Lọ mọ trên mạng, tình cờ tìm được bài này nói về việc học tiếng
Anh, thấy hay nên chia xẻ với anh chị em. Đúng là dân mình đọc và
viết thì dễ hơn nói và nghe nên improve khả năng nghe-hiểu-nói tôi
nghĩ là rất cần. Những kinh nghiệm nêu ở đây có thể áp dụng cho
các ngoại ngữ khác.
Tác giả bài này là member duynhien của diễn đàn ETF
(Englishtime forum), bản gốc ở đây.
Có bản prc (mobipocket reader) dành cho đọc offline trên PC hoặc
mobile (download ở đây), chọn platform thích hợp)
-----LÀM SAO NGHE ĐƯỢC TIẾNG ANH
(và nói chung: MỘT NGOẠI NGỮ)
Một trong những trở ngại lớn nhất của chúng ta khi học một ngoại
ngữ ấy là chúng ta quá… thông minh và có quá nhiều kinh nghiệm.
Quá thông minh: vì mình không thể nào chấp nhận nghe một câu
mà mình không hiểu: cần phải hiểu một câu nói gì trước khi nghe
tiếp câu thứ hai, nếu không thì mình không buồn nghe tiếp.
Quá kinh nghiệm: Cuộc đời đã dạy ta không nghe những gì người
khác nói mà chỉ hiểu những gì mà nội dung chuyển tải. Nếu không
hiểu nội dung, chúng ta không thể lặp lại lời người kia. Cũng vì thế
mà - trong giai đoạn đầu học ngoại ngữ - mỗi lần nghe một câu
tiếng Anh thì trong đầu phải dịch ra được tiếng Việt thì mới yên
tâm, bằng không thì … câu ấy không có nghĩa.
Thế nhưng, đấy là lối học sinh ngữ ngược chiều. Tôi biết được 6
ngôn ngữ, trong đó có ba ngôn ngữ thành thạo nghe nói đọc viết:
Việt - Anh - Pháp, và tôi thấy rằng trong các ngôn ngữ tôi biết thì,
một cách khách quan, nghe và nói tiếng Việt là khó nhất (vì ở
phương tây, không có ngôn ngữ nào mà mình đổi cao độ của một từ
thì ý nghĩa từ ấy lại thay đổi: ma - má - mà - mạ - mã - mả). Nhưng
các bạn ở forum này, cũng như tôi, đều không có vấn đề gì cả với
cái sinh ngữ khó vào bậc nhất ấy!
Tuy nhiên, những thầy cô dạy chúng ta nghe nói tiếng Việt chẳng
phải là những vị chuyên viên ngôn ngữ như các thầy cô ngoại ngữ
mà ta học tại các trường. Thầy dạy tiếng Việt chúng ta là tất cả
những người quanh ta từ ngày ta ra đời: cha mẹ, anh chị, hàng
xóm, bạn bè… nghĩa là đại đa số những người chưa có một giờ sư
phạm nào cả, thậm chí không có một khái niệm nào về văn phạm
tiếng Việt. Thế mà ta nghe tiếng Việt thoải mái và nói như sáo. Còn
tiếng Anh thì không thể như thế được. Ấy là vì đối với tiếng Việt,
chúng ta học theo tiến trình tự nhiên, còn ngoại ngữ thì ta học theo
tiến trình phản tự nhiên.
Từ lúc sinh ra chúng ta đã NGHE mọi người nói tiếng Việt chung
quanh (mà chẳng bao giờ ta phản đối: "tôi chẳng hiểu gì cả, đừng
nói nữa"! Mới sinh thì biết gì mà hiểu và phản đối!). Sau một thời
gian dài từ 9 tháng đến 1 năm, ta mới NÓI những tiếng nói đầu
tiên (từng chữ một), mà không hiểu mình nói gì. Vài năm sau vào
lớp mẫu giáo mới học ĐỌC, rồi vào lớp 1 (sáu năm sau khi bắt đầu
nghe) mới tập VIẾT… Lúc bấy giờ, dù chưa biết viết thì mình đã
nghe đưọc tất cả những gì người lớn nói rồi (kể cả điều mình chưa
hiểu). Như vậy, tiến trình học tiếng Việt của chúng ta là Nghe - Nói
- Đọc - Viết. Giai đoạn dài nhất là nghe và nói, rồi sau đó từ vựng
tự thêm vào mà ta không bao giờ bỏ thời gian học từ ngữ. Và ngữ
pháp (hay văn phạm) thì đến cấp 2 mới học qua loa, mà khi xong
trung học thì ta đã quên hết 90% rồi.
Nhưng tiến trình ta học tiếng Anh (hay bất cứ ngoại ngữ nào) thì
hoàn toàn ngược lại.
Thử nhìn lại xem: Trước tiên là viết một số chữ và chua thêm nghĩa
tiếng Việt nếu cần. Và kể từ đó, học càng nhiều từ vựng càng tốt, kế
đến là học văn phạm, rồi lấy từ vựng ráp vào cho đúng với văn
phạm mà VIẾT thành câu! Rồi loay hoay sửa cho đúng luật! Sau
đó thì tập ĐỌC các chữ ấy trúng được chừng nào hay chừng ấy, và
nhiều khi lại đọc một âm tiếng Anh bằng một âm tiếng Việt! (ví dụ
fire, fight, five, file… đều được đọc là ‘phai’ ). Sau đó mới tới giai
đoạn NÓI, mà ‘nói’ đây có nghĩa là Đọc Lớn Tiếng những câu mình
viết trong đầu mình, mà không thắc mắc người đối thoại có hiểu
'message' của mình hay không vì mình chỉ lo là nói có sai văn phạm
hay không. Lúc bấy giờ mới khám phá rằng những câu mình viết
thì ai cũng hiểu, như khi mình nói thì chỉ có mình và … Thượng Đế
hiểu thôi, còn người bản xứ (tiếng Anh) thì ‘huh - huh’ dài cổ như
cổ cò! Thế là học nói bằng cách sửa đổi phát âm những từ nào chưa
chuẩn cho đến khi người khác có thể hiểu được.
Sau thời gian dài thật dài, mình khám phá rằng mình từng biết
tiếng Anh, và nói ra thì người khác hiểu tàm tạm, nhưng khi họ nói
thì mình không nghe được gì cả (nghĩa là nghe không hiểu gì cả).
Lúc bấy giờ mới tập NGHE, và rồi đành bỏ cuộc vì cố gắng mấy
cũng không hiểu được những gì người ta nói.
Vấn đề là ở đó: chúng ta đã học tiếng Anh ngược với tiến trình tự
nhiên, vì quá thông minh và có quá nhiều kinh nghiệm. Tiến trình
ấy là Viết - Đọc - Nói - Nghe!
Vì thế, muốn nghe và nói tiếng Anh, chuyện đầu tiên là phải quên
đi kinh nghiệm và trí thông minh, để trở lại trạng thái ‘sơ sinh và
con nít’, và đừng sử dụng quá nhiều chất xám để phân tích, lý luận,
dịch thuật!
Và đây là bí quyết để Nghe:
A. Nghe thụ động:
1. - ‘Tắm’ ngôn ngữ. Nghe không cần hiểu: Hãy nghe! Đừng hiểu.
Bạn chép vào CD một số bài tiếng Anh (vì dụ từ trên forum này).
Mỗi bài có thể dài từ 1 đến 5 phút.
Khi nào bạn ở nhà một mình, thì mở các bài đó ra vừa đủ nghe, và
cứ lặp đi lặp lại mãi ra rả như âm thanh nền suốt ngày. Bạn không
cần để ý đến nó. Bạn cứ làm việc của mình, đánh răng, rửa mặt,
học bài làm bài, vào internet… với tiếng lải nhải của bài tiếng Anh.
(thậm chí, trong lúc bạn ngủ cũng có thể để cho nó nói).
Trường hợp bạn có CD player, USB player hay iPod, thì đem theo
để mở nghe khi mình có thời gian chết - ví dụ: di chuyển lâu giờ
trên xe, đợi ai hay đợi đến phiên mình tại phòng mạch.
Công việc ‘tắm ngôn ngữ’ này rất quan trọng, vì cho ta nghe đúng
với từng âm của một ngôn ngữ lạ. Tai của chúng ta bắt rất nhanh
một âm quen, nhưng loại trừ những âm lạ. Ví dụ: Nếu bạn nghe
câu: ‘mặt trời mọc cánh khi chim voi truy cập chén chó’, một câu
hoàn toàn vô nghĩa, nhưng bảo bạn lặp lại thì bạn lặp lại được
ngay, vì bạn đã quá quen với các âm ấy. Nhưng khi một người nói
một câu bằng chừng ấy âm (nghĩa là 11 âm/vần), trong ngôn ngữ
bạn chưa từng học, và bảo bạn lặp lại thì bạn không thể nào lặp lại
được, và bảo rằng… không nghe được! (Bạn có điếc đâu! Vấn đề là
tai bạn không nhận ra được các âm!) Lối 'tắm ngôn ngữ' đó chỉ là
vấn đề làm quen đôi tai, và sau một thời gian (lâu đấy chứ không
phải vài ngày) bạn sẽ bắt được các âm của tiếng Anh, và thấy rằng
âm ấy rất dễ nghe, nhưng hoàn toàn khác với âm Việt. Đừng nản
lòng vì lâu ngày mình vẫn không phân biệt âm: hãy nhớ rằng bạn
đã tắm ngôn ngữ tiếng Việt ít ra là 9 tháng liên tục ngày đêm trước
khi mở miệng nói được tiếng nói đầu tiên và hiểu được một hai
tiếng ngắn của cha mẹ; và sau đó lại tiếp tục 'tắm ngôn ngữ' Việt
cho đến 4, 5 năm nữa!
2 - Nghe với hình ảnh động.
Nếu có giờ thì xem một số tin tức bằng tiếng Anh (một điều khuyên
tránh: đừng xem chương trình tiếng Anh của các đài Việt Nam, ít
ra là giai đoạn đầu, vì xướng ngôn viên Việt Nam, phần lớn, nói rất
gần với âm Việt Nam (kể cả pronunciation), nên mình dễ quen
nghe, và từ đó lỗ tai mình lại hỏng, về sau lại khó nghe người bản
xứ nói tiếng Anh - thế là phải học lại lần thứ hai!). Các hình ảnh
đính kèm làm cho ta ‘hiểu’ được ít nhiều nội dung bản tin, mà
không cần phải ‘dịch’ từng câu của những gì xướng ngôn viên nói.
Bạn sẽ yên tâm hơn, sau khi nghe 15 phút tin tức, tự tóm lược lại,
thì thấy rằng mình đã nắm bắt được phần chính yếu của nội dung
bản tin. Và đây là cách thứ hai để tắm ngôn ngữ.
B. Nghe chủ động.
1. Bản tin special english:
- Thu một bản tin, và nghe lại rồi chép ra nhiều chừng nào hay
chừng nấy… nhớ là đừng tra cứu tự điển hay tìm hiểu nghĩa vội.
Đoán nghĩa trong nội dung câu, và nhớ lại âm thanh của từ, hay
cụm từ đó, sau này tự nó sẽ rõ nghĩa, nếu trở đi trở lại hoài.
(Ngày xưa, trên đài VOA, sau mỗi chương trình tôi thường nghe
một cụm từ tương tự như: statue, statute hay statu gì đó, mà không
biết viết thế nào, tuy vẫn hiểu đại loại là: hãy đợi đấy để nghe tiếp.
Mãi sau này tôi mới biết rằng thuật ngữ rất quen thuộc ấy là 'stay
tuned', nhưng một thời gian dài, chính tả của chữ ấy đối với tôi
không thành vấn đề!)
2. Chăm chú nghe lại một số bài mình từng nghe trong giai đoạn
‘tắm ngôn ngữ’
- Lấy lại script của những bài mình từng nghe, đọc lại và nhớ lại
trong tưởng tượng lời đọc mà mình từng nghe nhiều lần.
Sau đó xếp bản script và nghe lại để hiểu. Lần này: tự nhiên mình
sẽ nghe rõ từng tiếng và hiểu. Trường hợp không hiểu một từ hay
cụm từ, thì gắng lặp lại nhiều lần đúng như mình đã nghe, sau đó
lật lại script để so sánh.
3. Một số bài Audio trong Forum này: nghe nhiều lần, trước khi
đọc script. Sau đó, đọc lại script, chủ yếu kiểm tra những từ mình
đã nghe hoặc đoán, hoặc những từ mà mình có thể phát âm lại
nhưng không hiểu viết và nghĩa thế nào. Qua việc này, nhiều khi ta
phát hiện rằng một từ mình rất quen thuộc mà từ xưa đến nay
mình cứ in trí là phải nói một cách nào đó, thì thực ra cần phải nói
khác hẳn và phát âm như thế thì mới mong nghe đúng và nói cho
người khác hiểu. Sau đó, xếp bản script và nghe lại một hai lần
nữa. (Ví dụ: hai chữ tomb, bury, khi xưa tôi cứ đinh ninh là sẽ phát
âm là 'tôm-b(ơ), bơri' - sau này nghe chữ 'tum, beri' tôi chẳng hiểu
gì cả - dù cho tôi nghe rõ ràng là tum, beri -cho đến khi xem script
thì mới vỡ lẽ!)
4. Học hát tiếng Anh, và hát theo trong khi nghe.
Chọn một số bài hát mà mình thích, tìm lyrics của nó rồi vừa nghe
vừa nhìn lyrics. Sau đó học thuộc lòng và hát song song với ca sĩ, và
gắng phát âm cũng như giữ tốc độ và trường độ cho đúng. Khi nào
buồn buồn cũng có thể tự hát cho mình nghe (nếu không có giọng
tốt và hát sai giọng một tí cũng không sao, vì chủ yếu là tập phát
âm, tốc độ, trường độ và âm điệu tiếng Anh).
Và nói cho đúng giọng (qua hát) cũng là một cách giúp mình sau
này nhạy tai hơn khi nghe, vì thường thường ngôn ngữ trong các
bài hát khó nghe hơn những câu nói bình thường rất nhiều.
-------------Trước khi tạm dừng topic này, tôi muốn nói thêm một điều.
Có bạn bảo rằng hiện nay mình chưa hiểu, nên cố gắng nghe nhiều
cũng vô ích, để mình học thêm, khi nào có nhiều từ vựng để hiểu
rồi thì lúc đó sẽ tập nghe sau.
Nghĩ như thế là HOÀN TOÀN SAI. Chính vì bạn chưa hiểu nên
mới cần nghe nhiều hơn những người đã hiểu. Muốn biết bơi thì
phải nhảy xuống nước, không thể lấy lý do rằng vì mình không thể
nổi nên ở trên bờ học cho hết lý thuyết rồi thì mới nhảy xuống, và
sẽ biết bơi! Chưa biết bơi mà xuống nước thì sẽ uống nước và ngộp
thở đấy, nhưng phải thông qua uống nước và ngộp thở như thế thì
mới hy vọng biết bơi.
Muốn biết bơi, thì phải nhảy xuống nước, và nhảy khi chưa biết
bơi. Chính vì chưa biết bơi nên mới cần nhảy xuống nước.
Muốn biết nghe và hiểu tiếng Anh thì phải nghe tiếng Anh, nghe
khi chưa hiểu gì cả! Và chính vì chưa hiểu gì nên cần phải nghe
nhiều.
LÀM SAO NGHE ĐƯỢC TIẾNG ANH (2)
- NGHE BẰNG TAI Khi tôi bảo rằng chúng ta gặp trở ngại khi học ngoại ngữ vì thông
minh và có nhiều kinh nghiệm, có người cho rằng đó là nói theo
nghĩa bóng. Không phải đâu, tôi nói theo nghĩa đen đó! Qua sự
kiện sau (và ACE chắc chắn cũng từng gặp những trường hợp
tương tự) ACE sẽ thấy ngay. Một người bạn từng dạy Anh Văn ở
Trung Tâm Ngoại Ngữ với tôi, sau này sang định cư ở Mỹ. Anh
cùng đi với đứa con 7 tuổi, chưa biết một chữ tiếng Anh nào. 11
năm sau tôi gặp lại hai cha con tại Hoa Kỳ. Con anh nói và nghe
tiếng Anh không khác một người Mỹ chính cống. Trong khi đó anh
nói tiếng Anh tuy lưu loát hơn xưa, nhưng rõ ràng là một người
nước ngoài nói tiếng Mỹ. Khi xem chương trình hài trên TV, con
anh cười đúng với tiếng cười nền trong chương trình, trong khi đó
anh và tôi nhiều khi không hiểu họ nói gì đáng cười: rõ ràng là kỹ
năng nghe của con anh hơn anh rồi! Điều này chứng tỏ rằng khi
sang Mỹ, anh đã có kinh nghiệm về tiếng Anh, và ‘khôn’ hơn con
anh vì biết nhiều kỹ thuật, phương pháp học tiếng Anh, nên tiếp
tục học tiếng Anh theo tiến trình phản tự nhiên; trong khi con anh,
vì không ‘thông minh’ bằng anh, và thiếu kinh nghiệm, nên đã học
tiếng Anh theo tiến trình tự nhiên mà không theo một phương
pháp cụ thế nào để học vocabulary, grammar, listening, speaking
cả.
- Đi vào cụ thể từ vựng Anh.
(Những phân tích sau đây là để thuyết phục ACE đi vào tiến trình tự
nhiên - và điều này đòi hỏi phải xóa bỏ cái phản xạ lâu ngày của
mình là học theo tiến trình ngược - và công việc xóa bỏ cái phản xạ
sai này lại làm cho ta mất thêm thì giờ. ACE đọc để tin vào tiến trình
tự nhiên, chứ không phải để nhớ những phân tích ‘tào lao’ này,
khiến lại bị trở ngại thêm trong quá trình nâng cao kỹ năng của
mình)
- Xóa bỏ kinh nghiệm nghe nguyên âm: Tiếng Anh là tiếng phụ
âm.Tiếng Anh chủ yếu là ngôn ngữ đa âm: một từ thường có nhiều
âm. Lỗ tai chúng ta đã ‘bị điều kiện hóa’ để nghe âm tiếng Việt.
Tiếng Việt là loại tiếng đơn âm, vì thế, mỗi tiếng là một âm và âm
chủ yếu trong một từ là nguyên âm. Đổi một nguyên âm thì không
còn là từ đó nữa: ‘ma, mi, mơ’ không thể hoán chuyển nguyên âm
cho nhau, vì ba từ có ba nghĩa hoàn toàn khác nhau. Mặc khác,
tiếng Việt không bao giờ có phụ âm cuối từ. Ngay cả những chữ mà
khi viết có phụ âm cuối, thì người việt cũng không đọc phụ âm
cuối; ví dụ: trong từ ‘hát’, nguyên âm mới là ‘át’, h(ờ)-át, chứ
không phải là h(ờ)-á-t(ơ), trong khi đó từ ‘hat’ tiếng Anh được đọc
là h(ờ)-a-t(ờ), với phụ âm ‘t’ rõ ràng.
Trong tiếng Việt hầu như không có những từ với hai phụ âm đi kế
tiếp (ngoài trừ ch và tr - nhưng thực ra, ch và tr cũng có thể thay
bằng 1 phụ âm duy nhất) vì thế, tai của một người Việt Nam - chưa
bao giờ làm quen với ngoại ngữ - không thể nhận ra hai phụ âm kế
tiếp. Do đó, muốn cho người Việt nghe được một tiếng nước ngoài
có nhiều phụ âm kế tiếp, thì phải thêm nguyên âm (ơ) vào giữa các
phụ âm; ví dụ: Ai-xơ-len; Mat-xơ-cơ-va.
Với kinh nghiệm (phản xạ) đó, một khi ta nghe tiếng Anh, ta chờ
đợi nghe cho đủ các nguyên âm như mình NHÌN thấy trong ký âm
(phonetic signs), và không bao giờ nghe được cả. Ví dụ: khi học từ
America ta thấy rõ ràng trong ký âm: (xin lỗi vì không thể ghi
phonetic signs vào trang này) ‘ơ-me-ri-kơ’, nhưng không bao giờ
nghe đủ bốn âm cả, thế là ta cho rằng họ ‘nuốt chữ’. Trong thực tế,
họ đọc đủ cả, nhưng trong một từ đa âm (trong khi viết) thì chỉ đọc
đúng nguyên âm ở dấu nhấn (stress) - nếu một từ có quá nhiều âm
thì thêm một âm có dấu nhấn phụ (mà cũng có thể bỏ qua) - và
những âm khác thì phải đọc hết các PHỤ ÂM, còn nguyên âm thì
sao cũng đưọc (mục đích là làm rõ phụ âm). Có thể chúng ta chỉ
nghe: _me-r-k, hay cao lắm là _me-rơ-k, và như thế là đủ, vì âm
‘me’ và tất cả các phụ âm đều hiện diện. Bạn sẽ thắc mắc, nghe vậy
thì làm sao hiểu? Thế trong tiếng Việt khi nghe ‘Mỹ’ (hết) không có
gì trước và sau cả, thì bạn hiểu ngay, tại sao cần phải đủ bốn âm là
ơ-mê-ri-kơ bạn mới hiểu đó là ‘Mỹ’? Tóm lại: hãy nghe phụ âm,
đừng chú ý đến nguyên âm, trừ âm có stress!
Một ví dụ khác: từ interesting! Tôi từng được hỏi, từ này phải đọc
là in-tơ-res-ting hay in-tơ-ris-ting mới đúng? Chẳng cái nào đúng,
chẳng cái nào sai cả. Nhưng lối đặt vấn đề sai! Từ này chủ yếu là
nói ‘in’ cho thật rõ (stress) rồi sau đó đọc cho đủ các phụ âm là
người ta hiểu, vì người bản xứ chỉ nghe các phụ âm chứ không
nghe các nguyên âm kia; nghĩa là họ nghe: in-trstng; và để rõ các
phụ âm kế tiếp thì họ có thể nói in-tr(i)st(i)ng; in-tr(ơ)st(ơ)ng; intr(e)st(ư)ng. Mà các âm (i) (ơ), để làm rõ các phụ âm, thì rất nhỏ và
nhanh đến độ không rõ là âm gì nữa. Trái lại, nếu đọc to và rõ intris-ting, thì người ta lại không hiểu vì dấu nhấn lại sang 'tris'!
Từ đó, khi ta phát âm tiếng Anh (nói và nghe là hai phần gắn liền
nhau - khi nói ta phát âm sai, thì khi nghe ta sẽ nghe sai!) thì điều
tối quan trọng là phụ âm, nhất là phụ âm cuối. Lấy lại ví dụ trước:
các từ fire, fight, five, file phải được đọc lần lượt là fai-(ơ)r; fait(ơ); fai-v(ơ), và fai-(ơ)l, thì người ta mới hiểu, còn đọc 'fai' thôi thì
không ai hiểu cả.
Với từ ‘girl’ chẳng hạn, thà rằng bạn đọc gơ-rôl / gơ-rơl (dĩ nhiên
chỉ nhấn gơ thôi), sai hẳn với ký âm, thì người ta hiểu ngay, vì có
đủ r và l, trong khi đó đọc đúng ký âm là ‘gơ:l’ hay bỏ mất l (gơ)
thì họ hoàn toàn không hiểu bạn nói gì; mà có hiểu chăng nữa, thì
cũng do context của câu chứ không phải là do bạn đã nói ra từ đó.
- Xóa bỏ kinh nghiệm nghe âm Việt.
Các nguyên âm Việt và Anh không hề giống nhau. Một âm rất rõ
trong tiếng Anh sẽ rất nhoè với một lỗ tai người Việt, và một âm rất
rõ trong tiếng Việt thì rất nhoè trong lỗ tai người Anh (người bản
xứ nói tiếng Anh). Ví dụ: Khi bạn nói: “Her name’s Hương!” Bạn
đọc từ Hương thật rõ! Thậm chí la lên thật to và nói thật chậm thì
người ấy vẫn không nghe ra. Vì ‘ươ’ đối với họ là âm rất nhoè.
Nhưng nói là ‘Hu-ôn-gh(ơ)’ họ nghe rõ ngay; từ đó ta phải hiểu họ
khi nói đến cô Huôngh chứ đừng đòi hỏi họ nói tên Hương như
người Việt (phải mất vài năm!).
Tương tư như vậy, không có nguyên âm tiếng Anh nào giống như
nguyên âm tiếng Việt. Nếu ta đồng hóa để cho dễ mình, là ta sẽ
không nghe được họ nói, vì thế giới này không quan tâm gì đến
cách nghe của người Việt Nam đối với ngôn ngữ của họ. Ví dụ: âm
‘a’ trong ‘man’ thì không phải là ‘a’ hay ‘ê’ hay ‘a-ê’ hay ‘ê-a’ tiếng
Việt, mà là một âm khác hẳn, không hề có trong tiếng Việt. Phải
nghe hàng trăm lần, ngàn lần, thậm chí hàng chục ngàn lần mới
nghe đúng âm đó, và rất rõ! Ấy là chưa nói âm ‘a’ trong từ này,
được phát âm khác nhau, giữa một cư dân England (London),
Scotland, Massachusetts (Boston), Missouri, Texas!
Cũng thế, âm ‘o’ trong ‘go’ không phải là ‘ô’ Việt Nam, cũng chẳng
phải là ô-u (như cách phiên âm xưa) hay ơ-u (như cách phiên âm
hiện nay), lại càng không phài là ‘âu’, mà là một âm khác hẳn tiếng
Việt. Phát âm là ‘gô’, ‘gơu’ hay ‘gâu’ là nhoè hẳn, và do đó những
từ dễ như ‘go’ cũng là vấn đề đối với chúng ta khi nó được nói
trong một câu dài, nếu ta không tập nghe âm ‘ô’ của tiếng Anh
đúng như họ nói. Một âm nhoè thì không có vấn đề gì, nhưng khi
phải nghe một đoạn dài không ngưng nghỉ thì ta sẽ bị rối ngay.
Đây cũng là do một kinh nghiệm tai hại xuất phát từ việc tiếp thu
kiến thức. Trong quá trình học các âm tiếng Anh, nhiều khi giáo
viên dùng âm Việt để so sánh cho dễ hiểu, rồi mình cứ xem đó là
‘chân lý’ để không thèm nghĩ đến nữa. Ví dụ, muốn phân biệt âm
(i) trong sheep và ship, thì giáo viên nói rằng I trong sheep là ‘I dài’
tương tự như I trong tiếng Bắc: ít; còn I trong ship là I ngắn, tương
tự như I trong tiếng Nam: ít - ích. Thế là ta cho rằng mình đã nghe
được I dài và I ngắn trong tiếng Anh rồi, nhưng thực chất là chưa
bao giờ nghe cả! Lối so sánh ấy đã tạo cho chúng ta có một ý niệm
sai lầm; thay vì xem đấy là một chỉ dẫn để mình nghe cho đúng âm,
thì mình lại tiếp thu một điều sai! Trong tiếng Anh không có âm
nào giống âm I bắc hoặc I nam cả! Bằng chứng: ‘eat’ trong tiếng
Anh thì hoàn toàn không phải là ‘ít’ trong tiếng Việt, đọc theo
giọng bắc, và ‘it’ trong tiếng Anh hoàn toàn không phải là ‘ít’ trong
tiếng Việt, đọc theo giọng nam! Vì thế, phải xóa bỏ những kinh
nghiệm loại này, và phải nghe trực tiếp thôi!
- Xóa bỏ kinh nghiệm nghe bằng chữ viết.
Nếu ta hỏi một em bé: cháu nghe bằng gì? Thì nó sẽ trả lời: Nghe
bằng tai! Nếu ta bảo: “Cháu phải nghe bằng mắt cơ!” Chắc em bé
tưởng ta … trêu cháu! Thế nhưng điều xảy ra cho nhiều người học
tiếng nước ngoài là Nghe Bằng Mắt!
Thử nhìn lại xem. Trong giai đoạn đầu tiếp xúc với tiếng Anh, khi
ta nghe một người nói: “I want a cup of coffee!”. Tức tốc, chúng ta
thấy xuất hiện câu ấy dưới dạng chữ Viết trong trí mình, sau đó
mình dịch câu ấy ra tiếng Việt, và ta HIỂU! Ta Nghe bằng MẮT,
nếu câu ấy không xuất hiện bằng chữ viết trong đầu ta, ta không
Thấy nó, thì ta … Điếc!
Sau này, khi ta có trình độ cao hơn, thì ta hiểu ngay lập tức chứ
không cần phải suy nghĩ lâu. Thế nhưng tiến trình cũng chẳng
khác nhau bao nhiêu, ta vẫn còn thấy chữ xuất hiện và dịch, cái
khác biệt ấy là ta viết và dịch rất nhanh, nhưng từ một âm thanh
phát ra cho đến khi ta hiểu thì cũng thông qua ba bước: viết, dịch,
hiểu. Khi ta đi đến một trình độ nào đó, thì trong giao tiếp không
có vấn đề gì cả, vì các câu rất ngắn, và ba bước đó được 'process'
rất nhanh nên ta không bị trở ngại, nhưng khi ta nghe một bài dài,
thì sẽ lòi ra ngay, vì sau hai, ba, bốn câu liên tục 'processor' trong
đầu ta không còn đủ thì giờ để làm ba công việc đó. Trong lúc nếu
một người nói bằng tiếng Việt thì ta nghe và hiểu ngay, không phải
viết và dịch (tại vì ngày xưa khi ta học tiếng Việt thì quá trình là
nghe thì hiểu ngay, chứ không thông qua viết và dịch, vả lại, nếu
muốn dịch, thì dịch ra ngôn ngữ nào?), và người nói có nhanh cách
mấy thì cũng không thể nào vượt cái khả năng duy nhất của chúng
ta là 'nghe bằng tai'.
Vì thế, một số sinh viên cảm thấy rằng mình tập nghe, và đã nghe
được, nhưng nghe một vài câu thì phải bấm ‘stop’ để một thời gian
chết - như computer ngưng mọi sự lại một tí để process khi nhận
quá nhiều lệnh - rồi sau đó nghe tiếp; nhưng nếu nghe một diễn giả
nói liên tục thì sau vài phút sẽ ‘điếc’. Từ đó, người sinh viên nói
rằng mình ‘đã tới trần rồi, không thể nào tiến xa hơn nữa! Vì thế
giới này không stop cho ta có giờ hiểu kịp’!’(1)
Từ những nhận xét trên, một trong việc phải làm để nâng cao kỹ
năng nghe, ấy xóa bỏ kinh nghiệm Nghe bằng Mắt, mà trở lại giai
đoạn Nghe bằng Tai, (hầu hết các du học sinh ở nước ngoài, sau khi
làm chủ một ngoại ngữ rồi từ trong nước, đều thấy ‘đau đớn và
nhiêu khê’ lắm khi buộc phải bỏ thói quen nghe bằng mắt để trở lại
với trạng thái tự nhiên là nghe bằng tai! Có người mất cả 6 tháng
cho đến 1 năm mới tàm tạm vượt qua).
- Xóa bỏ kinh nghiệm nghe bằng cấu trúc văn phạm.
Khi nghe ai nói, ta viết một câu vào đầu, và sửa cho đúng văn
phạm, rồi mới dịch, và sau đó mới hiểu! Ví dụ. Ta nghe ‘iwanago’
thì viết trong đầu là ‘I want to go’, xong rồi mới dịch và hiểu; nếu
chưa viết được như thế, thì iwanago là một âm thanh vô nghĩa.
Thế nhưng, nếu ta nghe lần đầu tiên một người nói một câu hằng
ngày: igotago, ta không thể nào viết thành câu được, và vì thế ta
không hiểu. Bởi vì thực tế, câu này hoàn toàn sai văn phạm. Một
câu đúng văn phạm phải là ‘I am going to go’ hoặc chí ít là ‘I have
got to go’. Và như thế, đúng ra thì người nói, dù có nói tốc độ, cũng
phải nói hoặc: I'm gona go; hoặc I’ve gota go (tiếng Anh không thể
bỏ phụ âm), chứ không thể là I gotta go! Thế nhưng trong thực tế
cuộc sống người ta nói như vậy, và hiểu rõ ràng, bất chấp mọi luật
văn phạm. Văn phạm xuất phát từ ngôn ngữ sống, chứ không phải
ngôn ngữ sống dựa trên luật văn phạm. Do đó, ta cũng phải biết
nghe mà hiểu; còn cứ đem văn phạm ra mà tra thì ta sẽ khựng mãi.
(Tôi đang nói về kỹ năng nghe, còn làm sao viết một bài cho người
khác đọc thì lại là vấn đề khác!)
Tóm lại, trong phần chia sẻ này, tôi chỉ muốn nhắc với ACE rằng,
hãy NGHE ĐIỀU NGƯỜI TA NÓI, CHỨ ĐỪNG NGHE ĐIỂU
MÌNH MUỐN NGHE, và muốn được như vậy, thì HÃY NGHE
BẰNG TAI, ĐỪNG NGHE BẰNG MẮT!
Hai bài trước đây, tôi nói về việc nghe ‘âm thanh’ của tiếng Anh, có nghĩa là làm sao phân biệt được các âm với nhau đến nỗi, dù không
hiểu câu ấy nói gì, cũng có thể lặp lại đúng lời người ta nói ra (câu càng dài thì kỹ năng nghe của mình càng cao). Dĩ nhiên, có những
người được ‘lỗ tai âm nhạc’ thiên phú nên phân biệt âm thanh rất nhanh. Ví dụ em Wendy Võ, một nhi đồng gốc Việt tại North Carolina
(tên Việt Nam là Võ thị Ngọc Diễm). Năm nay em mới 8 tuổi mà đã nói được 11 thứ tiếng và soạn 45 bản nhạc. Em có khả năng lặp lại một
câu nói bằng bất cứ ngôn ngữ nào trên thế giới, mà không cần hiểu nghĩa. Thế nhưng thường thường, người ta phải mất nhiều thời gian
để phân biệt các âm trong một ngôn ngữ mới, tuy nhiên TẤT CẢ MỌI NGƯỜI đều có khả năng này, bằng chứng là không một người nào
trên trái đất (trừ người điếc) là không thể nghe và nói ngôn ngữ mẹ đẻ của mình.
Nếu thời gian qua, các bạn đã lắng nghe âm thanh tiếng Anh thôi, thì đến nay, hẳn bạn đã nhận thấy rằng bỗng dưng có một số từ hay
cụm từ mình nghe rõ ràng hơn xưa, đặc biệt là những con số và những danh từ riêng (của các nhân vật, các địa danh … ), và những từ
mình đã quen thuộc. Có những đoạn bạn nghe một thời gian dài 5-15 phút (như trên TV) rồi bỗng thấy mình ‘hiểu’ cơ bản nội dung
chương trình đó.
Như thế là các bạn đã nghe tiếng Anh. Nhưng dù muốn dù không, khi nghe một ngôn ngữ mà chỉ nghe âm thanh thôi, thì cũng giống như
mình nghe nhạc (không lời), hay nghe tiếng gió, tiếng chim. Nếu chỉ nghe như thế thì không đáng bỏ công, vì ngôn ngữ cốt là để truyền
tin (truyền một thông tin). Nếu ta không nắm được thông tin bên dưới âm thanh phát ra bằng tiếng Anh, thì kể như chúng ta không ‘nghe’
được tiếng Anh. Vì thế, điều chúng ta cần học lại trước hết là nghe tiếng Anh (như một âm thanh thuần túy) để tiến đến bước sau cùng
(mà bình thường người học ngoại ngữ xem là bước đầu tiên), ấy là ‘nghe’ tiếng Anh, theo nghĩa là ‘hiểu’ một thông tin.
Vì thế, sau hai bài để nói về cách nghe tiếng Anh, hôm nay tôi sẽ đi sâu hơn, ấy là ‘nghe’ tiếng Anh, theo nghĩa là nắm bắt nội dung của
thông tin qua một chuỗi âm thanh bằng tiếng Anh.
Nghe tiếng Anh và ‘nghe’ tiếng Anh
1. ‘Nghe’ trong ngữ cảnh.
Tôi từng nhắc đi nhắc lại rằng đừng bao giờ tra từ điển khi mình
nghe một diễn từ. Điều chủ yếu là nghe và lặp lại được những âm
thanh đã nghe, rồi dần dần hiểu được một từ mới, khi nó xuất hiện
trong nhiều nội dung khác nhau (nếu cả năm mình mới nghe từ đó
một lần, có nghĩa là từ ấy không thông dụng và, trong giai đoạn
này, ta không cần phải bận tâm đến nó!). Ví dụ: bạn nghe nhiều lần
(âm thanh) ‘oubou’ mà không hiểu nghĩa, lần lượt trong những câu
sau:
- To play the ‘oubou’ you need to have strong arms.
- The ‘oubou’ is considered one of the most difficult instruments to
play.
- The ‘oubou’ is very difficult to play, because Karen must force air
at very high pressure into the tiny double reed.
Lần đầu tiên, bạn chẳng biết âm ‘oubou’ chỉ cái gì, nhưng vì đi với
play nên bạn đoán rằng đó là một cái gì để ‘chơi’. Như thế là đã
‘hiểu’ một cách tổng quát. Lần 2, với từ ‘instrument’ bạn biết rằng
đó là cái để ‘chơi’ nhưng không phải là trong thể thao, mà là trong
âm nhạc. Lần thứ ba, với cụm từ ‘must force air’ thì ta biết rằng đó
là một nhạc cụ thổi hơi (khí nhạc) chứ không phải là nhạc cụ dây
hay gõ… Và ta tạm hiểu như thế, mà không cần biết phải viết thế
nào, cho đến khi đọc câu sau (chẳng hạn):
The oboe looks very similar to the clarinet, but sounds very different!
Thế là ta biết được rõ ràng đó là một nhạc khí tương tự như
clarinet, và từ mà ta nghe là ‘oubou’ thì được viết là oboe (và ta đọc
đúng ngay chứ không cần phải tra từ điển!)
Ps: Đây cũng là vấn đề ‘hiểu’ một từ. Chúng ta có cảm giác rằng nếu
dịch được tiếng ấy ra là ta hiểu ngay, thế nhưng không có gì sai cho
bằng. Nếu bạn học theo quá trình ngược, nghĩa là khởi sự biết từ ấy
dưới dạng chữ viết, bạn sẽ tra từ điển và đọc là: kèn ô-boa! Bạn thấy
hài lòng vì mình đã hiểu! Nhưng thực ra, nếu bạn không phải là một
nhạc sĩ, thì ‘kèn ô-boa’ cũng chẳng thêm gì trong kiến thức bạn.
Ngay trong tiếng mẹ đẻ, ta có thể hài lòng với khái niệm mơ hồ về
một từ, nhưng khi học ngoại ngữ thì ta có cái cảm giác sai lầm là
phải trở lại với từ mẹ đẻ mới gọi là hiểu. Đối với tôi, nightingale là
một loại chim có tiếng hót hay và thường hót vào ban đêm, còn có
dịch ra là ‘sơn ca’ hay ‘họa mi’ thì cũng bằng thừa, vì tôi chưa bao
giờ thấy và biết chim ‘sơn ca’ hay ‘họa mi’. Thậm chí không biết là
có phải một loài chim hay hai loài chim khác nhau, vì cả hai từ đều
được dịch là nightingale.
2. Nghe trong toàn bộ bối cảnh.
Ta thường nghĩ rằng: ‘một từ thì có một nghĩa nhất định’. Hoàn
toàn sai.
- Thử tra từ ‘tiêu cực’ trong từ điển: negative. Như thế, ‘một cán bộ
tiêu cực’ phải được dịch là ‘a negative cadre’! Nếu cụm từ tiếng Việt
có ý nghĩa rõ ràng thì cụm từ dịch ra tiếng Anh (như trên) là hoàn
toàn vô nghĩa! Nói cách khác: khi người Anh nói ‘negative’, thì
người Việt hiểu là ‘tiêu cực’; nhưng khi người Việt nói ‘tiêu cực’,
thì người Anh không thể hiểu là ‘negative.’
- Từ đó ta không thể nào hiểu đúng nghĩa một từ tiếng Anh nếu
không đặt vào trong bối cảnh của nó. Ví dụ: nếu không để ý rằng
câu chuyện xảy ra ở Anh hay ở Mỹ, thì khi nghe từ corn ta có thể
hiểu sai: Ở Anh là lúa mì, và ở Mỹ là bắp!
Nếu thấy một người mở nắp bình xăng lên mà nói ‘Oh my! No
more gas’ thì ta hiểu ngay rằng ‘gas’ chính là ‘xăng’, mặc dù trước
đó mình có thể học: petrol hay gasoline mới là xăng, còn gas có
nghĩa là khí đốt!
Mà nhiều khi bối cảnh rõ đến nỗi, người ta dùng một từ sai mình
cũng hiểu đúng. Bạn cứ thử đến cây xăng, mở bình và nói: đổ cho
tôi 30.000 dầu! Tôi cam đoan là người ta không thắc mắc gì cả và
sẽ đổ XĂNG chứ không đổ DẦU vào xe bạn; cao lắm là trong 100
lần, thì một lần người ta nhắc lại: đổ xăng phải không? Bạn nói là
Dầu người ta vẫn hiểu là Xăng. Và trong tiếng Anh cũng thế! Bạn
sẽ hiểu một từ trong toàn bộ bối cảnh của nó.
3. Nghe với tất cả giai điệu của câu.
Trong phần đầu tôi nói rằng khi ‘nghe’ một câu, chủ yếu là làm sao
nắm bắt được thông tin của chuỗi âm thanh ấy. Nói cách khác,
ngôn ngữ có nhiệm vụ là truyền tin. Nhưng ngoài nhiệm vụ truyền
tin thì còn một nhiệm vụ thứ hai, vô cùng quan trọng, ấy là nhiệm
vụ truyền cảm (truyền một tình cảm). Một câu nói giao tiếp hằng
ngày, luôn chuyển tải một phần của thất tình (= bảy tình cảm con
người, chứ không phải là bị tình phụ đâu: hỉ, nộ, ai, lạc, ái, ố, dục).
Vì thế, cao độ, tốc độ, cường độ của câu nói, trường độ (độ dài) và
dấu nhấn của một từ, có thể là điều mình cần phải ‘nghe’ cùng một
lúc với các âm thanh được phát ra, thậm chí nghe âm điệu là chính.
Nếu không thì ta hiểu sai, hoặc không hiểu gì cả. Đừng tưởng rằng
khi ta nghe được từ ‘hate’ là ta hiểu ngay: ghét!
Vì dụ nghe một cô gái nói với một cậu trai: I hate you! Câu này
không phải lúc nào cũng là ‘Em ghét anh'! Nói với một ngữ điệu
nào đó thì có thể hiểu là: Tôi căm thù anh; hay Thôi, để tôi yên; hay
Anh làm tôi bực mình; hoặc trái lại: Anh làm em cảm động quá;
thậm chí: Em yêu anh quá chừng chừng!
Và cách nhấn câu cũng thế. Ví dụ trong câu sau đây:
I didn’t say Paul stole my watch!
Nếu người nói nhấn mạnh các từ theo 7 cách khác nhau, mỗi cách
nhấn một từ ( I - didn’t - say - Paul - stole - my - watch ) thì nghĩa
sẽ khác nhau hoàn toàn:
I didn’t say Paul stole my watch! (Somebody else said that!)
I didn’t say Paul stole my watch! (No! I didn't act like that)
I didn’t say Paul stole my watch! (I disclosed by another way, but I
didn't SAY) v.v
Khi học tiếng Việt, chúng ta nghe toàn bộ giai điệu, nên nghe (và
nói) đúng cao độ của một từ (đúng các dấu); thế nhưng khi một
người nước ngoài học tiếng Việt, chúng ta phải khổ công giải thích
cho họ lên giọng, xuống giọng, uốn giọng như thế nào để nói các
dấu sắc, huyền, nặng, hỏi - ngã (do học nghe bằng tai nên người
Nam và người Trung đồng hóa ? và ~, trong khi người Bắc phân
biệt chúng rõ ràng). Vì thế, ngược lại, khi nghe tiếng Anh, cần phải
nghe toàn bộ âm điệu để nắm bắt những tình cảm bên dưới câu
nói.
Nghe với cả giai điệu, mình sẽ hiểu (và sau này sẽ dùng) những câu
hay thành ngữ một cách chính xác như người bản ngữ, mà không
cần phải dịch ra. Ví dụ: các câu ngắn như: Oh my God! Look at
this! Hoặc No way! Hoặc You're joking/kidding! Với giọng điệu
khác nhau, những câu nói hằng ngày đó có thể được hiểu là một
tiếng khen hay chê, thán phục hay thất vọng, bằng lòng hay bất
bình, chấp thuận hay từ chối!
Và từ đó, mình sẽ biết đối xử khi dùng tiếng Anh cho đúng nghĩa,
chứ không chỉ đúng văn phạm. Ví dụ, khi tiếp một nhân vật quan
trọng đến công ty bạn, bạn chuẩn bị nói một câu mời rất trân trọng
và đúng nghi thức (formal): Would you please take a seat? Thế
nhưng bạn căng thẳng đến độ nói theo một âm điệu nào đó khiến
người kia bực mình với bạn (mà bạn không hề biết), vì ngỡ rằng
bạn diễu cợt người ta! Thế là hỏng cả một cuộc đàm phán. Thà
rằng bạn nói đơn sơ: Sit down! Với một giọng hòa nhã, thái độ tôn
trọng, cử chỉ lịch thiệp và nụ cười nồng hậu, thì không ai lầm bạn!
Trái lại, nói câu rất formal trên kia, với thái độ căng thẳng và
giọng nói cộc lốc (vì sợ nói sai!), thì tai hại hơn nhiều.
4. Nghe với những gì một từ bao hàm.
Ngôn ngữ dùng để truyền tin, nhưng đồng thời cũng truyền cảm.
Vì thế, mỗi danh từ vừa chỉ định một cái gì cụ thể (denotation), vừa
kèm theo một tình cảm (connotation). Các từ this gentleman, this
man, this guy, this rascal đều có một denotation như nhau là một
người nam nào đó, nhưng connotation thì hoàn toàn khác; cũng
như đối với một người nữ nào đó ta có thể dùng: a lady, a woman, a
girl, a whore. Cùng một từ như communism chẳng hạn. Đối với một
đảng viên đảng Cộng Sản hay một cảm tình viên, thì từ ấy gợi lên
bao nhiêu điều dịu dàng cao đẹp, còn đối với người chống cộng, thì
từ ấy gợi lên bao nhiêu điều xấu xa, độc ác! Trong khi denotation
của nó chỉ là một triết thuyết như trăm ngàn thuyết thuyết khác,
mà dù thích dù không, người ta cũng phải dùng để chỉ định triết
thuyết do Karl Marx đề ra! Từ đó, câu nói 'You're a communist!' có
thể là một lời khen nồng ấm hoặc là một lời chỉ trích thậm tệ, tùy
theo connotation của nó.
Khi học tiếng Anh, muốn nâng cao vốn từ vựng thì ta cố học nhiều
từ đồng nghĩa (synonyms). Thế nhưng, không bao giờ có synonyms
đích thực cả: chỉ tương đương trong denotation chứ connotation
hoàn toàn khác (và cũng vì thế mà không bao giờ có hai từ hoàn
toàn có nghĩa giống nhau ở hai ngôn ngữ khác nhau: father/mother
không hoàn toàn là cha/mẹ - và daddy/mummy không hoàn toàn là
ba/má; vì tình cảm đính kèm với các từ ấy khác hẳn giữa người
Việt và người Anh). "Nghe" tiếng Anh, chính là biết nghe những
connotations trong các thuật ngữ mình nghe.
Cho đến nay, tôi chỉ đề nghị các bạn nghe tin tức. Nhưng đó là giai
đoạn nghe để quen với các âm. Trong giai đoạn ‘nghe’ tiếng Anh
này, phải bớt giờ nghe tin tức mà xem phóng sự hoặc các phim
truyện. Trên thế giới, các speakers của các chương trình tin tức
buộc phải nói với thái độ neutral, nghĩa là không được dùng từ
kèm theo tình cảm, và không được xử lý âm điệu để bộc lộ tình
cảm của mình, vì thế họ nói rất dễ nghe, nhưng chỉ nghe tin tức
thôi thì ta bỏ sót một phần khá chủ yếu trong tiếng Anh.
(Trái lại xướng ngôn viên Việt Nam nhiều khi chưa làm chủ được tình cảm
mình trong quá trình đọc một bản tin, và người ta thấy ngay là xướng ngôn
viên vui mừng hay bực tức, tán đồng hay bất đồng, với nội dung bản tin
mình đọc. Còn người viết bản tin thì dùng những từ có connotation: ví dụ
trước kia, khi nói đến một tổng thống Mỹ thì bao giờ cũng là ‘tên Kennedy’
hoặc ‘tên tổng thống Kennedy’. Còn hiện nay thì ‘Ngài tổng thống Bush’,
mà ít khi nói một cách trung lập: Tổng Thống G. Bush. Trong khi đó, hầu
như không bao giờ nghe trong một bản tin: ‘Cố chủ tịch Hồ Chí Minh’, mà
lúc nào cũng là ‘Bác Hồ’. Thuật ngữ ‘Bác Hồ’ mặc nhiện tiềm ẩn một tình
yêu thương và kính trọng đến độ cụm từ ‘cố chủ tịch Hồ Chí Minh’, vốn là
một cụm từ neutral, lại trở thành một cụm từ ‘thất kính, xem thường’ đối với
‘Chủ tịch Hồ Chí Minh’!)
5. Nghe bằng trái tim để cảm điều họ cảm.
Và cuối cùng, đối với các bạn muốn đi thật sâu vào tiếng Anh, thì
có thể phối hợp tất cả các kỹ năng để hiểu những điều tiềm tàng
bên dưới ngôn ngữ giao tiếp; và điều này hướng đến cách nghe văn
học. Mọi ngôn ngữ đều gợi lên một cái gì đó vượt lên trên từ ngữ.
Vì thế, thi ca là một ngôn ngữ đặc biệt. Người Việt nào, dù thích
hay không thích, vẫn cảm được ngôn ngữ của thi ca. Do đó, muốn
nâng cao kỹ năng ‘nghe’ tiếng Anh của mình thì cần tập nghe
những bài thơ. Cho đến nay, khó tìm những bài thơ audio, nhưng
không phải là không có. Tập nghe đọc thơ, dần dần, chúng ta sẽ
cảm được cái tinh túy của tiếng Anh, từ đó ta cảm được vì sao cùng
một tư tưởng mà diễn đạt cách này thì 'hay' hơn cách kia. Bấy giờ
ta mới có quyền nói: tôi đã ‘nghe’ được tiếng Anh.
Ví dụ, khi muốn người ta cảm nhận tiếng gió mùa thu, thì Xuân
Diệu đã sử dụng âm ‘r’ trong bài “Đây Mùa Thu Tới”:
Những luồng run rẩy rung rinh lá
Tương tự như vậy Robert L. Stevenson viết trong The Wind
[i]I saw you toss the kites on high
And blow the birds about the sky;
And all around I heard you pass,
Like ladies’ skirts across the grass..[/i]
Tác giả đã làm cho ta cảm được làn gió hiu hiu với các âm ‘r’ và ‘s’
nối tiếp và quyện vào nhau trong câu cuối, kèm với hình ảnh độc
đáo của váy các mệnh phụ lướt qua trên cỏ (điều mà người Việt
Nam hoàn toàn không có kinh nghiệm, vì mọi nét yêu kiều đều gắn
liền với tà áo dài).
Kết luận:
Tôi đã bắt đầu gợi ý nghe tiếng Anh để rồi đi đến vấn đề ‘nghe’
tiếng Anh. Tuy nhiên, tôi lặp lại, những gì tôi nói chỉ là lý thuyết, và
không có lý thuyết nào có thế làm cho bạn nghe được tiếng Anh.
Cách duy nhất ấy là bạn phải tự mình nghe và rút ra những
phương pháp thích hợp với xu hướng, kinh nghiệm và sở thích của
mình.
Qua loạt bài này, tôi luôn đả phá cách nghe dựa trên viết và dịch.
Thế nhưng, những điều tôi cho là trở ngại, nhiều khi lại có ích cho
bạn, vì những thứ ấy không cản trở mà còn giúp bạn những cột
móc để bám vào. Vâng. Nếu các bạn thấy việc đọc script, hoặc học
từ vựng, hoặc viết thành câu và tra từ điển - như vẫn làm từ trước
đến nay - giúp cho bạn nghe và hiểu nhanh hơn thì cứ sử dụng
phương pháp của mình. Tôi chỉ nhắc lại một điều này:
Tất cả những trợ giúp đó cũng giống như chiếc phao cho người tập
bơi. Khi tập bơi, nhiều người cần có một cái phao để bám vào cho
dễ nổi, từ đó bạo dạn xuống nước mà tập bơi. Và không ít người
bơi giỏi đã khởi sự như thế. Bạn cũng vậy, có thể những cách nghe
từ trước đến giờ (nhìn script - học từ - kiểm tra văn phạm) giúp
bạn những cột chắc chắn để bám vào mà nghe. Vậy thì xin nhớ
rằng: Chiếc phao giúp cho bạn nổi, nhưng không giúp cho bạn biết
bơi. Đến một giai đoạn nào đó, chính chiếc phao lại cản trở bạn và
không cho bạn bơi thoải mái.
Hãy vứt cái phao sớm chừng nào hay chừng nấy, nếu không nó trở
thành một trở ngại cho bạn khi bạn muốn bơi nhanh và xa.
Hãy vứt những chữ viết khi nghe nói, nhanh chừng nào hay chừng
ấy, nếu không chúng sẽ cản trở bạn và bạn không bao giờ thực sự
'nghe' được tiếng Anh!
- Xem thêm -