VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LÊ VĂN LONG
HỢP ĐỒNG TẶNG CHO QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT Ở
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ
Hà Nội - 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
LÊ VĂN LONG
HỢP ĐỒNG TẶNG CHO QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT Ở
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8.38.01.07
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. TRẦN ĐÌNH HẢO
Hà Nội – 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan công trình nghiên cứu này được thực hiện bởi bản thân
tôi, các nội dung nghiên cứu, kết quả trong đề tài này là trung thực và chưa
công bố dưới bất kỳ hình thức nào trước đây.
Luận văn có sử dụng một số nhận xét, đánh giá của các cá nhân tác giả,
cơ quan tổ chức khác nhưng đều có trích dẫn, chú thích ghi rõ nguồn gốc.
Tôi hoàn toàn trách nhiệm về công trình nghiên cứu này của mình.
Tác giả luận văn
LÊ VĂN LONG
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG TẶNG CHO QUYỀN SỬ
DỤNG ĐẤT Ở ...........................................................................................................7
1.1. Khái niệm và đặc điểm quyền sử dụng đất....................................................7
1.2. Khái niệm, đặc điểm của hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ở .............16
1.3. Vai trò của hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ở.Error! Bookmark not
defined.
1.4. Cơ cấu pháp luật điều chỉnh hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ở. .......22
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TẶNG
CHO QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT Ở THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
................................................................................... Error! Bookmark not defined.
2.1. Thực trạng của pháp luật về thực hiện hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất
ở ..........................................................................................................................29
2.2.Một số hạn chế, vướng mắc của pháp luật thực định khi xác lập, thực hiện
hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ở. ............................................................ 52
Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ
NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA VIỆC THỰC HIỆN HỢP ĐỒNG TẶNG CHO
QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT Ở THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY.....67
3.1.Định hướng hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả thực hiện hợp đồng tặng
cho quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam ............................................................... 67
3.2.Giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao nâng cao hiệu quả của việc thực hiện
hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ở theo pháp luật Việt Nam hiện nay ............69
KẾT LUẬN ..............................................................................................................75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 76
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
1. QSDĐ
:
Quyền sử dụng đất.
2. GCN QSDĐ :
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
3. BLDS
:
Bộ luật dân sự.
4. CP
:
Chính phủ.
5. TW
:
Trung ương.
6. HĐTCTS
:
Hợp đồng tặng cho tài sản.
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai có một ý nghĩa kinh tế xã hội sâu sắc, gắn liền với mỗi gia đình, cơ
quan, tổ chức, đơn vị kinh tế, xã hội và nhà nước. Dưới góc độ kinh tế quyền sử dụng
đất trở thành một quyền tài sản đặc biệt quan trọng của công dân. Nhà nước ngày
càng tạo thuận lợi cho công dân trong việc đưa quyền sử dụng đất vào giao dịch trong
dân sự góp phần thúc đẩy kinh tế gia đình và xã hội thông qua hệ thống pháp luật. Do
tính ổn định của pháp luật đất đai của nước ta chưa cao, chưa có tính dài lâu, đặc biệt
có thời kỳ pháp luật đất đai chưa phù hợp với thực tiễn đời sống xã hội đã tạo ra các
hoạt động ngầm trong lĩnh vực đất đai mà nhà nước không kiểm soát được. Nhiều
trường hợp có “xung đột” giữa pháp luật với thực tiễn cuộc sống. Vì vậy sự điều
chỉnh quan hệ đất đai của nhà nước qua từng thời kỳ đều có tác động lên tất cả các
chủ thể trong xã hội…Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ở là một trong những
loại hợp đồng quan trọng của giao dịch dân sự, bởi nó là một quan hệ dân sự phổ biến
trong cuộc sống của nhân dân đồng thời cũng là một trong những phương thức pháp
lý hữu hiệu giúp cho các chủ thể có quyền sử dụng đất hợp pháp xác lập và thực hiện
việc chuyển quyền sử dụng đất nhằm thỏa mãn các nhu cầu trong sản xuất kinh doanh
và trong đời sống sinh hoạt hàng ngày.
Luật đất đai năm 2003(có hiệu lực từ ngày 01/07/2004); Bộ luật dân sự năm
2005(có hiệu lực từ ngày 01/01/2007) đến Luật đất đai năm 2013(có hiệu lực từ ngày
01/07/2014) tiếp sau đó là Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2015(có hiệu lực từ ngày
01/01/2017) đã có những quy định cụ thể chi tiết và tương đối hoàn thiện về việc xác
lập, thực hiện cũng như các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng tặng cho quyền sử
dụng đất. Với những quy định điều kiện về chủ thể của hợp đồng, đối tượng của hợp
đồng, khi nào thì người sử dụng đất hợp pháp được thực hiện quyền của người sử
dụng đất …đã góp một phần tạo nên sự ổn định về quan hệ tặng cho quyền sử dụng
đất trong giai đoạn hiện nay.
Nhưng việc tặng cho quyền sử dụng đất ở nước ta từ trước cho tới nay diễn ra
rất đa dạng phong phú và trải qua nhiều thời kỳ khác nhau. Thời kỳ từ bản Hiến pháp
năm 1980 tới Luật đất đai năm 1987; Thời kỳ từ bản Hiến pháp năm 1992, Luật đất
1
đai năm 1993 tới Bộ luật dân sự năm 1995; Thời kỳ từ Luật đất đai năm 2003 đến Bộ
luật dân sự năm 2005 và đến nay là bản Hiến pháp năm 2013, Luật đất đai năm 2013
và Bộ luật dân sự năm 2015. Trong mỗi thời kỳ lại có những kế thừa, thay đổi, bổ
sung về pháp luật đất đai nhằm định hướng và tạo động lực thúc đẩy sự phát triển
không ngừng của đời sống kinh tế xã hội. Vì vậy việc nghiên cứu các quy định của
pháp luật về Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ở nước ta hiện nay để làm rõ cơ
sở lý luận. Đây là công trình chuyên khảo phân tích một cách có hệ thống và toàn
diện về Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ở.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Phần nhiều các nước trên thế giới đều công nhận sở hữu tư nhân về đất đai. Vì
vậy việc tặng cho quyền sử dụng đất giữa các chủ thể trong xã hội được quy định
tương tự như việc tặng cho tài sản thông thường khác giữa các chủ thể này. Ở nước
ta, tại các Bộ luật Hồng Đức; Bộ dân luật Nam kỳ; Bộ dân luật Bắc kỳ thì việc tặng
cho quyền sử dụng đất giữa các chủ thể trong xã hội là không cấm. Khi Luật đất đai
năm 1987 ra đời thì đã có một sự thay đổi lớn đó là quy định đất đai thuộc sở hữu
toàn dân do nhà nước thống nhất quản lý được quy định tại Điều 1. Nhưng lại không
có bất kỳ một điều luật nào trong Luật đất đai năm 1987 quy định về việc tặng cho
quyền sử dụng đất. Đến Luật đất đai năm 1993 cũng không có điều luật nào quy định
về tặng cho quyền sử dụng đất; Bộ luật dân sự năm 1995 ra đời đã đặt nền móng đầu
tiên và đã có quy định về hợp đồng tặng cho bất động sản nhưng lại không nêu rõ chủ
thể nào; loại đất nào được phép tặng cho. Cho đến khi Luật đất đai năm 2003 và Bộ
luật Dân sự năm 2005 ra đời thì mới có những quy định cụ thể về việc tặng cho quyền
sử dụng đất giữa các chủ thể trong xã hội. Trong đời sống việc tặng cho bao gồm cả việc
tặng cho tài sản giữa cá nhân với cá nhân và việc tặng cho người khác tài sản hợp pháp
của mình là chuyện bình thường. Nhiều cơ quan, tổ chức và cá nhân tặng cho nhà tình
nghĩa, nhà tình thương đối với cá nhân, gia đình người có công đối với đất nước trong
công cuộc bảo vệ, xây dựng đất nước và đối với người có hoàn cảnh khó khăn đặc biệt
được thực hiện hàng năm để tri ân đối với các gia đình, cá nhân được hưởng chính sách
ưu đãi của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và để gắn bó tình đoàn kết
với người có hoàn cảnh khó khăn.
2
Về hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất đã có một số công trình nghiên cứu
của các nhà khoa học, các chuyên gia nghiên cứu trong lĩnh vực đất đai và trong
Ngành tòa án. Các luận văn nghiên cứu sinh, luận văn thạc sĩ. Các chuyên đề nghiên
cứu được công bố trên các tạp chí của các chuyên gia đầu ngành như TS. Nguyễn Hải
An (2011), “Cơ sở lý luận và thực tiễn về tặng cho quyền sử dụng đất”, Luận án tiến
sĩ; Lê Xuân Bá: ”Sự hình thành và phát triển của thị trường bất động sản trong công
cuộc đổi mới ở Việt Nam”, Nxb Khoa học kỹ thuật, 2003; Đỗ Văn Chỉnh (2008),
“Tặng cho quyền sử dụng đất thực tiễn và tồn tại”, Tạp chí tòa án nhân dân tháng 22008; Đỗ Văn Đại (2009), “Thời điểm hợp đồng tặng cho có hiệu lực ở Việt Nam”,
Tạp chí Tòa án nhân dân kỳ II tháng 1 – 2009; Trần Thị Minh (2020), “Tặng cho
quyền sử dụng đất ở theo pháp luật Việt Nam hiện nay”, Luận án tiến sĩ…về cơ bản
đã làm rõ về mặt lí luận, thực tiễn trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan đến
hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu về Hợp
đồng tặng cho quyền sử dụng đất ở thì chưa có nhiều. Vì vậy việc nghiên cứu khoa
học một cách chuyên sâu về Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ở có ý nghĩa thiết
thực về mặt lý lận, cũng như thực tiễn áp dụng đưa ra những giải pháp nhằm hoàn
thiện các quy định của loại hợp đồng này. Tác giả chọn đề tài “Hợp đồng tặng cho
quyền sử dụng đất ở theo pháp luật Việt Nam hiện nay” làm luận văn tốt nghiệp cũng
nhắm tới mục đích nêu trên.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích:
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài này là xây dựng cơ sở lý luận pháp luật
về hợp đồng tặng cho QSDĐ ở. Với cơ sở lý luận đó tác giả luận văn phân tích, đánh
giá các quy định của pháp luật thực định cũng như những phát sinh diễn ra trong thực
tiễn khi áp dụng pháp luật tặng cho QSDĐ ở. Nhận diện mối quan hệ giữa lý luận,
pháp luật và việc áp dụng pháp luật trong thực tiễn của tặng cho QSDĐ ở. Nhận diện
những bất cập và những nguyên nhân làm phát sinh tranh chấp hợp đồng tặng cho
QSDĐ ở. Từ đó xác định được những bất cập trong thực tiễn để đưa ra đề xuất, giải
pháp tiếp tục hoàn thiện trong thời gian tới mục đích là nhằm nâng cao hiệu quả của
việc thực hiện quyền tặng cho QSDĐ ở của người sử dụng đất; giải quyết các vấn đề
3
liên quan đến tranh chấp hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ở của nước ta một
cách thống nhất, đồng bộ, hiệu quả đồng thời cũng nhằm đảm bảo tính khả thi khi áp
dụng pháp luật trong thực tiễn đúng định hướng của Đảng và Nhà nước về pháp luật
đất đai trong giai đoạn hiện nay.
3.2.Nhiệm vụ:
Nghiên cứu về mặt lý luận, thực tiễn các quy định của pháp luật về chế định
hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ở. Với nhiệm vụ này Luận văn phân tích, lý
giải khái niệm và đặc điểm QSDĐ, khái niệm và đặc điểm của hợp đồng tặng cho
QSDĐ ở, cơ cấu pháp luật điều chỉnh hợp đồng tặng cho QSDĐ ở; từ việc nghiên
cứu đó nhận diện được những yếu tố tác động đến pháp luật về hợp đồng tặng cho
QSDĐ ở; nhận diện tính đặc thù về mặt lý luận của tặng cho QSDĐ ở từ đó khẳng
định tính tất yếu và cần thiết của việc tặng cho quyền sử dụng đất ở được pháp luật
quy định.
Luận văn đánh giá thực trạng của các quy định pháp luật hiện hành về chủ thể;
đối tượng; điều kiện; hình thức; quyền và nghĩa vụ của các bên khi tham gia xác lập,
thực hiện hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ở; chỉ ra những bất cập, vướng mắc
của pháp luật hiện hành khi các bên xác lập, thực hiện hợp đồng tặng cho quyền sử
dụng đất ở và những khó khăn trong thực tế xét xử của cơ quan tòa án về tranh chấp
hợp đồng tặng cho QSDĐ ở.
Từ đó tác giả luận văn kiến nghị một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy
định của pháp luật phần giúp cho việc hướng dẫn thực hiện các quy của luật về tặng
cho QSDĐ ở phù hợp với thực tế; việc giải quyết các vụ án liên quan đến chế định
hợp đồng tặng cho QSDĐ ở được thống nhất, đồng bộ, có chất lượng hơn trong thời
gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng mà luận văn nghiên cứu là hợp đồng tặng cho QSDĐ ở theo pháp
luật Việt Nam hiện nay. Tác giả tập trung nghiên cứu những quy định của pháp luật
thực định về hợp đồng tặng cho QSDĐ ở, không gian nghiên cứu là tại Việt Nam,
thời gian nghiên cứu là thời gian hiệnn nay. Tuy nhiên trong quá trình nghiên cứu thì
tác giả có nghiên cứu và đối chiếu luật thực định về tặng cho QSDĐ ở, trong mối
4
quan hệ tặng cho quyền sử dụng các loại đất khác, tài sản khác từ khoảng thời gian
bản Hiến pháp năm 1980 có hiệu lực, Luật đất đai năm 1987 có hiệu lực cho đến hiện
nay.
Phạm vi nghiên cứu tác giả luận văn nghiên cứu các quy định về tặng cho tài
sản và tặng cho QSDĐ ở được quy định trong bản Hiến pháp năm 2013; Luật đất đai
năm 2013; Bộ luật dân sự năm 2015; các văn bản hướng dẫn thi hành Luật đất đai
năm 2013 và Bộ luật dân sự năm 2015; Các chế định của một số ngành luật khác có
liên quan như Luật nhà ở năm 2014; Luật công chứng năm 2014; Luật hôn nhân và
gia đình năm 2000; Luật xây dựng năm 2014; Luật kinh doanh bất động sản năm
2014 với mục đích phân tích, so sánh, đối chiếu vấn đề luân văn đang nghiên cứu.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được hoàn thành dựa trên nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử; cơ sở phương pháp luận trong nghiên cứu đề tài là triết học
Mác – Lê Nin, sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, lý luận bắt nguồn từ thực tiễn,
phản ánh khái quát những vấn đề của thực tiễn. Lý luận phải đi sâu nghiên cứu khai
phá và làm rõ sự phát triển của thực tiễn góp phần định hướng, thúc đẩy thực tiễn
phát triển đúng hướng.
Trong khi thực hiện đề tài này tác giả luận văn cũng sử dụng một số phương
pháp nghiên cứu như phương pháp hệ thống để tìm hiểu quá trình hình thành tặng
cho quyền sử dụng đất ở theo quy định của pháp luật Việt Nam từ bản Hiến pháp năm
1980, Luật đất đai năm 1987 cho đến nay; Phương pháp phân tích; tổng hợp để được
sử dụng khi phân tích cơ sở lý luận và nội dung quy định của pháp luật về tặng cho
quyền sử dụng đất ở và khái quát những nội dung cơ bản của từng vấn đề nghiên cứu
của Luận văn. Phương pháp so sánh được sử dụng để so sánh các quy định của pháp
luật về hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ở trong từng thời kỳ gắn liền với Luật
đất đai và Bộ luật dân sự mà cụ thể là từ Luật đất đai năm 1987 đến Luật đất đai năm
2013; Bộ luật dân sự năm 1995 đến Bộ luật dân sự 2015.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Là công trình nghiên cứu khoa học làm sáng tỏ và đầy đủ sâu sắc hơn một cách
có hệ thống lý luận pháp luật về hợp đồng tặng cho QSDĐ ở từ đó đưa ra một số kết
5
luận mang tính khoa học về pháp luật về tặng cho QSDĐ ở phần nào đó góp phần
hoàn thiện về mặt lý luận và thực thi pháp luật về tặng cho QSDĐ ở nước ta trong
giai đoạn hiện nay.
Luận văn nghiên cứu các quy định pháp luật thực định từ luật chung, luật
chuyên ngành và luật có liên quan khác về giao dịch tặng cho QSDĐ ở, tặng cho tài
sản từ đó nhận ra những đặc điểm đặc thù cơ bản của giao dịch tặng cho QSDĐ ở tại
Việt Nam. Nhận diện được những bất cập, chưa thống nhất của một số quy định của
luật nội dung về tặng cho QSDĐ ở. Chỉ ra một số nguyên nhân dẫn đến tranh chấp
hợp đồng tặng cho QSDĐ ở.
Luận văn cũng đưa ra một số kiến nghị giải pháp nhằm góp phần giúp cho việc
hướng dẫn thực hiện các quy của luật về tặng cho QSDĐ ở phù hợp với thực tế; việc
giải quyết các vụ án liên quan đến chế định hợp đồng tặng cho QSDĐ ở được thống
nhất và đồng bộ.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo thì nội dung
chính của luận văn có kết cấu gồm ba chương như sau:
Chương 1: Lý luận pháp luật về hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ở.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về đồng tặng cho quyền sử dụng đất ở.
Chương 3: Định hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật và bảo đảm hiệu quả
của việc thực hiện hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ở theo pháp luật Việt Nam
hiện nay.
6
Chương 1
LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG TẶNG CHO
QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT Ở
1.1. Khái niệm tài sản.
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam năm 2010 do Nhà xuất bản Từ điểm Bách
Khoa, Hà Nội xuất bản, tại trang 127 định nghĩa về tài sản như sau: "Tài sản là của
cải vật chất dùng vào mục đích sản xuất hoặc mục đích tiêu dùng". Tài sản đóng một
vai trò quan trọng trong Bộ Luật dân sự của Việt Nam, là vấn đề trung tâm của mọi
quan hệ xã hội nói chung và quan hệ pháp luật nói riêng. Theo quy định tại Điều 105
BLDS năm 2015 thì tài sản được định nghĩa như sau: “1) Tài sản là vật, tiền, giấy tờ
có giá và quyền tài sản. 2) Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản
và động sản có thể là tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai”. Căn cứ
theo quy định này thì tài sản được liệt kê và tồn tại ở một trong bốn hình thái lần lượt
là:
Tài sản là vật.
Vật là một bộ phận của thế giới vật chất, tồn tại khách quan mà con người có thể
cảm nhận bằng các giác quan của mình. Tuy nhiên, không phải vật nào cũng trở thành
tài sản, vật chỉ trở thành tài sản khi nó trở thành đối tượng trong các quan hệ pháp
luật và là đối tượng con người có thể kiểm soát và chiếm hữu. Những vật mà con
người không thể kiểm soát, chiếm hữu được nó thì cũng đồng nghĩa con người không
thể tác động, định đoạt và sử dụng được nó, có thể lấy ví dụ như: không khí, mặt
trăng… Bên cạnh đó, pháp luật Việt Nam quy định tài sản là “vật” mà không quy
định phải là “vật có thực”. Điều này khiến mở rộng khái niệm tài sản là vật có thể
đang tồn tại ở hiện thực hoặc vật chắc chắn được hình thành trong tương lai. Theo
quan điểm của tác giả luận văn, vật để trở thành tài sản trong quan hệ pháp luật thì
nó còn phải có khả năng lưu thông dân sự, theo đó nó phải xác định được giá trị trao
đổi của mình, được khai thác và sử dụng để đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần của
con người.
Tài sản là tiền.
7
Tiền theo kinh tế chính trị học là vật ngang giá chung được sử dụng làm thước đo
giá trị của các loại tài sản khác. Một tài sản được coi là tiền khi nó được Nhà nước
thừa nhận có giá trị và cho phép lưu hành trên thức tế. Tiền dùng để trao đổi lấy hàng
hóa và dịch vụ nhằm thỏa mãn bản thân và mang tính dễ thu nhận (nghĩa là mọi người
đều sẵn sàng chấp nhận sử dụng)[56]. Tiền khác với các loại vật là tài sản khác ở một
số đặc điểm như sau:
Đối với vật, con người có thể trực tiếp khai thác, sử dụng và hưởng các lợi ích từ
chính vật đó như dùng xe để đi lại, dùng quần áo để mặc… còn đối với tiền, con
người không thể khai thác công dụng trực tiếp từ chính bản thân tiền mà chỉ có thể
sử dụng gián tiếp thông qua việc thanh toán, trao đổi. Bên cạnh đó, tiền còn có tác
dụng tích lũy tài sản và là công cụ giúp định giá, đo lường các loại tài sản khác.
Vật có thể do nhiều chủ thể khác nhau tạo ra nhưng tiền chỉ do Nhà nước độc
quyền phát hành, thuộc về quyền chủ quyền của mỗi quốc gia.
Vật được xác định bằng đơn vị đo lường số lượng còn tiền ngoài số lượng còn
được xác định thông qua mệnh giá.
Chủ sở hữu vật có toàn quyền tiêu hủy, thay đổi về hình dáng, chức năng, cải tiến
vật thuộc sở hữu của mình nhưng đối với tiền thì không.
Tài sản là giấy tờ có giá.
Giấy tờ có giá được hiểu là những loại giấy tờ trị giá được bằng tiền và có thể
chuyển giao được trong giao dịch dân sự, Giấy tờ có giá hiện nay tồn tại dưới nhiều
dạng khác nhau như séc, cổ phiếu, trái phiếu, hối phiếu… Cần lưu ý, các loại giấy tờ
xác nhận quyền sở hữu, quyền sử dụng đối với tài sản như giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất và tài sản gắn liền với đất, giấy đăng ký xe… không phải là giấy tờ có giá.
Do các loại giấy tờ này chỉ là công cụ để Nhà nước ghi nhận quyền sở hữu đối với tài
sản nhằm quản lý và bảo đảm quyền của chủ sở hữu, không nhằm mục đích thanh
khoản. Vì vậy, bản thận các loại giấy tờ này không trị giá được bằng tiền, việc đơn
thuần chuyển giao các loại giấy tờ này mà không thực hiện đăng ký sẽ không làm
phát sinh việc chuyển giao quyền sở hữu đối với tài sản nó ghi nhận. Qua đó có thể
thấy, một số thuộc tính để phân biệt giấy tờ có giá với các loại tài sản khác bao gồm:
Thứ nhất, về mặt hình thức, giấy tờ có giá là một chứng chỉ được lập theo hình thức,
8
trình tự luật định; thứ hai, về nội dung, giấy tờ có giá xác nhận quyền tài sản của một
chủ thể xác định và quyền này được pháp luật ghi nhận và bảo hộ; thứ ba, bản thân
giấy tờ có giá có tính thanh khoản và là công cụ có thể chuyển nhượng trực tiếp quyền
tài sản từ chủ thể này sang chủ thể khác. Đây là thuộc tính phân biệt các loại giấy tờ
ghi nhận quyền tài sản khác với giấy tờ có giá.
Tài sản là quyền tài sản.
Được quy định trong Bộ luật dân sự năm 2015 tại Điều 115 như sau: “Quyền tài
sản là quyền trị giá được bằng tiền, bao gồm quyền tài sản đối với đối tượng quyền
sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất và các quyền tài sản khác.”.Theo đó, quyền tài sản
để trở thành tài sản phải trị giá được bằng tiền và có thể được chuyển giao trong giao
dịch dân sự. Quyền tài sản ở đây là các quyền của chủ thể hay các hành vi được phép
của chủ thể được xác định trong quan hệ pháp luật nhất định và được pháp luật ghi
nhận và bảo vệ. Theo đó, chủ thể có quyền tài sản được thực hiện các hành vi nhất
định và việc được phép thực hiện các hành vi này được phép chuyển nhượng và được
định giá được thành tiền.
Tóm lại, tài sản là quyền sử dụng đất, một loại tài sản được biểu hiện dưới dạng
"Quyền" được pháp luật Việt Nam bảo hộ, được trị giá thành tiền và hoàn toàn có
quyền được chuyển giao trong giao lưu dân sự, thương mại; được quyền định đoạt
quyền tài sản này theo ý chí và mục đích của người có quyền tài sản, trong đó, tặng
cho quyền sử dụng đất ở cũng là một phương thức chuyển giao tài sản được biểu hiện
dưới dạng "quyền tài sản".
1.2. Khái niệm hợp đồng tặng cho tài sản.
HĐTCTS là loại hợp đồng thông dụng và phổ biến ở Việt Nam cũng như trên thế
giới; do đó, khái niệm về HĐTCTS đã được luật hoá trong rất nhiều BLDS trên thế
giới cũng như được đề cập trong nhiều công trình khoa học pháp lý.
Trong luận văn “Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất – Một số vấn đề lý luận
và thực tiễn”, tác giả Trần Thị Minh định nghĩa: “Hợp đồng tặng cho tài sản là một
quan hệ tặng cho được hình thành từ sự thoả thuận giữa các bên để thoả mãn các nhu
cầu về sản xuất, kinh doanh hoặc các nhu cầu về sinh hoạt hằng ngày; còn pháp luật
về hợp đồng tặng cho tài sản là sự quy định của Nhà nước đối với các bên trong việc
9
thoả thuận về tặng cho tài sản” [….., tr. 10]. Định nghĩa đã lý giải HĐTCTS dưới góc
độ là một quan hệ pháp luật dân sự và dưới góc độ là một chế định pháp luật. Với
cách tiếp cận tặng cho là một quan hệ pháp luật, định nghĩa trên đã làm sáng tỏ được
cơ sở hình thành HĐTCTS là thông qua sự thoả thuận. Còn với nhận định “tặng cho…
để thoả mãn các nhu cầu về sản xuất, kinh doanh hoặc các nhu cầu về sinh hoạt hằng
ngày” thì tác giả luận văn lại có quan điểm khác. Bởi lẽ, mỗi bên trong HĐTCTS có
mục đích khác nhau khi xác lập HĐTCTS. Mục đích của bên tặng cho hướng tới không
phải nhằm thoả mãn các nhu cầu về sản xuất, kinh doanh hay các nhu cầu về sinh hoạt
hằng ngày mà mục đích là nhằm chuyển giao tài sản và chuyển quyền sở hữu đối với
tài sản của họ cho bên được tặng cho. Trên cơ sở kế thừa các điểm hợp lý được xây
dựng trong định nghĩa trên, theo quan điểm của tác giả luận văn khi tiếp cận tặng cho
là một quan hệ pháp luật thì cần làm sáng tỏ hơn các yếu tố đặc trưng liên quan đến
chủ thể, khách thể và nội dung của quan hệ cũng như bản chất không có đền bù của
loại quan hệ này.
Cũng đưa ra định nghĩa về HĐTCTS, tác giả Nguyễn Văn Hiến nhận định:“Hợp
đồng tặng cho tài sản là sự thoả thuận của các bên theo đúng quy định của pháp luật
về tặng cho tài sản, theo đó bên tặng cho giao tài sản của mình và chuyển quyền sở
hữu cho bên được tặng cho mà không yêu cầu đền bù, còn bên được tặng cho đồng ý
nhận” [26, tr. 96]. Về cơ bản, định nghĩa này được xây dựng theo quy định tại Điều
465 BLDS năm 2005 và thêm cụm từ “theo đúng quy định của pháp luật về tặng cho
tài sản”. Tác giả Nguyễn Văn Hiến muốn nhấn mạnh đến sự tuân thủ pháp luật của bên
tặng cho và bên được tặng cho khi xác lập, thực hiện HĐTCTS. Đây là yếu tố bảo
đảm cho pháp luật được thực thi nghiêm chỉnh và đúng đắn trên thực tế. Tuy nhiên, tác
giả luận văn lại tiếp cận HĐTCTS dưới một cách nhìn khác, dù bên tặng cho và bên
được tặng cho không tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật thì bản chất giao dịch
các bên xác lập vẫn là HĐTCTS. Như bên tặng cho và bên được tặng xác lập không
đúng với hình thức của HĐTCTS hay ý chí của các bên không tự nguyện khi xác lập
HĐTCTS không làm thay đổi bản chất của giao dịch là HĐTCTS. Thậm chí, trong
những trường hợp này, HĐTCTS vẫn có hiệu lực thi hành đối với cả bên tặng cho và
bên được tặng cho. Ví dụ: Trong lúc say rượu, A tặng cho B 20 triệu đồng. Sau khi
10
tỉnh rượu, A không yêu cầu toà án tuyên bố HĐTC A đã xác lập thực hiện với B là vô
hiệu. Do vậy, hợp đồng tặng cho này vẫn có hi ệu lực mặc dù không thoả mãn đầy đủ
các điều kiện có hiệu lực theo quy định tại Điều 117 BLDS năm 2015 hay trường hợp
cha mẹ tặng cho nhà đất cho con cái, hợp đồng đã được lập văn bản nhưng chưa
công chứng, chứng thực nhưng nếu các bên hoặc một trong hai bên đã thực hiện được
tối thiểu 2/3 nghĩa vụ thì HĐTCTS được công nhận (Điều 129 BLDS năm 2015).
Ngoài ra, HĐTCTS còn được định nghĩa “là sự thể hiện ý chí, sự tự nguyện, tự
do thỏa thuận trong khuôn khổ quy định pháp luật của các bên, theo đó bên tặng cho
chuyển giao quyền sở hữu hoặc chuyển quyền sử dụng tài sản của mình theo quy định
của pháp luật cho bên được tặng cho mà không yêu cầu đền bù, còn bên được tặng
cho đồng ý nhận” [….., tr.12]. Cũng giống như định nghĩa ở trên, định nghĩa này
khẳng định hợp đồng tặng cho tài sản phải theo quy định của pháp luật – Đây là vấn
đề mà tác giả luận văn có góc nhìn khác và đã được trình bày ở trên. Bên cạnh đó, đây
là định nghĩa duy nhất ghi nhận “bên tặng cho chuyển giao quyền sở hữu hoặc chuyển
quyền sử dụng tài sản của mình ...cho bên được tặng cho”. Nội dung này gây ra rất
nhiều băn khoăn cho tác giả luận văn. Theo các thuật ngữ được dùng trong định nghĩa
trên, tặng cho là “chuyển giao quyền sở hữu” hoặc “chuyển quyền sử dụng” đối với
tài sản. Tuy vậy, HĐTCTS luôn là hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu tài sản đối với
mọi loại tài sản nói chung gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản mà không phải
là chuyển giao quyền sử dụng tài sản. Trường hợp tặng cho quyền tài sản như quyền
sử dụng đất thì mục đích của hợp đồng chính là chuyển quyền sở hữu đối với QSDĐ
từ bên tặng cho sang cho bên được tặng cho.
Để đưa ra được khái niệm đầy đủ, hoàn thiện về HĐTCTS, trước hết, cần phải
nghiên cứu bản chất của hợp đồng. Hợp đồng là sự thoả thuận giữa các bên về việc xác
lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự (Điều 385 BLDS năm 2015). Tặng
cho là một trong các loại hợp đồng nên phải theo lý thuyết về sự hình thành hợp đồng;
cụ thể, HĐTCTS là sự thoả thuận, thống nhất ý chí của bên tặng cho và bên được tặng
cho tài sản. Nếu thiếu đi yếu tố “thoả thuận” thì không thể hình thành được HĐTCTS.
Điều này cũng thể hiện rất rõ trong định nghĩa về HĐTCTS được ghi nhận tại Điều
457 BLDS năm 2015: “Hợp đồng tặng cho là sự thoả thuận giữa các bên…” và ngay
11
trong định nghĩa cũng đã đưa ra điều kiện về ý chí của bên được tặng cho “đồng ý
nhận tài sản”.
Trên cơ sở kế thừa các định nghĩa về HĐTCTS đã được các nhà khoa học xây
dựng trước đó và cùng với sự phân tích, bình luận ở trên, tác giả luận văn đưa ra định
nghĩa về HĐTCTS như sau:
“Hợp đồng tặng cho tài sản là sự thoả thuận giữa bên tặng cho và bên được tặng
cho, theo đó khi còn sống, bên tặng cho giao tài sản của mình và chuyển quyền sở hữu
cho bên được tặng cho mà không yêu cầu đền bù; còn bên được tặng cho nhận chuyển
giao tài sản. Hợp đồng tặng cho có thể kèm điều kiện tặng cho hoặc không”.
Đối chiếu theo các yếu tố cần được sử dụng khi xây dựng định nghĩa về HĐTCTS
thì định nghĩa HĐTCTS được quy định tại Điều 457 BLDS năm 2015 đã phản ánh và
thể hiện được các nội dung cơ bản trên của loại hợp đồng này:“Hợp đồng tặng cho tài
sản là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên tặng cho giao tài sản của mình và
chuyển quyền sở hữu cho bên được tặng cho mà không yêu cầu đền bù, bên được tặng
cho đồng ý nhận”. So sánh giữa định nghĩa tác giả luận văn xây dựng và định nghĩa
về HĐTCTS được quy định trong BLDS năm 2015 thì tác giả luận văn đã lược bỏ
cụm “bên được tặng cho đồng ý nhận”. Bởi lẽ, theo như phân tích ở trên, hợp đồng
tặng cho có thể được hình thành từ sự đề xuất của bên tặng cho hoặc của chính bên
được tặng cho. Trường hợp bên tặng cho đưa ra đề xuất tặng cho thì cần có sự đồng ý
của bên được tặng cho. Ngược lại, nếu bên được tặng cho đề nghị một chủ thể tặng
tài sản cho họ thì cần sự đồng ý của người đó. Nếu vậy, định nghĩa đang được ghi
nhận trong BLDS năm 2015 đang chỉ hướng tới trường hợp bên tặng cho đưa ra đề
nghị tặng cho và bên được tặng cho đồng ý nhận mà chưa bao quát được tình huống
bên được tặng cho đề xuất bên tặng cho tặng tài sản cho mình.
1.3. Khái niệm và đặc điểm quyền sử dụng đất
Trước khi Hiến pháp năm 1980 ra đời, trong hệ thống pháp luật Việt Nam,
khái niệm “quyền sử dụng đất” chưa được sử dụng để chỉ những quyền năng của cá
nhân, hộ gia đình, tổ chức đối với đất đai mà là khái niệm “quyền sở hữu” được sử
dụng. Ngày 18/12/1980, tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khoá VI đã thông qua Hiến pháp
năm 1980. Một chế độ sở hữu duy nhất đối với đất đai ở nước ta đã được xác lập, đó
12
là chế độ công hữu dưới tên gọi “sở hữu toàn dân”. Trên cơ sở đó, Luật Đất đai năm
1987 được ban hành và khái niệm “quyền sử dụng đất” chính thức được sử dụng. Từ
đó cho đến nay, trải qua nhiều lần thay thế Hiến pháp và Luật Đất đai, chế độ sở hữu
toàn dân về đất đai tiếp tục được duy trì và khái niệm “quyền sử dụng đất” vẫn được
sử dụng. Được ra đời trong bối cảnh như vậy nên “quyền sử dụng đất” là một sự sáng
tạo pháp lý nhằm thực hiện sở hữu toàn dân về đất đai ở nước ta và cũng như là một
công cụ pháp lý để giúp Nhà nước thực hiện được quyền năng chủ sở hữu của mình.
Từ điển Luật học của Viện Khoa học pháp lý - Bộ tư pháp do Nhà xuất bản từ
điển bách khoa và Nhà xuất bản tư pháp xuất bản năm 2006 định nghĩa: "Quyền sử
dụng đất là quyền của các chủ thể được khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức
từ việc sử dụng đất được Nhà nước giao, cho thuê hoặc được chuyển giao từ những
chủ thể khác thông qua việc chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa
kế, tặng cho... từ những chủ thể khác có quyền sử dụng đất". Nội dung của khái niệm
này xác đã định rõ được nguồn gốc sử dụng đất; xác định được quan hệ giữa Nhà
nước với người sử dụng đất; xác định được quyền khai thác lợi ích từ đất của người
sử dụng đất.
Quyền sử dụng đất là bộ phận cấu thành của quyền sở hữu đất đai. Thông qua
việc Nhà nước được độc quyền trong giao giao đất, cho thuê đất, định giá đất, thu hồi
đất. Nhà nước trao cho người sử dụng đất thực hiện trong thời hạn thuê đất, nhận giao
đất những quyền và nghĩa vụ nhất định; trong đó có sự phân biệt theo loại đất, theo
đối tượng sử dụng đất, theo hình thức thuê hoặc giao đất. Đây là quan điểm của Tiến
sĩ Lê Xuân Bá. Quan điểm này chỉ ra quyền sử dụng đất là một quyền phái sinh từ
quyền sở hữu đất đai, nó xác định quyền năng của chủ sở hữu đại diện và phân rõ
quyền hạn của từng loại chủ thể sử dụng đất. Theo đó chỉ có nhà nước mới là người
sở hữu về đất đai một cách toàn vẹn và đúng nghĩa. Nhà nước thực hiện quyền sở hữu
đất đai thông qua việc độc quyền giao đất, cho thuê đất, định giá đất, thu hồi đất đối
với người có nhu cầu sử dụng đất. Việc giao đất, cho thuê đất, định giá đất, thu hồi
đất của nhà nước đối với người có nhu cầu sử dụng đất là có thời hạn theo từng loại
đất và đối tượng sử dụng đất.
13
Với các quan điểm trên thì quyền sử dụng đất được nhìn nhận ở hai góc độ đó
là góc độ về kinh tế và góc độ về pháp lý. Nhìn ở góc độ về pháp lý thì quyền sử dụng
đất là thuộc về nhà nước, các quyền năng mà nhà nước thông qua công cụ pháp lý để
quy định, công nhận cho chủ thể sử dụng đất được hưởng, được thực hiện trong quá
trình sử dụng đất. Còn nhìn ở góc độ về kinh tế thì quyền sử dụng đất là quyền khai
thác các lợi ích kinh tế từ đất của các chủ thể sử dụng đất hợp pháp.
Quan điểm về quyền sở hữu và quyền sử dụng đất tiếp tục được khẳng định
tại Nghị quyết số 19-NQ/TW ngày 31/10/2012 của Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành
Trung ương Đảng khóa XI về tiếp tục đổi mới chính sách pháp luật về đất đai trong
thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng đến năm 2020 nước ta
cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.Đảng ta khẳng định quyền sử
dụng đất là “một loại tài sản và hàng hoá đặc biệt, nhưng không phải là quyền sở hữu”
[3]. Nhìn từ phương diện kinh tế thì một hàng hoá thông thường bao giờ cũng có giá
trị và giá trị sử dụng, trong đó giá trị của hàng hoá được xác định bằng lao động kết
tinh trong hàng hoá (lao động hao phí phải bỏ ra để tạo ra sản phẩm), nhưng giá trị
của quyền sử dụng đất không được xác định thông qua quy luật thông thường, không
có hao phí lao động nào được bỏ ra để hình thành nên đất (chỉ có lao động bỏ ra để
cải tạo, tu bổ đất). Mặt khác đối tượng của quyền sử dụng đất là đất đai, một tài sản
thuộc quyền sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu quản lý; Không giống
với các hàng hoá thông thường mà chủ sở hữu được toàn quyền định đoạt, quyền sử
dụng đất là loại hàng hoá mà sự tồn tại phụ thuộc rất nhiều vào ý chí của Nhà nước
(quyết định giao đất, cho thuê đất; quyết định thu hồi đất…). Qua đó, chúng ta có thể
nhận thấy tính chất đặc biệt của loại hàng hoá “quyền sử dụng đất” trên thị trường,
cũng như để quyền sử dụng đất phát huy được vai trò là một loại hàng hoá đặc biệt
trên thị trường thì Nhà nước phải xác lập cơ chế quản lý hữu hiệu, phù hợp nhằm trước
hết là tôn trọng quyền của người có tài sản là quyền sử dụng đất đã được Nhà nước
xác lập và công nhận hợp pháp; theo đó, họ được quyền chủ động và linh hoạt trong
việc khai thác, sử dụng và định đoạt tài sản ấy theo ý chí, nguyện vọng và mong muốn
của mình; cơ chế pháp lý ấy phải hướng tới mục đích tôn trọng và bảo vệ quyền tài
sản cho người có quyền sử dụng đất. Mọi sự can thiệp sâu, cấm đoán hay tạo ra những
14
rào cản pháp lý để gây khó khăn, cản trở cho việc khai thác, sử dụng và thực hiện các
giao dịch về quyền tài sản này cũng đều dẫn đến nguy cơ xâm phạm tới quyền tài sản
của người có quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, như trên đã phân tích, cơ sở phát sinh và
nguồn gốc để xác lập cho người có quyền tài sản này là Nhà nước với tư cách là chủ
sở hữu đại diện đối với đất đai nên ý chí và mong muốn của Nhà nước luôn hướng
tới sự chi phối, kiểm soát đối với các hành vi sử dụng tài sản này. Sự quản lý và kiểm
soát đó một mặt thể hiện quyền lực của Nhà nước vừa với chức năng quản lý mọi mặt
đời sống kinh tế, xã hội, vừa với chức năng đại diện chủ sở hữu; song mặt khác còn
với mong muốn định hướng, "kiến tạo" cho quyền sử dụng đất ấy được khai thác, sử
dụng có hiệu quả trên cơ sở quỹ đạo chung thống nhất, hài hòa lợi ích của Nhà nước,
người có tài sản là quyền sử dụng đất và cao hơn là lợi ích chung của xã hội. Ở một
khía cạnh khác, sự quản lý và kiểm soát của Nhà nước còn giúp cho các giao dịch về
quyền sử dụng đất được bảo đảm thực thi một cách hợp pháp, ngăn ngừa việc lợi
dụng sự mở rộng của pháp luật về quyền tài sản, quyền tự do kinh doanh để thực hiện
những mưu đồ bất hợp pháp, tư lợi cá nhân... làm ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp
pháp của các chủ thể khác.
Có thể nhận thấy rằng thông qua mối quan hệ giữa Nhà nước với các tổ chức,
hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất, đặc biệt là từ cách thức xử lý của pháp luật khi quy
định về các quyền của người không phải là chủ sở hữu đối với tài sản, trong đó có
quyền sử dụng đất và phương thức bảo vệ các quyền đối với tài sản của người không
phải là chủ sở hữu đó cũng được thực hiện như bảo vệ đối với chủ sở hữu tài sản, có
thể nhận thấy rõ bản chất của quyền sử dụng đất của người sử dụng đất như
sau: Quyền sử dụng đất là quyền tài sản thuộc sở hữu của tổ chức, hộ gia đình, cá
nhân phát sinh trên cơ sở quyết định giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng
đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc từ các giao dịch nhận chuyển quyền
sử dụng đất. Việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt quyền sử dụng đất phải tuân thủ các
điều kiện, thủ tục do pháp luật quy định.
Nhận diện được bản chất của quyền sử dụng đất tồn tại trong chế định sở hữu
toàn dân về đất đai mà Nhà nước đóng vai trò là chủ sở hữu đại diện có ý nghĩa vô
cùng quan trọng, là cơ sở tiền đề quan trọng trong việc nghiên cứu và đánh giá về
15
- Xem thêm -