, tranh chấp vùng biển, các vấn đề an
ninh phi truyền thống như cướp biển, cướp có vũ trang trên biển, ô nhiễm môi trường
biển, sự cạn kiệt của các nguồn tài nguyên sinh vật biển, sự suy giảm đa dạng sinh học
biển, biến đổi khí hậu… đang ngày càng trở nên nghiêm trọng.
Chính vì vậy, việc công bố các công trình nghiên cứu về Biển Đông đóng góp rất
thiết thực cho việc giữ gìn hòa bình, ổn định và phát triển ở Biển Đông. Chính những
hoạt động nghiên cứu và thảo luận này đã góp phần đưa Biển Đông vào “ra-đa” kiểm
9
Đặng Đình Quý
soát của cộng đồng quốc tế; bản chất của tranh chấp trên Biển Đông cũng như các vụ
việc xảy ra trên Biển Đông được phân tích, đánh giá trên tinh thần khoa học, khách
quan để dư luận trong nội bộ từng bên liên quan đến tranh chấp và dư luận quốc tế có
thông tin đầy đủ và nhiều chiều hơn. Những nỗ lực hợp tác trên đây mới chỉ là bước
đầu trên một con đường vô cùng lâu dài và gian khổ để các bên liên quan đến tranh
chấp, trực tiếp và không trực tiếp, hành động vì lợi ích của mình và tính đến lợi ích của
các bên liên quan khác và của cả cộng đồng quốc tế, hướng đến mục tiêu cuối cùng là
biến Biển Đông từ khu vực tranh chấp phức tạp, thực sự trở thành một khu vực hòa
bình, hợp tác và phát triển.
Trên tinh thần đó, Học viện Ngoại giao phối hợp với Hội Luật gia Việt Nam tiếp
tục tổ chức Hội thảo khoa học quốc tế lần thứ ba với chủ đề “Biển Đông: Hợp tác vì an
ninh và phát triển trong khu vực”. Nội dung của Hội thảo tập trung vào sáu nhóm chủ
đề chính sau: (i) Tầm quan trọng của Biển Đông đối với thế giới và khu vực; (ii) Lợi ích
của các nước trong và ngoài khu vực Biển Đông; (iii) Những diễn biến gần đây tại Biển
Đông; (iv) Những khía cạnh pháp lý quốc tế của tranh chấp Biển Đông; (iv) Vấn đề giải
quyết tranh chấp và quản lý xung đột ở Biển Đông; (vi) Phương cách và biện pháp thúc
đẩy hợp tác ở Biển Đông. Cuốn sách này tập hợp phần lớn tham luận của các học giả
trong nước và quốc tế tham gia Hội thảo theo các nhóm chủ đề trên.
Phần thứ nhất tập trung đánh giá tầm quan trọng của Biển Đông đối với thế giới
và khu vực.
GS. Geoffrey Till (Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Chính sách Biển, Đại học King,
Luân-đôn, Anh) cho rằng mặc dù Trung Quốc luôn khẳng định cần coi tranh chấp Biển
Đông là vấn đề hoàn toàn của các quốc gia liên quan và của khu vực, trên thực tế Biển
Đông ngày càng được xem là vấn đề toàn cầu. Tầm quan trọng chiến lược của tranh
chấp này được minh họa rõ ràng nhất bởi mối quan tâm từ Mỹ và các quốc gia khác về
các tác động có thể xảy ra của tranh chấp đối với tự do hàng hải, bởi mức độ, tính chất
và hệ quả của các chương trình hiện đại hóa hải quân của các bên tranh chấp. Tác giả
rút ra kết luận rằng khi những nguy cơ hiện hữu ở Biển Đông đang tăng nhiệt, cần có
sự minh bạch và những cái đầu lạnh ở cả trong và ngoài khu vực.
Bài viết của Ðại sứ Rodolfo C. Severino (Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu ASEAN
thuộc Viện Nghiên cứu Đông Nam Á, Singapore) tập trung vào phân tích những bất
đồng còn tồn tại xung quanh tranh chấp Biển Đông, đặc biệt là tuyên bố đường lưỡi
bò và tuyên bố ưu tiên đàm phán song phương với các quốc gia tranh chấp của Trung
Quốc. Tác giả chỉ ra cần phải nghiên cứu sự khác biệt, nếu có, giữa tính khả thi của Bộ
Quy tắc ứng xử và một tuyên bố chính trị và phân tích các hệ quả trong trường hợp xảy
ra xung đột giữa các quy định của luật mà một quốc gia cam kết với những gì mà họ
xem là lợi ích thiết yếu, cốt lõi, lợi ích dân tộc hay lợi ích của chế độ.
TS. Bronson Percival (Nhà nghiên cứu cao cấp tại Trung tâm Đông-Tây kiêm Cố
vấn cao cấp của Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược tại Viện Chiến lược Hải quân, Mỹ)
trong bài tham luận của mình khẳng định Biển Đông sẽ vẫn là một vấn đề quan trọng
trong chính sách đối ngoại của Mỹ trong tương lai gần vì những lợi ích hàng hải của
Mỹ tại đây và sự liên hệ mật thiết của Biển Đông với chính sách “xoay trục” Châu Á 10
Lời giới thiệu
Thái Bình Dương của Mỹ thời kỳ hậu-Afghanistan. Tuy nhiên, một trong những vấn đề
thách thức nhất hiện nay là cách để Mỹ hợp tác với Trung Quốc và các nước ASEAN
nhằm khuyến khích Trung Quốc sửa đổi các yêu sách phù hợp hơn với các nguyên tắc
của luật pháp quốc tế.
Phần thứ hai phân tích lợi ích của các nước trong và ngoài khu vực Biển Đông.
TS. Renato Cruz De Castro (Khoa Nghiên cứu quốc tế, Đại học De La Salle, Manila,
Philippin) phân tích tác động của cách tiếp cận “chính trị thực tiễn” (realpolitik) mà
Trung Quốc đang áp dụng trong yêu sách lãnh thổ ở Biển Đông đối với an ninh khu
vực. Các chiến thuật mà Trung Quốc sử dụng bao gồm: (i) trích dẫn yêu sách lịch sử;
(ii) áp dụng cách tiếp cận song phương để làm suy yếu ASEAN; (iii) dựa vào kế sách
“chia để trị” nhằm đối phó riêng từng nước thành viên ASEAN và tạo sự chia rẽ giữa
ASEAN và Mỹ; (iv) tăng cường sức mạnh hải quân cho phép Trung Quốc giải quyết
tranh chấp lãnh thổ theo cách riêng của mình. Kết luận, tác giả cho rằng việc Trung
Quốc sử dụng cách tiếp cận chính trị thực tiễn trong việc giải quyết tranh chấp Biển
Đông sẽ khiến cho Đông Á trong tương lai sẽ giống như Châu Âu trong quá khứ.
Về nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự hiếu chiến của Trung Quốc gần đây, Tướng (nghỉ
hưu) Daniel Schaeffer (Nhà nghiên cứu cao cấp, Viện Chính sách Châu Á 21, Pháp)
nhận định sự quả quyết này không chỉ dựa trên những lý do về kinh tế (như dầu, khí,
đánh bắt cá, bảo vệ môi trường…) mà còn liên quan đến bố trận quốc phòng của Trung
Quốc để chống lại với những gì mà Trung Quốc coi là “chính sách ngăn chặn” của Mỹ.
Với tính toán như vậy, Biển Đông trở thành một quân cờ - một quân cờ quan trọng trong
kế hoạch phòng thủ tổng thể Trung Quốc đang xây dựng nhằm hạn chế “mối đe dọa Mỹ”.
Đối với ASEAN, học giả Hà Anh Tuấn (Nghiên cứu sinh Tiến sĩ về Chính trị và
Quan hệ quốc tế tại Đại học New South Wales, Australia) cho rằng tuy được xem là một
trong những tổ chức khu vực thành công nhất trên thế giới nhưng ASEAN lại chưa thực
sự đóng vai trò đáng kể trong việc làm dịu những tranh cãi nóng bỏng ở Biển Đông.
Không kể tới sự khác biệt về lợi ích của các thành viên ASEAN và những ràng buộc theo
“Phương cách ASEAN”, vai trò hạn chế của ASEAN trong những tranh chấp này một
phần do những nỗ lực của Trung Quốc nhằm duy trì các đàm phán trong khuôn khổ
song phương. Vì ASEAN đang trên con đường hiện thực hóa ước mơ xây dựng Cộng
đồng nên những kết quả đó thấp hơn rất nhiều so với kỳ vọng của các nước thành viên
khi đương đầu với một mối lo ngại an ninh chung của khu vực. Chính vì vậy, ASEAN
có lợi ích, trách nhiệm, và khả năng để tham gia tích cực hơn trong vấn đề tranh chấp
tại Biển Đông và đóng góp vào quá trình giải quyết tranh chấp.
Bài viết của TS. Vijay Sakhuja (Giám đốc Nghiên cứu của Hội đồng Nghiên cứu Các
Vấn đề thế giới, Ấn Độ) tập trung phân tích các lợi ích của Ấn Độ ở Biển Đông. Mặc
dù không phải là một bên tranh chấp ở Biển Đông, nhưng các diễn biến tại Biển Đông
cũng tác động đến Ấn Độ trên nhiều phương diện. Ấn Độ có lợi ích thương mại hàng
hải ở khu vực, lợi ích trong việc khai thác dầu mỏ, khí đốt và đã tiến hành kinh doanh
năng lượng với Việt Nam kể từ cuối thập niên 1980. Ấn Độ cũng có những lo ngại mới
bắt nguồn từ cách Trung Quốc diễn giải “lợi ích cốt lõi”, theo đó Trung Quốc có thể mở
rộng lợi ích bao gồm cả khu vực tranh chấp ở biên giới với Ấn Độ.
11
Đặng Đình Quý
Trong bối cảnh các cách tiếp cận đa phương nhằm giải quyết tranh chấp Biển Đông
đang bộc lộ mức độ hiệu quả khá hạn chế, nghiên cứu của GS. Evgeny Kanaev (Nhà
nghiên cứu cao cấp tại Trung tâm Nghiên cứu Châu Á Thái Bình Dương, Viện Kinh tế
Thế giới và Quan hệ Quốc tế, Viện Hàn lâm Khoa học Nga và Giáo sư Khoa Chính trị
Thế giới, Trường Kinh tế Cao cấp, Matxcơva, Nga) đưa ra những phân tích sâu sắc về
các lựa chọn chính sách của Nga đối với vấn đề Biển Đông và lập luận rằng cách tiếp
cận thực dụng hướng đến giải quyết vấn đề có thể đóng góp tích cực cho việc giảm thiểu
khả năng xung đột tại đây.
Phần thứ ba bao gồm những nghiên cứu xoay quanh những diễn biến gần đây ở
Biển Đông.
TS. Trần Trường Thủy (Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Biển Đông, Học viện
Ngoại giao Việt Nam) tổng hợp các diễn biến ở Biển Đông trong những năm vừa qua,
đặc biệt là tình hình hai năm trở lại đây và phân tích những tác động của nó đối với an
ninh, hợp tác và viễn cảnh của khu vực trong tương lai gần. Tác giả kết luận rằng Trung
Quốc và ASEAN cần hoàn tất Bộ Quy tắc ứng xử COC khu vực mang tính ràng buộc
về pháp lý - điều đó sẽ giúp giảm thiểu nguy cơ đe dọa đối với các bên liên quan và cho
phép họ tự tin hơn để tiến hành các hoạt động hợp tác sâu rộng hơn ở Biển Đông.
TS. S. D. Pradhan (Cựu Phó cố vấn An ninh quốc gia và Giáo sư Khoa Lịch Sử và
Quốc phòng, Trường Đại học Punjabi, Patiala, Ấn Độ) phân tích những nguyên nhân
chính khiến căng thẳng gia tăng ở Biển Đông trong thời gian gần đây và đánh giá vai
trò của Trung Quốc với tư cách là bên tranh chấp chính. Bài viết xem xét về cách nhìn
nhận của Trung Quốc cũng như các quốc gia khác có liên quan đến tranh chấp. Ngoài
ra, tác giả còn lưu ý đến những diễn biến tích cực gần đây trong đó bao gồm nỗ lực thúc
đẩy Tuyên bố ứng xử của các bên, tiến tới Bộ Quy tắc ứng xử cũng như những cố gắng
để giải quyết vấn đề thông qua đàm phán. Cuối cùng, bài viết đưa ra những đề xuất thiết
thực nhằm xoa dịu tình hình ngay lập tức, hướng đến giải quyết vấn đề trên tinh thần
thực sự hợp tác.
Bài viết của Li Jianwei (Giám đốc Trung tâm nghiên cứu khoa học biển thuộc Viện
nghiên cứu quốc gia Nam Hải, Hải Nam, Trung Quốc) và Chen Pingping (Nghiên cứu
viên tại Trung tâm nghiên cứu kinh tế biển thuộc Viện nghiên cứu quốc gia Nam Hải,
Trung Quốc) đi sâu nghiên cứu các vụ việc gần đây ở Biển Đông và tác động của chúng
đối với quan hệ Việt – Trung thông qua lăng kính của truyền thông và các báo cáo
chính thức của chính quyền trung ương Trung Quốc. Các tác giả cho rằng truyền thông
đóng một vai trò quan trọng trong thông tin đại chúng. Họ có khả năng truyền tải các
sự kiện mới xảy ra với tốc độ khá nhanh nhưng cũng có thể góp phần định hướng luồng
nhận thức tốt, xấu của dân chúng trước các vụ việc. Vì vậy, chính phủ hai nước cần thận
trọng trong việc công bố thông tin, cả thời điểm lẫn nội dung và cần thúc đẩy hơn nữa
hợp tác giữa truyền thông hai nước để thiết lập kênh thông tin hiệu quả hướng đến
củng cố mối quan hệ hữu nghị Việt – Trung, tạo môi trường thuận lợi cho việc quản lý
tranh chấp và hợp tác ở Biển Đông.
Trong khi đó, tham luận của GS. Ramses Amer (Giáo sư tại Viện nghiên cứu Hòa
bình và Xung đột và Nhà nghiên cứu cao cấp, Khoa Ngôn ngữ phương Đông, Đại học
12
Lời giới thiệu
Stockholm, Thụy Điển) tập trung cụ thể vào những sự kiện cắt cáp thăm dò dầu khí xảy
ra vào cuối tháng 5 và đầu tháng 6/2011 giữa Việt Nam và Trung Quốc và cách thức hai
nước đối phó với những căng thẳng liên quan đến tranh chấp lãnh thổ tại Biển Đông.
Phân tích này được đặt trong bối cảnh rộng hơn về cách tiếp cận của Việt Nam – Trung
Quốc đối với quản lý tranh chấp biên giới trong giai đoạn kể từ khi bình thường hóa
quan hệ cuối năm 1991, nhằm đánh giá tổng thể những thách thức, tác động và bài học
rút ra từ các sự kiện tháng 5-6/2011.
Về vai trò của ASEAN trong tranh chấp Biển Đông, TS. Ian Storey (Nhà nghiên cứu
cao cấp tại Viện nghiên cứu Đông Nam Á, Singapore) cho rằng ngoài sự không khoan
nhượng từ phía Trung Quốc, việc quản lý xung đột và giải quyết tranh chấp tại Biển
Đông đang bị chính những vấn đề trong nội khối ASEAN cản trở, đặc biệt là vấn đề
đồng thuận. Trong khi các nước ASEAN tỏ ra ủng hộ một Bộ Quy tắc ứng xử (COC)
trên Biển Đông, thì Trung Quốc khá miễn cưỡng và ngần ngại trong đàm phán. Đề
xuất của Philippin về việc biến Biển Đông thành một khu vực Hòa bình, Tự do, Hữu
nghị và Hợp tác (ZOPFFC) cũng là vấn đề gây nhiều bàn cãi do sự phản đối từ Trung
Quốc, và cũng bởi đề xuất đó đòi hỏi ASEAN phải tỏ rõ thái độ trước yêu sách mở
rộng của Trung Quốc. Tóm lại, triển vọng hiện thực hóa COC và ZOPFFC là không
mấy khả thi.
GS. Carlyle A. Thayer (Trường Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học New South
Wales, Australia) xem xét những diễn biến tác động đến an ninh ở Biển Đông trước và
sau khi thông qua Bản Hướng dẫn thực thi tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông
ngày 20/7/2011. Ông kết luận rằng những thỏa thuận song phương giữa Trung Quốc và
các bên yêu sách khác là cần thiết nhưng chưa phải là điều kiện đủ để duy trì an ninh
ở Biển Đông khi nào Trung Quốc vẫn tiếp tục khẳng định “chủ quyền không thể tranh
cãi” đối với các khu vực hàng hải.
Tham luận của GS. Koichi Sato (Đại học Tổng hợp J. F. Oberlin, Tokyo, Nhật Bản)
tập trung phân tích những thách thức trên biển, đồng thời đánh giá tác động đối với
hợp tác an ninh giữa Trung Quốc và các quốc gia láng giềng (bao gồm cả Nhật Bản và
Mỹ) trong bối cảnh các nhà ngoại giao Trung Quốc khẳng định với quan chức chính
quyền Obama rằng Trung Quốc sẽ không chấp nhận bất kỳ hành động can thiệp nào
tại Biển Đông, khu vực mà Trung Quốc hiện coi là một phần “lợi ích cốt lõi” thuộc chủ
quyền của mình. Hải quân Quân giải phóng nhân dân và các cơ quan an ninh hàng hải
Trung Quốc đã bắt đầu triển khai tàu chiến và tàu tuần tra tại Biển Đông và căng thẳng
giữa Trung Quốc và các nước láng giềng Đông Nam Á đang có xu hướng gia tăng.
Phần bốn thảo luận những khía cạnh pháp lý quốc tế của tranh chấp Biển Đông.
Trong bài viết của mình, GS. Stein Tønnesson (Viện Nghiên cứu Hòa bình Oslo
(PRIO), Na Uy) tìm hiểu mối tác động qua lại giữa sức mạnh và luật pháp ở Biển Đông.
Liệu luật pháp quốc tế có làm trầm trọng thêm các tranh chấp bằng cách khuyến khích
các yêu sách mâu thuẫn nhau? Hay nó góp phần thiết lập các nguyên tắc và đưa ra
những biện pháp giúp xử lý và giải quyết xung đột? Tác giả trả lời câu hỏi bằng cách
xem xét sự phát triển của luật pháp quốc tế đã ảnh hưởng như thế nào đến các xung
đột ở Biển Đông và chứng minh tính đan xen song song trong lịch sử giữa các giai đoạn
13
Đặng Đình Quý
xung đột và lắng dịu và sự phát triển pháp lý, cả trong luật pháp quốc tế dựa trên tập
quán và điều ước.
Nghiên cứu của TS. Koh Choong Suk (Chủ tịch Hội Nghiên cứu Ieodo, Hàn Quốc)
và Yearn Hong Choi (Nhà nghiên cứu cao cấp tại Hội Nghiên cứu Ieodo) phân tích
vùng đặc quyền kinh tế qua góc nhìn của các phương tiện truyền thông lớn và các tạp
chí học thuật năm 2010, tập trung vào Biển Đông và so sánh với một số vùng biển khác.
GS.TS. Raul C. Pangalangan (Đại học Philippin) bàn về Luật Đường cơ sở mới được
thông qua gần đây của Philippin. Luật này được hy vọng cuối cùng sẽ giải quyết được
tình thế khó xử của Philippin về bề rộng vùng đặc quyền kinh tế của nước này. Tuy
nhiên hy vọng đó đã không trở thành hiện thực.
GS. Erik Franckx (Thành viên Tòa trọng tài thường trực và Trưởng khoa Luật Quốc
tế và Luật Châu Âu, Đại học Vrije, Brussel, Bỉ) và Marco Benatar (Đại học Vrije) tập
trung vào vấn đề áp dụng đường cơ sở quần đảo đối với các quần đảo ở giữa biển - đó là
những quần đảo thuộc về một quốc gia mà do một hay nhiều lý do không thể được xem
như là quốc gia quần đảo theo Luật Biển Quốc tế 1982. Bài tham luận xem xét các lập
luận pháp lý đã được dùng để hỗ trợ cho khả năng vẽ đường cơ sở thẳng xung quanh các
quần đảo nằm ở xa đất liền trong luật pháp quốc tế, cũng như các cuộc tranh luận và các
dự thảo đề xuất đã được thảo luận sôi nổi tại các cuộc họp của Hội nghị lần thứ 3 của
Liên Hợp Quốc về Luật Biển. Trên cơ sở đó, tác giả rà soát thực tiễn hoạt động của các
nước để làm rõ liệu các nước không phải là quốc gia quần đảo theo Công ước 1982 có thể
có quyền theo luật pháp hiện thời để vẽ một hệ thống các đường cơ sở thẳng xung quanh
các quần đảo ở giữa đại dương, theo cơ sở của Điều 47 (về các đường cơ sở quần đảo)
hơn là theo cơ sở của Điều 7 (về các đường cơ sở thẳng) của Công ước này hay không.
Tác giả đi đến kết luận rằng các quốc gia nên tránh vẽ đường cơ sở thẳng xung quanh
các quần đảo xa đất liền bởi nó đi ngược lại với tinh thần và văn bản của Công ước 1982.
TS. Nguyễn Thị Lan Anh (Phó Trưởng khoa Luật Quốc tế, Học viện Ngoại giao Việt
Nam) cho rằng dưới góc độ an ninh truyền thống, những xung đột về yêu sách lãnh thổ và
vùng biển ngày càng gay gắt sẽ khiến cho xung đột vũ trang có thể xảy ra tại khu vực Biển
Đông. Việc xuống cấp của môi trường đa dạng sinh học biển, khai thác quá mức các nguồn
tài nguyên biển, đe dọa tự do, an toàn hàng hải và các chuyến bay cũng như sự bất ổn định
của đời sống người dân ven biển đang là những nguy cơ trong thời điểm hiện tại. Tất cả
những điều này đặt an ninh của Biển Đông ở mức báo động cao. Công ước Luật Biển năm
1982 của Liên Hợp Quốc là một khuôn khổ pháp lý đa phương và toàn diện nhằm giúp các
quốc gia sử dụng và quản lý biển một cách hòa bình, công bằng và bền vững trên cơ sở tôn
trọng chủ quyền lẫn nhau. Tuy nhiên, để áp dụng hiệu quả các quy định của Công ước vào
bối cảnh đặc thù của Biển Đông, các quốc gia cần cụ thể hóa các quy định của Công ước
để xây dựng một bộ luật ứng xử có hiệu lực ràng buộc trong khu vực.
Phần năm tìm hiểu các biện pháp quản lý xung đột và giải quyết tranh chấp ở Biển
Đông.
Bài viết của GS. Robert Beckman (Giám đốc Trung tâm Luật Quốc tế, Đại học Quốc
gia Singapore) và Leonardo Bernard (Trung tâm Luật Quốc tế) nghiên cứu những cản
14
Lời giới thiệu
trở chính đối với việc xác định các khu vực tranh chấp tại Biển Đông và các nghĩa
vụ theo luật quốc tế của các quốc gia yêu sách liên quan đến các khu vực tranh chấp,
trong đó bao gồm giới hạn của luật đối với những hành động đơn phương mà quốc gia
được phép thực hiện trong các khu vực tranh chấp. Tác giả cho rằng trước khi các cuộc
thương thảo nghiêm túc về các thỏa thuận khai thác chung có thể được bắt đầu, các
quốc gia liên quan phải nhất trí về một hoặc nhiều các khu vực tranh chấp mà tại đó sẽ
tuân thủ theo các thỏa thuận khai thác. Điều này sẽ khó khăn vì Trung Quốc vẫn chưa
làm rõ các cơ sở yêu sách của nước này tại các vùng biển ở Biển Đông và do đó, các
khu vực có yêu sách chồng lấn trở nên không rõ ràng. Các khu vực có tranh chấp cũng
không được làm rõ vì không có sự đồng thuận về tình trạng của các đảo tranh chấp.
GS. Leszek Buszynski (Nhà nghiên cứu cao cấp tại Trung tâm nghiên cứu Chiến
lược và Quốc phòng, Đại học Quốc gia Australia) nhận định quá trình phát triển của
tranh chấp Biển Đông liên quan tới các vấn đề chiến lược rộng lớn hơn: một mặt là
chiến lược hải quân của Trung Quốc khi nước này tăng cường năng lực hải quân, mặt
khác là sự hiện diện của Mỹ ở phía Tây Thái Bình Dương và những mối quan hệ đồng
minh của Mỹ trong khu vực. Vì thế, một thỏa thuận ngăn ngừa xung đột là cần thiết
để tránh gây leo thang những vụ việc nhỏ trở thành xung đột, từ đó cản trở quá trình
giải quyết các yêu sách chồng lấn. Thỏa thuận này nên tính tới hai cường quốc gia quan
trọng, Mỹ và Trung Quốc, đồng thời bao gồm các bên yêu sách của ASEAN.
Trong tham luận của mình, Đại sứ Hasjim Djalal (Giám đốc Trung tâm nghiên cứu
Đông Nam Á, Indonesia) bàn về những cách tiếp cận chính thức và không chính thức
nhằm quản lý tranh chấp Biển Đông và tăng cường hợp tác vì an ninh và phát triển
lâu dài của khu vực. Tác giả nhấn mạnh cách tiếp cận không chính thức về Biển Đông
không nhằm mục đích giải quyết tranh chấp lãnh thổ giữa các bên yêu sách khác nhau,
nhưng giúp đạt được ba điều: (i) đưa ra các chương trình hợp tác, trong đó tất cả các
bên đều tham gia; (ii) thúc đẩy đối thoại giữa các bên có lợi ích trực tiếp, để họ có thể
tìm ra giải pháp cho vấn đề; và (iii) thúc đẩy tiến trình xây dựng lòng tin để các bên tin
tưởng lẫn nhau.
Phần sáu viết về các phương cách và biện pháp thúc đẩy hợp tác ở Biển Đông.
GS. Kuan-hsiung Dustin Wang (Viện Khoa học Chính trị, Đại học Quốc gia Đài
Loan) cho rằng để giải quyết tranh chấp và thúc đẩy hợp tác tại khu vực Biển Đông,
việc bảo tồn và quản lý nguồn cá có thể được xem là điểm khởi đầu. Các chính sách bảo
vệ và quản lý nguồn cá cần phải được thực thi trong một cơ chế tổng thể, ở các cấp độ
quốc gia, khu vực và quốc tế, để có thể hoàn thành được mục tiêu chính sách. Tác giả đi
đến kết luận rằng các tổ chức quản lý nghề cá khu vực là cần thiết để bảo tồn và quản lý
nguồn cá ở Biển Đông và tiến tới giải quyết tranh chấp tại Biển Đông.
Theo GS. Jon Van Dyke (Trường Luật William S. Richardson, Đại học Hawaii, Mỹ),
Biển Đông là biển nửa kín được điều chỉnh theo Phần 9 của Công ước Luật Biển; do
đó, Điều 123 quy định các quốc gia kề cận với biển kín/nửa kín “hợp tác với nhau để
thực hiện các quyền và nghĩa vụ quy định trong Công ước” để quản lý, bảo tồn, thăm
dò và khai thác các tài nguyên sinh vật biển, đồng thời phối hợp thực hiện các hoạt
động bảo vệ và gìn giữ môi trường biển. Tuy nhiên, các nước quanh Biển Đông đã thất
15
Đặng Đình Quý
bại trong việc thành lập một tổ chức khu vực hiệu quả, và hình thức hợp tác “trực tiếp”
nhìn chung cũng không thành công. Chưa có một tổ chức về quản lý nghề cá chung
hiệu quả được thành lập. Tổ chức điều phối các nước Biển Đông Á (COBSEA) gần như
không có hoạt động và Tổ chức đối tác về quản lý môi trường các quốc gia Biển Đông
Á (PEMSEA) chỉ đạt được một số thành tựu khiêm tốn.
Học giả Vũ Hải Đăng (Nghiên cứu sinh Tiến sĩ về Luật môi trường Biển tại Trường
Luật Schulich, Đại học Dalhousie, Canada) ủng hộ việc thành lập một mạng lưới quản
lý các khu vực bảo tồn biển song phương giữa Trung Quốc và Việt Nam tại khu vực
phía Đông Bắc Biển Đông, với tư cách là một giải pháp thay thế cho lệnh cấm đánh cá
hàng năm của Trung Quốc tại khu vực. Tác giả cũng phân tích một số triển vọng về
cách thức thiết lập mạng lưới cũng như cách thức quản lý các thành tố của mạng lưới,
đồng thời xem xét các yêu sách chồng lấn tại khu vực dựa trên việc phân biệt yếu tố địa
lý và sinh học.
Tóm lại, phần lớn các ý kiến tập trung đánh giá các tác động tiêu cực của chiến lược
Trung Quốc trên Biển Đông, cho rằng sự hung hăng trên thực địa và thái độ mập mờ
về yêu sách của Bắc Kinh có thể là nguyên nhân chủ yếu khiến căng thẳng leo thang và
khả năng xung đột luôn bị đẩy ở mức cao. Là bên tranh chấp chính ở Biển Đông và là
cường quốc quan trọng ở khu vực, Trung Quốc cần có những hành xử đúng mực để
duy trì môi trường hòa bình ổn định, khôi phục niềm tin của các nước láng giềng bởi
đây cũng là lợi ích phát triển của Trung Quốc.
Dựa trên kinh nghiệm giải quyết các tranh chấp biển của nhiều nước trên thế giới,
các đại biểu và học giả đã đề xuất một số biện pháp thúc đẩy hợp tác ở Biển Đông, trong
đó đáng chú ý là các sáng kiến về xây dựng một cơ chế quản lý nghề cá ở cấp khu vực
và kiểm soát ô nhiễm biển thực sự hiệu quả, thiết lập một mạng lưới các khu bảo tồn
biển song phương hoặc đa phương như một giải pháp thay thế cho lệnh cấm đánh bắt
cá đơn phương hiện nay... Các học giả cũng nhất trí rằng để giải quyết các tranh chấp
ở Biển Đông một cách hòa bình, trong thời gian tới các bên liên quan cần kiên trì đàm
phán, tăng cường đối thoại trên tinh thần hợp tác và tôn trọng luật pháp quốc tế, kiềm
chế các hành động bạo lực, cũng như cần minh bạch hóa các yêu sách chủ quyền về biển
đảo. Nhiều học giả kêu gọi các bên trong khi hợp tác thực thi DOC cần xây dựng một
Bộ Quy tắc ứng xử (COC) mang tính ràng buộc hơn nhằm giúp xây dựng lòng tin giữa
các nước để tạo môi trường hòa bình, ổn định, và khuyến khích các bên hợp tác quản
lý và khai thác các nguồn tài nguyên ở Biển Đông một cách hòa bình.
Hội thảo tiếp tục nhận được sự quan tâm của đông đảo học giả trong và ngoài nước,
xem đây là một diễn đàn tích cực góp phần vào việc đưa ra các sáng kiến giúp quản lý
tranh chấp ở Biển Đông, tăng cường an ninh, hợp tác và phát triển ở khu vực.
16
Phần I
TẦM QUAN TRỌNG CỦA BIỂN ĐÔNG
ĐỐI VỚI THẾ GIỚI VÀ KHU VỰC
18
1
THỬ NHIỆT TẦM QUAN TRỌNG TOÀN CẦU
CỦA TRANH CHẤP BIỂN ĐÔNG
GS. Geoffrey Till
Giám đốc Trung tâm Corbett về Nghiên cứu Chính sách Biển,
Đại học King, Luân Đôn, Anh
Tóm tắt
Mặc dù Trung Quốc luôn khẳng định cần coi tranh chấp Biển Đông là vấn đề hoàn toàn
của các quốc gia liên quan và của khu vực, trên thực tế nó ngày càng được xem là vấn đề
toàn cầu. Điều này là bởi vấn đề Biển Đông đang là thước đo để đánh giá vai trò và chính
sách của Trung Quốc trong tương lai – một vấn đề ngày càng làm đau đầu đối với Hoa Kỳ
và một số nước ngoài khu vực. Tầm quan trọng chiến lược của tranh chấp này được minh
họa rõ ràng nhất bởi các mối quan tâm bên ngoài về tác động có thể xảy ra của tranh chấp
đối với tự do hàng hải và bởi mức độ, tính chất và hậu quả của chương trình hiện đại hóa
hải quân của các bên tranh chấp. Vì những nguy cơ đang hiện hữu khi Biển Đông tăng
nhiệt, cần có sự rõ ràng và những cái đầu lạnh ở cả trong và ngoài khu vực.
Giới thiệu: Vấn đề toàn cầu hay khu vực?
Hai cách tiếp cận khác nhau đối với vấn đề Biển Đông vốn đã phức tạp và khó khăn
giờ đã sáng tỏ. Cách nhìn thứ nhất, được Trung Quốc thể hiện một cách kiên định và
mạnh mẽ, là vấn đề này nên được nhìn nhận như một vấn đề khu vực chứ không phải
là vấn đề toàn cầu. Bắc Kinh đã phản ứng mạnh với bài phát biểu của bà Hillary Clinton
trong đó nêu lợi ích của Mỹ ở Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN Việt Nam tháng 7 năm
2010.1 Trên website chính thức của mình, Ngoại trưởng Trung Quốc Dương Khiết Trì
liên tục cảnh cáo việc Mỹ dính líu sâu hơn vào vấn đề Biển Đông, cho rằng điều này sẽ
1. Tuy nhiên, điều đáng chú ý là rất nhiều điểm trong diễn văn của bà Clinton có thể đã xuất hiện trong một tuyên
bố của Bộ Ngoại giao Mỹ ngày 10/05/1995. Vì thế, bài diễn văn này không thực sự gây bất ngờ.
19
- Xem thêm -