1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Trong giai đoạn 1930 - 1945, văn học Việt Nam phát triển với tốc
độ nhảy vọt. Vũ Ngọc Phan nhận định: "một năm ở nước ta bằng ba mươi
năm ở nước người". Gia tốc phát triển của văn học Việt Nam giai đoạn này
thể hiện trên nhiều phương diện: sự xuất hiện một đội ngũ sáng tác hùng hậu,
sống bằng nghề văn; hàng loạt tác phẩm ra đời nhờ tiếp thu công nghệ in sách
của phương Tây; một công chúng văn học đông đảo ỏ thành thị với nhu cầu
mới mẻ, đa dạng, có tác dụng kích thích sự sáng tạo của nhà văn. Và nói đến
sự phát triển ngoạn mục ấy, không thể không nói đến sự phong phú của thể
loại văn học. Quả thật, khác với văn học trung đại trước đó, văn học Việt
Nam lúc này đã nằm trong quĩ đạo của hiện đại hoá. Mọi thể loại văn học đều
bừng rộ, đạt thành quả rực rỡ. Tiểu thuyết, truyện ngắn, kí, thơ trữ tình,
kịch,…đều đồng loạt có mặt. Trong bức tranh thể loại đa sắc đó, không thể
không nói tới sự góp mặt của phê bình văn học.
1.2. Phê bình văn học đã có bước "chạy đà" trước đó với Nam Phong
tạp chí, Đông Dương tạp chí, và được tiếp nối với Tri Tân, Thanh Nghị, Ngày
nay… Giai đoạn này xuất hiện nhiều cây bút phê bình chuyên nghiệp, tiếp thu
phương pháp phê bình văn học của phương Tây và gặt hái được những thành
tựu đáng ghi nhận: Thiếu Sơn, Hoài Thanh, Trần Thanh Mại, Đặng Thai Mai,
Trương Tửu, Trương Chính, Vũ Ngọc Phan… Trong số những cây bút phê
bình vừa kể trên, Vũ Ngọc Phan tuy không phải là gương mặt thật xuất sắc,
nhưng, nói đến lịch sử phê bình văn học hiện đại Việt Nam, không thể không
nhắc đến ông. Nổi bật hơn cả trong sự nghiệp trước tác của ông là bộ Nhà văn
hiện đại. Đúng như lời đầu sách của Nhà xuất bản Văn học trong lần tái bản
thứ VI: "Bộ sách Nhà văn hiện đại chưa phải đã thật hoàn hảo, như nhiều nhà
2
nghiên cứu, nhiều bạn đọc sau này đã chỉ ra; song vẫn là bộ sách có giá trị,
bởi cho đến nay, nó vẫn là một công trình bao quát nhất của một giai đoạn
văn học từ cuối thế kì XIX đến những năm 40 của thế kỉ XX - giai đoạn có
một vị trí quan trọng trong lịch sử phát triển văn học Việt Nam". Như vậy,
không thể hình dung đầy đủ nền phê bình văn học thời bấy giờ nếu không nói
đến bộ Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan.
1.3. Nói đến đóng góp của Nhà văn hiện đại dĩ nhiên trước hết phải nói
đến mặt học thuật, gắn với phương pháp phê bình, tầm bao quát tư liệu, các
nhận định về tác giả và tác phẩm, ảnh hưởng của nó đối với tình hình sáng tác
lúc bấy giờ và cả sau này. Những mặt đó đã được đề cập với những mức độ
đậm nhạt khác nhau trong các bài viết, các công trình nghiên cứu về bộ sách.
Song nếu đặt Nhà văn hiện đại (cũng như một số công trình phê bình khảo
cứu văn học thời bấy giờ) vào không khí văn học Việt Nam những năm 30 40 của thế kỉ XX ở Việt Nam, cần nhìn thêm một khía cạnh: sự đóng góp của
tác giả đối với việc hiện đại hoá ngôn ngữ văn học. Thông thường, nói đến
hiện đại hoá ngôn ngữ văn học, người ta chú trọng đặc biệt đến công lao của
Thơ mới, của văn xuôi Tự lực văn đoàn và tác phẩm của nhiều nhà văn thời
đó. Điều ấy hiển nhiên là đúng. Nhưng vẫn còn thiếu sót nếu không chú ý đến
sự góp công của các cây bút phê bình văn học, bởi, chính thể loại vừa có tính
khoa học vừa có tính nghệ thuật này cũng để lại những dấu tích rõ ràng trong
việc du nhập các khái niệm ngữ văn từ phương Tây, làm giàu thêm vốn từ
vựng ngôn ngữ dân tộc, hoặc trong việc hiện đại hoá câu văn quốc ngữ vốn
được khởi sự từ những Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh…
Để ngôn ngữ phê bình văn học có được diện mạo và phẩm chất như hiện nay,
rõ ràng có sự đóng góp âm thầm, bền bỉ của nhiều thế hệ các nhà phê bình,
mà một trong số đó chính là Vũ Ngọc Phan với công trình Nhà văn hiện đại.
3
Đó là những lí do thôi thúc chúng tôi triển khai đề tài nghiên cứu Ngôn
ngữ phê bình văn học trong Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan với
khuôn khổ một luận văn thạc sĩ.
2. Lịch sử vấn đề
Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu, bài viết, chuyên luận về Vũ
Ngọc Phan, về Nhà văn hiện đại của ông, nhưng dường như phần lớn chỉ xét
về mặt văn chương.
Trong Hồi ức về phê bình văn học trước Cách mạng Tháng Tám của
chính Vũ Ngọc Phan (Tạp chí Văn học, số 9/ 1965), ông tự nhận xét về cuốn
Nhà văn hiện đại của mình là “nói có sách, mách có chứng, không khen chê
vu vơ…”. Đồng thời, ông cũng nêu một số vấn đề về chế độ xã hội lúc bấy
giờ để lí giải tại sao tác phẩm Nhà văn hiện đại không đề cập đến chính trị.
Nhà phê bình Lê Thanh trong Để bàn với ông Vũ Ngọc Phan về một
phương pháp phê bình văn học (Tri Tân, số 8/1943 – Nxb Hội Nhà văn, Hà
Nội, 1998) cho rằng Vũ Ngọc Phan tự nhận viết cuốn Nhà văn hiện đại theo
“phương pháp khoa học và thuyết tiến hoá”.
Nhà văn Thạch Lam cùng thời với Vũ Ngọc Phan nhận định: “lối phê
bình của Vũ Ngọc Phan là rất nhạt, chung chung, không theo một chính kiến
rõ ràng”.
Trong bài báo Nghiên cứu văn học theo đặc trưng thể loại và phong
cách (Tạp chí Văn học, số 1/1993) và trong công trình Về phương pháp phê
bình và nghiên cứu văn học (đăng trong chuyên luận Lí luận, phê bình văn
học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX), Nguyễn Ngọc Thiện có một phần viết riêng
về Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan. Tác giả cho rằng, phê bình văn học
của Vũ Ngọc Phan là “rất thú vị, xét đoán theo tiêu chí đặc trưng chung của
nhóm, loài, nhưng mỗi cá thể vẫn giữ được cái riêng biệt, đơn nhất của mình”.
4
Tuy thế, ông cũng khẳng định: một số nhận xét của Vũ Ngọc Phan còn rất
khiên cưỡng.
Trong một chuyên luận do Nhà xuất bản Văn học ấn hành của nhóm tác
giả Nguyễn Ngọc Thiện (chủ biên), Nguyễn Đăng Điệp, Tôn Thảo Miên, Hà
Công Tài, Trịnh Bá Đĩnh, Cao Kim Lan, Đinh Thị Minh Hằng nghiên cứu về
lí luận, phê bình văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến 1945, có một số bài
viết liên quan đến Vũ Ngọc Phan.
Tác giả Nguyễn Đăng Điệp ở bài viết Vũ Ngọc Phan (1902-1987) cho
rằng: “Với Vũ Ngọc Phan, phê bình không phải là hoạt động tuỳ hứng có tính
chủ quan. Ông muốn tiếp cận các giá trị của văn chương bằng cái nhìn của
nhà khoa học…dựa theo những tiêu chí cụ thể và nhất quán”, “Những nhận
xét của Vũ Ngọc Phan về Nguyên Hồng, Thạch Lam, Vũ Bằng, Tô Hoài…
cũng có nhiều chỗ chính xác. Khi phân tích sáng tác của các nhà văn, Vũ
Ngọc Phan hay dùng thủ pháp so sánh. Thủ pháp này góp phần nhận chân nét
riêng của các cây bút này thêm rõ nét”, “Với thái độ phê bình cẩn trọng, nhiều
nhận đinh của Vũ Ngọc Phan chừng mực và chính xác. Ông còn có những
phát hiện tinh tế mà cho đến nay ta vẫn thấy tính thuyết phục trong các nhận
định ấy”. Nhược điểm rõ nhất của Nhà văn hiện đại là chưa thể hiện được sự
phong phú của văn học; việc sắp xếp các nhà văn vẫn chưa hợp lí trong
trường hợp có nhiều nhà văn viết nhiều thể loại khác nhau; phân tích các tác
phẩm chưa thật kĩ lưỡng, thậm chí chỉ đưa ra những nhận xét một cách khái
quát chứ không chứng minh. Tuy thế, Vũ Ngọc Phan với Nhà văn hiện đại
vẫn là “người công phu và tinh tế…Ông là người nhìn văn học bằng sự điềm
tĩnh của nhà nghiên cứu”.
Trịnh Bá Đĩnh trong Các hình thái tư duy phê bình đầu thế kỉ XX đã
nhận thấy Vũ Ngọc Phan coi “phê bình thuộc sáng tạo của nghệ thuật” và ông
đã “đồng đẳng” các thể loại văn học với thơ, kịch, truyện và kí.
5
Tác giả Trần Bích San trong Phê bình văn học nhận ra rằng Vũ Ngọc
Phan trong Nhà văn hiện đại là một người “phê bình tác phẩm theo quy tắc
ngữ văn hơn là một người đi tìm cái đẹp, khám phá các công trình sáng tạo.
Tuy vậy, ông là nhà phê bình có ý thức vững chắc và trung thành với nhiệm
vụ cùng phương pháp phê bình. Ông đã phê bình các sáng tác văn học đúng
theo tiêu chuẩn của ông”.
Ngược lại, Đỗ Lai Thuý trong Phê bình văn học Việt Nam trên đường
hiện đại hoá thì cho rằng: “Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan là sự tranh
chấp giữa phê bình khoa học và phê bình ấn tượng, giảng giải, nhận xét vụn
vặt.”
Như vậy có thể thấy rõ rằng sức sống của tác giả Vũ Ngọc Phan cùng
với tác phẩm Nhà văn hiện đại đã vượt qua giới hạn về mặt thời gian trong
gần thế kỉ qua, từ khi ra đời – năm 1939 đến nay. Chúng tôi đã thu thập được
hơn 15 tác phẩm viết về nhà văn Vũ Ngọc Phan cùng với tác phẩm Nhà văn
hiện đại. Tuy thế cho đến nay, chưa có một công trình nào nghiên cứu về Nhà
văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan dưới góc độ ngôn ngữ một cách có hệ thống.
Đó là một trong những lí do để chúng tôi triển khai công trình nghiên cứu
này.
3. Đối tƣợng và mục đích nghiên cứu
3. 1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là bộ sách Nhà văn hiện đại của Vũ
Ngọc Phan gồm hai tập, tập 1 có 3 quyển, tập 2 có 3 quyển.
3.2. Mục đích nghiên cứu
- Làm rõ một số đặc điểm của ngôn ngữ phê bình văn học;
- Nhận diện những đặc điểm ngôn ngữ phê bình văn học của Vũ Ngọc
Phan trong Nhà văn hiện đại trên hai cấp độ cơ bản: từ ngữ và cú pháp.
6
- Tìm dấu ấn thời đại và những đóng góp của Vũ Ngọc Phan đối với
việc hiện đại hoá ngôn ngữ phê bình văn học.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để triển khai đề tài này, chúng tôi sử dụng các phương pháp cơ bản sau
đây:
- Phương pháp thống kê, phân loại.
- Phương pháp miêu tả, giải thích.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu
- Phương pháp loại hình - lịch sử.
- Phương pháp tiếp cận hệ thống.
5. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, nội dung luận văn gồm ba chương
như sau:
Chương 1: Phê bình văn học, vấn đề ngôn ngữ phê bình văn học và
công trình Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan
Chương 2: Từ ngữ trong Nhà văn hiện đại
Chương 3: Câu văn trong Nhà văn hiện đại
Sau cùng là Tài liệu tham khảo.
7
Chương 1
PHÊ BÌNH VĂN HỌC, NGÔN NGỮ PHÊ BÌNH VĂN HỌC
VÀ CÔNG TRÌNH NHÀ VĂN HIỆN ĐẠI CỦA VŨ NGỌC PHAN
1.1. Phê bình văn học và vấn đề ngôn ngữ phê bình văn học
1.1.1. Tính khoa học và tính nghệ thuật của phê bình văn học
Nhận thức về bản chất của phê bình văn học là một quá trình, và quan
niệm về phê bình văn học cũng đã từng có những chỗ rất khác nhau. Nhưng
dù chưa phải đã có sự nhất quán trong các quan niệm, thì cũng không thể phủ
nhận rằng, phê bình văn học là một hoạt động tất yếu của mọi nền văn học.
Sản phẩm nghệ thuật ra đời, đồng thời cũng phải chịu sự phán xét của công
chúng tiếp nhận: hoặc khen hoặc chê. Thái độ đó không chỉ của bạn đọc nói
chung, mà quan trọng hơn, ở một lớp "độc giả đặc biệt", có sự am hiểu sâu
sắc về văn học, có quan điểm lí thuyết, có vốn văn hóa sâu rộng, đó là các nhà
phê bình văn học.
Đỗ Lai Thúy cho rằng, phê bình có thể hiểu theo nghĩa rộng, nghĩa
thông tục của ngôn ngữ thường nhật, hay nghĩa hẹp, nghĩa chuyên môn của
khoa học văn học. Theo nghĩa rộng, phê bình chỉ bất cứ sự khen chê, đánh giá
nào về một tác phẩm, một sự kiện văn học, từ một câu thơ câu văn cho đến
một sự nghiệp sáng tạo, một nền văn học. Nhưng phê bình văn học theo
nghĩa là một hoạt động chuyên môn thì chỉ xuất hiện khi nhân loại bước vào
thời đại mới, trước hết là ở châu Âu (đầu thế kỉ XIX) [39, tr.18-19]. Và cũng
chỉ phê bình hiểu theo nghĩa hẹp như vậy mới là một hoạt động vừa mang tính
khoa học, vừa mang tính nghệ thuật.
Tính khoa học của phê bình văn học thể hiện ở chỗ, nó có đối tượng
riêng, có phương pháp riêng. Đối tượng của phê bình văn học là trước hết là
tác phẩm - yếu tố trung tâm của hệ thống văn học. "Người ta có thể phê bình
8
một một tác giả, một hiện tượng văn học, thậm chí một thời đại văn học,
nhưng cơ sở của tất cả các phê bình trên vẫn là phê bình tác phẩm" [39, tr.25].
Từ lâu, tác phẩm văn học đã là đối tượng nghiên cứu của một số khoa
học xã hội và nhân văn. Tùy theo mục đích của mình, mỗi khoa học có hướng
tiếp cận riêng đối với tác phẩm văn học.
Cũng xem tác phẩm là đối tượng, nhưng phê bình văn học của thế giới
trước thế kỉ XX coi tác phẩm như là sự mô phỏng cuộc sống, như là bản sao
của thiên nhiên. Chỉ từ thế kỉ XX, tác phẩm mới thực sự là một tồn tại tự thân,
và do vậy, mới là đối tượng nghiên cứu thực sự của khoa học văn học, trong
đó có phê bình văn học. Và cũng từ đây, phê bình văn học phải có quan niệm
đầy đủ về tác phẩm văn học, trên cơ sở đó mới có thể xác định các phương
pháp phù hợp.
Tác phẩm văn học trước hết là một sáng tạo ngôn từ. Từ chất liệu có
sẵn là ngôn ngữ tự nhiên, nhà văn tạo nên tác phẩm. Một tác phẩm văn học
chỉ thực sự có sức sống tự thân khi nó là sản phẩm độc đáo, mang tính đơn
nhất, không lặp lại.
Tác phẩm văn học phải là một nghệ thuật. Nghĩa là nó có những thuộc
tính chung với những loại hình nghệ thuật mà con người đã tạo ra như âm
nhạc, hội họa, kiến trúc, điêu khắc, múa, sân khấu, điện ảnh. Đặc trưng chung
của nghệ thuật là tính thẩm mĩ, tính gợi cảm. Không tạo ra cái đẹp, không
được xem là nghệ thuật. Mặt khác, không có khả năng đánh thức cảm xúc của
con người cũng chưa phải là nghệ thuật.
Tính khoa học của phê bình văn học thể hiện ở các phương pháp mà nó
vận dụng. Trên tiến trình phát triển của mình, phê bình văn học đã từng được
biết đến với các phương pháp: phê bình ấn tượng chủ nghĩa, phê bình tiểu sử
học, phê bình văn hóa - lịch sử, phê bình xã hội học mác xít, phê bình phong
cách học, phê bình thi pháp học, phê bình phân tâm học, phê bình văn học từ
9
hệ thống văn hóa. Mỗi phương pháp phê bình ra đời đều gắn với hệ tư tưởng,
với những quan niệm triết mĩ, với lí thuyết. Thiếu lí thuyết, nhà phê bình - nói
theo cách Nguyễn Hưng Quốc - không khác gì người mù. Trong tiểu luận Ba
chức năng chính của phê bình, Nguyễn Hưng Quốc viết: "Các lý thuyết văn
học vừa tồn tại như một sự phê bình đối với bản thân ý niệm văn học vừa tồn
tại như một cương lĩnh để các nhà phê bình cũng như người đọc nói chung
theo đó tiến hành công tác phê bình các tác phẩm văn học. Trong cách nhìn
này, phê bình văn học và lý thuyết văn học có quan hệ mật thiết với nhau:
không có một lý thuyết văn học nào không được hình thành trước hết như một
cách phê bình đối với một lý thuyết, hoặc ít nhất, đối với một cách nhìn nào
đó về văn học; và không có một hành động phê bình nghiêm chỉnh nào lại
không dựa trên một cơ sở lý thuyết nhất định. Khi tính chất đa nguyên về văn
hoá và thẩm mỹ càng phát triển, các nhà phê bình càng đối diện với nhu cầu
tự chứng minh và bênh vực cho các luận điểm của mình, do đó, càng phải lún
sâu vào lý thuyết: ngay cả khi họ thực lòng không thích lý thuyết thì họ cũng
bị buộc phải lý thuyết hoá thái độ phản - lý thuyết của họ" [31].
Hiện nay, người ta chia phê bình thành phê bình báo chí và phê bình
học thuật. Dĩ nhiên, phê bình học thuật có tính khoa học cao hơn, có đóng góp
nhiều hơn cho sự phát triển của bản thân nền phê bình cũng như sự tác động
tích cực đến hoạt động sáng tạo của người nghệ sĩ.
Không chỉ có tính khoa học, phê bình văn học còn mang tinh nghệ
thuật. Điều này bị qui định trước hết ở đối tượng của phê bình: tác phẩm văn
học là một hiện tượng thẩm mĩ. Hành trình "thám mã", khám phá những giá
trị của tác phẩm văn học của nhà phê bình không chỉ trông cậy ở sự "thông
minh", sự sắc sảo của lí trí, ở hiệu năng của lí thuyết được vận dụng, mà còn ở
sự rung động của tâm hồn. Nhà phê bình Đỗ Lai Thúy quan niệm: "Nhà văn
và nhà phê bình đều đi trên một lộ trình, nhưng ngược chiều nhau: sáng tác đi
10
từ ý tưởng đến ngôn ngữ bằng con đường trực giác nghệ thuật, còn phê bình
đi ngược lại từ ngôn ngữ đến ý tưởng bằng con đường ý thức khoa học" [39,
tr.55]. Ông cũng "định lượng hóa" thao tác của nhà văn và của nhà phê bình:
"Nói một cách định lượng thô thiển thì, khi sáng tác, nhà văn sử dụng 70%
trực giác, xuất thần, cảm hứng và 30% ý thức, còn khi phê bình tác phẩm, nhà
phê bình lại sử dụng 70% ý thức và 30% trực giác" [39, tr.55]. Một "liều
lượng trực giác" mà nhà phê bình cần đến trong hoạt động của mình như vậy
là điều có ý nghĩa quyết định để anh ta có thể chỉ ra chỗ ẩn giấu của cái đẹp
cũng như giải thích về cái đẹp được khám phá.
Nhà phê bình có vị thế độc lập với người sáng tạo. Bởi thế, văn bản phê
bình tồn tại song song với văn bản nghệ thuật mà nó tìm hiểu, đánh giá. Ở chỗ
này, nhà phê bình cũng được xem là người sáng tạo. Nếu sáng tạo của nhà
văn dựa trên chất liệu đời sống, thì nhà phê bình sáng tạo trên vật liệu đặc thù:
tác phẩm của nhà văn. Nhà phê bình là một nhà văn. Tác phẩm phê bình là
một tác phẩm văn chương. Người ta gọi đây là phê bình nghệ sĩ. Phê bình là
một tác phẩm nghệ thuật, là sự tái kiến tạo một phong cách từ một phong cách
khác, là sự biến đổi ngôn ngữ thành một ngôn ngữ khác. Trong lịch sử phê
bình của chúng ta, Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh và Hoài Chân là ví dụ
điển hình của phê bình nghệ sĩ, và chính tác phẩm này đã đem đến cho độc
giả nhã hứng đặc biệt như đọc những vần Thơ mới vậy.
1.1.2. Ngôn ngữ phê bình văn học
1.1.2.1. Khái niệm ngôn ngữ văn học và ngôn ngữ phê bình văn học
Ngôn ngữ phê bình văn học là một bộ phận, một biểu hiện của ngôn
ngữ văn học (còn gọi là ngôn ngữ văn hóa, ngôn ngữ chuẩn, ngôn ngữ văn
chương [13, tr.311-312].
Theo Lại Nguyên Ân, ngôn ngữ văn học là dạng thức đã được chỉnh lí
của ngôn ngữ toàn dân, được những người dùng ngôn ngữ này coi là chuấn
11
mực. Theo nghĩa rộng, ngôn ngữ văn học là ngôn ngữ được dùng trong các
phương tiên thông tin đại chúng (báo chí, phát thanh, truyền hình, xuất bản
phẩm), nhà trường, sân khấu, khoa học, văn học (nghệ thuật ngôn từ, giấy tờ
quan phương, sự vụ... [1, tr.232].
Như vậy, ngôn ngữ văn học đối lập với ngôn ngữ thông tục, các
phương ngữ khu vực (của từng lãnh thổ), các phương ngữ xã hội (của từng
giới hẹp). Các chuẩn mực của ngôn ngữ văn học là chuẩn mực toàn dân,
nhằm mục đích chính là để toàn dân hiều được.
Ngôn ngữ văn học là là kết quả sự sáng tạo tập thể, là một trong những
thành tựu văn hóa chung của dân tộc sử dụng ngôn ngữ ấy. Phạm vi ứng dụng
quan trọng của nó chính là văn học (nghệ thuật ngôn từ). Tuy nhiên, không
nên nhầm lẫn giữa các khái niệm "ngôn ngữ văn học" (với nội hàm đã lí giải
trên đây) với "ngôn ngữ của văn học" (tức là ngôn từ nghệ thuật").
Ngôn ngữ văn học dưới dạng viết không chỉ được dùng trong văn học,
mà còn được dùng trong tác phẩm khoa học, báo chí, giấy tờ sự vụ; nó còn
được dùng dưới dạng nói, tức là lời hội thoại, nhất là ở các giao tiếp công
cộng và chính thống (quan phương). Ngôn ngữ được dùng ở các sáng tác văn
học không chỉ đóng khung trong phạm vi các chuẩn mực ngôn ngữ văn học;
các nhà văn còn sử dụng các thành phần ngôn ngữ thông tục, phương ngữ,
biệt ngữ (tiếng lóng) - từ là các thành phần không được coi là "ngôn ngữ văn
học".
Mỗi ngôn ngữ văn học phát triển phục vụ những phạm vi hoạt động
chính của tập thể nói bằng ngôn ngữ ấy. Tùy thuộc phạm vi hoạt động mà nó
có những dạng thức sau: Thứ nhất, ngôn từ hội thoại - dùng trong giao tiếp
bình thường, không gắn liền với đề tài chuyên biệt. Thứ hai, ngôn từ chuyên
môn - dùng trong khuôn khổ các đề tài có ranh giới chặt chẽ. Thứ ba, ngôn từ
nghệ thuật - dùng trong các sáng tác văn học; việc sử dụng ngôn ngữ ở đây
12
chủ yếu hướng tới chức năng thẩm mĩ. Ở các dạng thức hoạt động chức năng
cụ thể nêu trên, việc tổ chức văn bản được thực hiện theo những nguyên tắc
khác nhau.
Sự hình thành và phát triển của ngôn ngữ văn học gắn bó ở mức đáng
kể với sự phát triển của văn tự (chữ viết). Chính việc được ghi lại bằng văn tự
đã làm định hình các chuẩn mực chung của ngôn ngữ văn học, làm hình thành
tính bắt buộc và tính cố định tương đối của các chuẩn mực ấy. Tuy nhiên,
phần lớn các ngôn ngữ văn học hiện đại đều gồm cả dạng nói và dạng viết;
hơn thế, những đặc điểm khác biệt căn bản bên trong một ngôn ngữ lại gắn
không phải với dạng nói hay dạng viết mà là với dạng sách vở và dạng hội
thoại của ngôn ngữ văn học (ví dụ, các phát biểu trước công chúng thường
hướng tới ngôn từ sách vở, dù được bộc lộ ở dạng nói; trong khi đó, ở các văn
bản nghệ thuật lại có sự mô phỏng nhiều đặc điểm của ngôn ngữ hội thoại, dù
được ghi bằng văn tự. Người ta gọi đây ngôn ngữ sinh hoạt được tái hiện.
Ngôn ngữ văn học luôn luôn được phát triển và làm giàu, với điều kiện
thiết yếu cho hoạt động chức năng của ngôn ngữ là các chuẩn mực của nó
phải ổn định. Là thành tựu và sự phản ánh của văn hóa dân tộc, ngôn ngữ văn
học phải là nơi gìn giữ tất cả những gì có giá trị được biểu hiện bằng ngôn từ
đã được tạo ra bởi các thế hệ từng sử dụng ngôn ngữ ấy [1, tr.233].
Như vậy, ngôn ngữ văn học là khái niệm có sự bao hàm khá rộng các
loại diễn ngôn, mà phê bình văn học cũng chỉ là một dạng diễn ngôn trong đó.
Nói cách khác, ngôn ngữ phê bình văn học là một dạng thức của ngôn ngữ
văn học. Trong ngôn ngữ của nền quốc văn mới, lần đầu tiên, tiếng Việt có
một dạng thức ngôn ngữ mới, trước đó chưa từng biết đến. Với các ngôn ngữ
châu Âu, lối viết khảo luận phê bình đã có từ sớm, mà nguồn gốc là từ các tác
phẩm triết học, luận lí học, và sau đó là báo chí. Ở Việt Nam, báo chí chính là
cái nôi đầu tiên của ngôn ngữ phê bình. Từ báo chí, chúng mới dần dần thành
13
những chuyên khảo ở thập kỉ 30 của thế kỉ XX. "Sự có mặt của ngôn ngữ lí
luận phê bình đã có tác dụng rất tích cực trong việc làm thay đổi diện mạo
ngôn ngữ văn học ở nước ta. Nó cũng là một cái nền để ngôn ngữ văn học
mới có thêm nguồn lực mà phát triển" [35, tr.823-824].
1.1.2.2. Một số đặc điểm của ngôn ngữ phê bình văn học
Do đặc thù của thể loại và đối tượng tiếp cận, văn bản phê bình văn học
có sự kết hợp hài hoà giữa tính khoa học và tính nghệ thuật. Chính điều này
góp phần qui định những đặc điểm riêng của ngôn ngữ phê bình văn học.
a) Ngôn ngữ phê bình văn học trước hết phải có tính chính xác. Là một
bộ phận của khoa học xã hội và nhân văn, tính chính xác của phê bình văn
học dĩ nhiên có những sự khác biệt so với ngôn ngữ của khoa học tự nhiên,
nói cách khác, sự chính xác ở đây là có tính tương đối. Tính chính xác của
ngôn ngữ phê bình thể hiện ở các tri thức lí thuyết được trình bày hoặc vận
dụng; ở hệ thống thuật ngữ mà nó sử dụng để diễn đạt các nội dung khoa học;
ở sự trung thực trong trích dẫn ý kiến của người khác hoặc các dẫn từ các tác
phẩm... Chẳng hạn:
- "Trong một áng văn rất cổ xưa của Platon các nhà phê bình văn học
thời nay tìm thấy một định thức chuẩn xác về thực chất của cái công việc mà
họ đương làm. Đề cập đến những tiêu chuẩn của một công dân Hy Lạp có
học, Platon nhấn mạnh tầm quan trọng của việc am hiểu thơ ca, tức là “hiểu
được những gì mà các nhà thơ nói, phán định được cái gì hay và cái gì không
hay trong những trước tác của họ, biết phân tích những cái đó và giải thích,
nếu có ai hỏi" [9].
- "Ðối với nhà bình giải văn học thì văn chương là lĩnh vực độc lập, có
ý nghĩa và mục đích tự thân, "văn chương (chính) là văn chương". Nó có chức
năng sáng tạo ra cái đẹp, đem lại mĩ cảm cho độc giả, khiến họ "quên những
sự nhọc nhằn mà trong chốc lát hưởng những phút say sưa" (Hoài Thanh).
14
Như vậy, chức năng thanh lọc tâm hồn và giải trí được đề cao, các nhiệm vụ
giáo dục luân lí, đạo đức, nhận thức thế giới... bị coi nhẹ. Một tác phẩm văn
học vì thế - theo cách nói hình ảnh của Hoài Thanh - có thể chỉ cần làm một
bông hoa mà không nhất thiết phải thành quả" [9].
b) Ngôn ngữ phê bình văn học phải có tính chặt chẽ. Nếu sáng tác văn
học là sản phẩm của kiểu tư duy hình tượng, thì phê bình văn học lại là sản
phẩm của tư duy thiên về lô gic. Sức thuyết phục của văn bản phê bình phụ
thuộc vào "hàm lượng khoa học", ở những luận thuyết, ở các dẫn chứng minh
họa... Điều này được phản ánh rõ nét trong hình thức ngôn ngữ của văn bản
phê bình, ở đó, tính chặt chẽ thể hiện ở các kiểu lập luận, ở các thao tác phân
tích, giải thích, chứng minh... Ví dụ:
- "Hiện nay, phê bình lý thuyết rất được coi trọng. Hợp tuyển các công
trình phê bình nổi tiếng thế giới đều không thể vắng mặt những tên tuổi như
R. Jakobson[13], M. Bakhtin, R.Barthes, J. Derrida, M.Foucault, T. Adorno,
H.R. Jauss, W. Iser... Người ta yêu thích những tác giả có đóng góp về lý
thuyết, hoặc những công trình giàu sáng tạo lý thuyết. Có điều đáng lưu ý là
loại phê bình này không nhất thiết phải viết về những tác giả đương đại, mà
chủ yếu là những tác giả đã được khẳng định, kể cả những nhà văn tưởng như
đã “biết rồi, khổ lắm, nói mãi”, như Bakhtin về Dostoievski và Rabelais,
Barthes về Sarrasine của Balzac, không phải để “ăn mày dĩ vãng” mà cốt để
làm rõ hiệu quả của phương pháp mới trên một tác phẩm cũ tưởng đã cạn kiệt
thông tin. Như vậy, ở đây tính thời sự mà người ta vẫn coi như một thuộc tính
của phê bình cần phải được hiểu khác, rộng hơn: không chỉ phê bình các tác
phẩm đương đại, mà cả dùng lý thuyết và phương pháp hiện đại để phê bình
những tác phẩm quá khứ. Bởi, xét cho cùng, làm chết một tác phẩm sống và
làm sống một tác phẩm chết thì cũng như nhau" [39, tr.19].
15
- "Trong cái thứ lý tưởng văn học mà độc giả đại chúng giữ địa vị của
một ông chủ vô hình khổng lồ có quyền đòi hỏi được phục vụ và quyền thẩm
định giá trị, câu hỏi "viết cho ai?", từ ý nghĩa của một lời tự hỏi, càng lúc
càng hàm ý một sự đòi hỏi. Khi sự đòi hỏi không được đáp ứng, câu hỏi "viết
cho ai?" lại biến thành một lời ta thán. Là một lời ta thán, nó hàm chứa một
loạt những điều rất thú vị. Điều thú vị đầu tiên là dường như nó chỉ được nêu
lên vào những lúc có sự xuất hiện của những tác phẩm mới lạ"[43].
c) Tính biểu cảm là một đặc điểm khá nổi bật của ngôn ngữ phê bình.
Do đối tượng của phê bình văn học là tác phẩm văn học - biểu hiện của cái
đẹp, có sức lây lan cảm xúc, tạo mối đồng cảm ở người đọc, cho nên, nhà phê
bình hoàn toàn có thể bộc lộ những rung cảm của mình ở từng trang viết.
Người ta đã nói đến kiểu phê bình nghệ sĩ (nhà phê bình đồng thời là nhà văn,
tác phẩm phê bình đồng thời là tác phẩm văn chương, nghĩa là nó tác động
đến người đọc bằng tính biểu cảm). Ngay cả những nhà phê bình thuần túy,
chưa hề sáng tác văn thơ, cũng có thể viết nên những trang phê bình khiến
người đọc phải rung động. Hoài Thanh với Thi nhân Việt Nam là một trong
những trường hợp tiêu biểu. Lối viết phê bình kiểu ấn tượng của Hoài Thanh
đã tạo nên những trang viết giàu chất văn, đưa đến cho độc giả những khoái
thú, không khác gì được đọc những áng thơ văn giàu cảm xúc. Ví dụ:
- "Thơ Xuân Diệu còn là một nguồn sống rạt rào chưa từng thấy ở chốn
nước non lặng lẽ này. Xuân Diệu say đắm tình yêu, say đắm cảnh trời, sống
vội vàng cuống quýt, muốn tận hưởng cuộc đời ngắn ngủi của mình. Khi vui
cũng như khi buồn, người đều nồng nàn tha thiết" [37, tr.106].
- "Đời chúng ta nằm trong vòng chữ tôi. Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu.
nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu
trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế
Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu
16
không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn trở buồn trở
về hồn ta cùng Huy Cận" [37, tr.46-47].
Lúc mới bắt đầu viết phê bình, Nguyễn Hưng Quốc cũng rất mê lối văn
giàu cảm xúc này, và từng làm say mê nhiều độc giả bởi thứ văn phê bình rất
"điệu", chẳng hạn:
- "Làm thơ là một cách tỏ tình. Nói lớn hay nhỏ, dài hay ngắn, bổng
hay trầm, nào có quan trọng gì. Quan trọng là ở chỗ người mình yêu có chớp
mắt xúc động hay không. Nhà thơ lớn nào cũng đều là những tâm hồn lớn có
khả năng thu nhận và rung cảm trước những làn sóng vỗ từ xa, rất xa, ngoài
bản thân họ. Nhà thơ lớn là những hạt muối. Hạt muối nhỏ nhưng chất chứa
dồn nén trong mình tất cả những vị mặn chát của đại dương. Nhà thơ lớn là
những chiếc lá ngô đồng. Chiếc lá nhỏ hanh hao, bay bay trong gió thoi thóp
biết mấy nhưng lại mang trong mình tất cả tín hiệu của một mùa trời đất đang
đi" [33].
- "Nhà thơ là người sáng tạo ư? Không, tôi ngờ lắm. Từ xưa đến nay,
nhà thơ có mang lại điều gì mới mẻ đâu. Hắn là người, bằng sự nhạy bén
riêng của mình, phát hiện sâu sắc hơn ai hết những chất thơ đã vốn có, đã
bàng bạc, ẩn tàng, giấu khuất đâu đó trong vũ trụ, ở thiên nhiên, ở cuộc đời, ở
lòng người. Gió vẫn có đấy chứ, quen thuộc lắm mà, từ bao nhiêu đời rồi,
nhưng phải đợi đến lúc nhà thơ ra đời, nghiêng mình làm lá, gió mới cất thành
tiếng reo. Trăng vẫn có đấy chứ, từ xưa, trên cao, nhưng phải đợi đến lúc nhà
thơ xuất hiện, lặng mình làm một mặt nước hồ im, trăng mới lại hiện về, long
lanh hơn, huyền ảo hơn, ngay trên mặt đất, rất vừa tầm nhìn. Nhà thơ có sáng
tạo được gì đâu? Hắn chỉ là lá reo để đón gió, là hồ im để đón trăng, là cỏ
ngửa mặt để chờ sương. Hắn nắm bắt và giữ lại cho đời những chất thơ kín
đáo nhất, mong manh nhất, thoáng qua nhất" [33].
17
Thị hiểu người đọc ngày nay rất đa dạng. Không phải ai cũng thích lối
văn phê bình du dương, trầm bổng, ít tiết chế cảm xúc. Tuy nhiên, không phải
vì thế mà ngôn ngữ phê bình có thể khước từ tính biểu cảm. Vấn đề là ở "liều
lượng", ở cách sử dụng của người viết. Sự lạm dụng bao giờ cũng gây phản
cảm. Nhưng, nếu thể hiện cảm xúc đúng chỗ, bài phê bình dễ dàng chinh phục
người đọc không chỉ bởi "thấu lí" mà còn "đạt tình".
d) Ngôn ngữ phê bình văn học cũng biểu hiện tính cá thể của người
viết. Văn phê bình chưa bao giờ là "trung tính". Ngược lại, nó có thể giúp
người viết bộc lộ quan điểm, tư tưởng, vốn văn hóa, sở trường, tâm hồn của
mình - những yếu tố hình thành "khuôn mặt tinh thần của chủ thể". Ở văn bản
phê bình văn học, người ta không để cập đến "phong cách nghệ thuật" - vấn
đề thuộc địa hạt của văn sáng tác -, nhưng hoàn toàn có thể nói đến phong
cách phê bình, phong cách ngôn ngữ, chẳng hạn, kiểu phê bình "lấy hồn ta để
hiểu hồn người của Hoài Thanh, phê bình mà như viết tùy bút của Nguyễn
Tuân, phê bình bắt bẻ chữ nghĩa kiểu Vũ Ngọc Phan, giọng phê bình hăng
hái, hùng biện của Hải Triều... Như vậy, một khi đã gắn đời mình với nghiệp
cầm bút, không chỉ người sáng tác mà cả nhà phê bình cũng không thể giấu
mình. Dù đậm nhạt khác nhau, nhưng những nhân tố cá nhân sẽ lộ diện trên
từng trạng viết.
1.2. Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan trong bối cảnh phê bình
văn học giai đoạn 1930 - 1945
1.2.1. Diện mạo nền phê bình văn học trong văn học Việt Nam giai
đoạn 1930 – 1945
Giai đoạn 1930 - 1945, nền văn học Việt Nam có bước phát triển vượt
bậc. Bên cạnh thơ, tiểu thuyết, truyện ngắn, phóng sự,... phê bình văn học
cũng khởi sắc và gặt hái những thành tựu quan trọng.
18
Sự ra đời của phê bình ở Việt Nam phải kể đến những bài đầu tiên có
tính chất đặt nền móng như Văn minh tân học sách của Đông Kinh nghĩa
thục. Sau đó, trong vòng một thập kỉ, đã xuất hiện một loại bài, hoặc các cuốn
sách mang tính chất phê bình, khảo cứu rõ rệt hơn như Nghề hát bội của ta và
nghề diễn kịch của người châu Âu của Nguyễn Văn Vĩnh; Việt Nam phong
tục của Phan Kế Bính; Tâm lí Thúy Kiều, Thế nào gọi là kịch, Văn học Pháp,
bàn về tiểu thuyết của Phạm Quỳnh; Lời khuyên học trò của Nguyễn Bá Học;
Văn tiêu khiển và văn biện thuyết của Hoàng Tích Chu; Nam thi hợp tuyển và
Tục ngữ phong dao của Nguyễn Văn Ngọc, các bài bàn về quốc văn của Ngô
Đức Kế... [42, tr.650].
Từ đầu những năm 1930, khi văn học Việt Nam bắt đầu đi vào quĩ đạo
của nền văn học thề giới hiện đại, phê bình văn học với tư cách là một loại
riêng, đã bắt đầu được ý thức và được xác lập với những bài phê bình của
Thiếu Sơn trên báo Phụ Nữ Tân Văn, năm 1931 - 1932.
Đến năm 1933, khi tập hợp những bài phê bình đã đăng báo cùng với
những bài viết mới để in thành cuốn sách Phê bình và cảo luận, Thiếu Sơn lại
có một đề nghị: “Vậy là nước ta còn thiếu những nhà chuyên môn phê bình,
và sự thiếu đó tưởng cũng thiệt thòi cho văn học ít nhiều”. Như vậy, chỉ đến
giai đoạn này, phê bình văn học đã thực sự có chỗ đứng và công khai sự có
mặt của mình trên văn đàn, dù rằng trước kia chỉ xuất hiện dưới dạng nhỏ, lẻ,
đơn độc.
Giai đoạn 1930 - 1939 là khoảng thời gian bước đầu xác lập ý thức về
thể loại và nghề nghiệp phê bình, vì thế vấn đề nội tại mà phê bình văn học
giải quyết lại thiên về quan điểm văn học nói chung và quan điểm phê bình
văn học nói riêng, chứ chưa phải là vấn đề phương pháp kĩ thuật như giai
đoạn sau.
19
Bức tranh phê bình văn học giai đoạn này chủ yếu dựa vào phân mảng
báo chí. Có thể nói sự cộng sinh giữa báo chí và phê bình văn học giai đoạn
này là điều không thể chối cãi. Phê bình văn học sống được là nhờ in trên báo
chí và ngược lại, chính báo chí cũng thu hút được số lượng lớn độc giả từ nội
dung thông tin các bài phê bình văn học. Chính điều đó cũng tạo nên bức
tranh nhiều màu sắc sinh động cho nền văn học lúc bấy giờ.
Thông qua các cuộc tranh luận trên các tạp chí, các bài phê bình tác
phẩm, tác giả và bài tiểu luận, có thể thấy phê bình văn học giai đoạn này
được triển khai dưới tính chất bút chiến, đối thoại và tranh luận. Qua đó, phê
bình văn học đã hình thành được tính nhạy bén, tích cực trong việc xây dựng
một nền văn học hiện đại, bước theo sơ đồ của văn học phương Tây.
Giai đoạn này cũng xuất hiện hàng loạt các tác phẩm phê bình văn học
có giá trị
Như tác giả Phan Khôi với Phép làm văn, Luận về quốc học, Lối văn
học bình dân đã chỉ ra mối tương quan giữa văn học và xã hội. Năm 1933,
trong sinh hoạt văn học xuất hiện một loạt bài mang tính chất luận chiến với
những quan điểm mới lạ: quan điểm mác xít do Hải Triều khởi xướng: vấn đề
dân sinh, sự tiến hoá của văn học và sự tiến hoá của nhân sinh, ông Phan
Khôi không phải là học giả duy vật, ông Phan Khôi là một học giả duy tâm…
với sự kết hợp của Phan Văn Hùm và Tạ Thu Thâu theo phép biện chứng trên
các báo miền Nam. Nhưng cũng từ đó, bắt đầu xuất hiện những cuộc tranh
luận công khai: “Nghệ thuật vị nghệ thuật và nghệ thuật vị nhân sinh”, “Cuộc
tranh luận về Truyện Kiều”, “Cuộc tranh luận thơ cũ và thơ mới”, “Cuộc tranh
luận về tiểu thuyết của Cô giáo Minh và Đoạn tuyệt”, “Cuộc tranh luận về
tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng”,…
Chính trong thời điểm này, do tình hình xuất hiện nhiều sáng tác mới
trên nhiều phương diện thể loại, phương pháp và cả nội dung đã làm cho nền
20
phê bình văn học nước nhà phát triển cả về chất và lượng. Người ta đã chứng
kiến sự nhanh nhạy của báo chí và các cây bút phê bình cùng với sự tham gia
hào hứng của các công chúng văn học trước những thành tựu mang tính chất
mới mẻ độc đáo.
Bắt nguồn từ quan niệm sáng tác, tác phẩm của Vũ Trọng Phụng đã tạo
ra những cuộc tranh luận, thu hút dư luận mạnh mẽ một thời. Đó là ý kiến phủ
định của Thái Phỉ và Nhất Chi Mai khi đề cập đến tác phẩm Giông tố trên
khía cạnh đạo đức trong bài Văn chương dâm uế. Tuy thế, đây vẫn chỉ là sự
chỉ ra theo một hướng, chưa dựa vào những chứng cứ phân tích tác phẩm cụ
thể. Vũ Trọng Phụng trả lời bài báo bằng thái độ sắc sảo rõ ràng khi chỉ rõ lập
trường quan điểm sáng tác của chính bản thân và vạch ra khoảng cách giữa
các quan điểm sáng tác văn học, “rất muốn tìm những cái tốt đẹp, tử tế của
cuộc đời và đã ngây thơ đợi những cái tốt đẹp và tử tế ấy cho đến chết” (Lan
Khai). Rõ ràng, nghệ thuật và quan điểm sáng tác của Vũ Trọng Phụng đều
xuất phát từ lòng tin con người và đời sống. Trương Tửu nêu được những đặc
điểm tinh thần của nhà văn “Ông là đứa con trực tiếp của cuộc đời. Tài nghệ
của ông không bằng sự bắt chước. Nó làm bằng kinh nghiệm và nỗ lực cá
nhân,… được vậy là nhờ ở cái tính khí riêng, não trạng riêng, cái tài năng
riêng, cái xu thế sáng tạo riêng của ông, tất cả cái này bắt rễ ở cái vị trí của
ông, nó cắt đứt trong tâm hồn ông các tình cảm có họ hàng với chủ nghĩa lãng
mạn…”.
Như thế, đối với Vũ Trọng Phụng, phê bình giai đoạn này nói chung đã
chạm đến những nét cơ bản và đánh giá chính xác tài năng của nhà văn. Về
cuộc tranh luận, ý kiến của Nguyễn Hoành Khung là xác đáng. Ông cho rằng,
“đây là bài bút chiến sắc bén rất đáng chú ý, thực tế là bản tuyên ngôn nghệ
thuật bằng chính luận đầu tiên và cũng là duy nhất của trào lưu “tả thực” “vị
nhân sinh” tiến bộ khi đó. Cuộc bút chiến vượt khỏi tính chất một cuộc tranh
- Xem thêm -