MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Con người là chủ thể sáng tạo ra nền văn hóa – văn minh nhân loại, là động lực chủ
yếu thúc đẩy sự phát triển, tiến bộ xã hội. Trong xã hội hiện đại, con người được thừa
nhận là “nguồn lực của mọi nguồn lực” và là tài nguyên to lớn của mỗi quốc gia.
Hiện nay, cuộc cạnh tranh giữa các nước có nền kinh tế phát triển đang diễn ra gay
gắt. Trong cuộc cạnh tranh này, chiến thắng sẽ thuộc về quốc gia có nguồn lực con người
chất lượng cao, có khả năng sáng tạo và chiếm lĩnh đỉnh cao tri thức khoa học tiên tiến.
Sự thành bại của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia đang tùy thuộc
vào những bí quyết về đào tạo, sử dụng và phát huy nguồn lực con người.
Nhận thức rõ điều này, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: Nguồn lực con người
Việt Nam là vốn quí nhất trong điều kiện các nguồn lực khác của chúng ta còn hạn chế,
do đó “lấy việc phát triển nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh
và bền vững” được đặc biệt quan tâm. Vì thế, hơn bất cứ nguồn lực nào khác nguồn nhân
lực đang chiếm vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Đây là nguồn
lực của mọi nguồn lực, là nhân tố quan trọng bật nhấc để đưa đất nước trở thành một
nước công nghiệp.
Trong lịch sử cách mạng Việt Nam, tất cả những thành công của cách mạng nước ta
đều có sự đóng góp tích cực của mỗi con người, mỗi cộng đồng người, trong đó có đồng
bào dân tộc thiểu số nói chung. Trà Vinh là một trong những tỉnh có đông đồng bào
Khmer sinh sống. Trên thực tế, nguồn lực người dân tộc Khmer ở Trà Vinh là đông về số
lượng nhưng hạn chế về chất lượng.
Vì thế, nguồn lực này vẫn chưa được khai thác và sử dụng có hiệu quả, chưa chuyển
hóa thành nội lực cho sự phát triển nhanh và bền vững, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn
trong quá trình đổi mới của tỉnh. Đây là vấn đề cần được tìm hiểu một cách cụ thể, vì nó là
một trong những nguyên nhân làm chậm quá trình phát triển kinh tế - xã hội của Trà Vinh.
Trong bối cảnh đó, việc đánh giá đúng thực trạng vấn đề phát triển nguồn nhân lực
dân tộc Khmer ở tỉnh Trà Vinh, để xây dựng giải pháp nhằm khai thác, bồi dưỡng và phát
1
triển nguồn lực này, tạo điều kiện thuận lợi để nguồn lực này tham gia vào sự phát triển
chung của tỉnh Trà Vinh, đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế - xã hội là vấn đề cấp thiết,
có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
Chính vì tính cấp thiết đó, tác giả chọn: “Phát triển nguồn nhân lực dân tộc
Khmer tỉnh Trà Vinh hiện nay” làm đề tài nghiên cứu luận văn của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu
Nghiên cứu về nguồn nhân lực nói chung và nguồn nhân lực đồng bào dân tộc Khmer
luôn thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu ở nhiều cấp độ khác nhau và đạt được những
kết quả đáng trân trọng. Luận văn xin nêu lên một số tài liệu đáng chú ý liên quan đến đề tài.
Nhóm nghiên cứu thứ nhất, nghiên cứu về nguồn nhân lực và vai trò của nguồn nhân
lực trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước. Có một số công trình nghiên
cứu như:“Phát triển nguồn nhân lực để công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” của Phan
Thanh Phố - An Như Hải (tạp chí kinh tế và phát triển số 3/1995); “Nguồn nhân lực, động
lực của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” của Nguyễn Thế Nghĩa (tạp chí Triết học
số 1/1996); Luận án tiến sĩ: “Phát huy nguồn lực thanh niên trong sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Thị Tú Oanh,1999; Luận án tiến
sĩ: “Nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” của tác
giả Đoàn Văn Khái, 2000; "Nguồn lực trí tuệ trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam" của tác
giả TS. Bùi Thị Ngọc Lan, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002. Luận văn thạc sĩ: “Phát
triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh
Quảng Ninh hiện nay” của tác giả Vũ Thị Phương Mai, 2004. Nhìn chung, các tác giả đã đi
sâu nghiên cứu làm rõ các vấn đề về nguồn nhân lực và vai trò của những nguồn lực trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Qua phân tích thực trạng, các tác giả đã đề xuất nhiều
giải pháp để phát huy, phát triển nguồn lực này trong thời gian tới.
Nhóm nghiên cứu thứ hai, các công trình nghiên cứu những vấn đề liên quan đến
nguồn nhân lực nhưng chỉ khảo sát nhóm người dân tộc thiểu số. Có một số công trình
tiêu biểu như: “Vấn đề dân số và nguồn nhân lực vùng dân tộc thiểu số ở nước ta” của
Nguyễn Thế Huệ, Tạp chí Cộng sản 2004; “Chính sách dân tộc đã thực sự đi vào cuộc
2
sống đồng bào các dân tộc thiểu số ở Kon Tum” của Nguyễn Thanh Cao, Tạp chí Tư
tưởng văn hóa, 2004;“Đặc điểm nguồn nhân lực dân tộc thiểu số Việt Nam: Bằng chứng
thu thập từ các cuộc điều tra hộ gia đình dân tộc thiểu số năm 2009 tại 11 tỉnh” của
PGS.TS Nguyễn Đăng Thành (chủ biên), Nxb lao động xã hội, Hà Nội, 2010..... Các bài
viết này bước đầu đề cập đến các vấn đề cấp bách hiện nay như giáo dục - đào tạo, việc
làm cho đồng bào dân tộc thiểu số.
Nhóm nghiên cứu thứ ba, nghiên cứu liên quan đến nguồn nhân lực dân tộc Khmer
ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Một số công trình nghiên cứu liên quan đến nguồn lực
dân tộc Khmer “Phát triển nguồn nhân lực dân tộc thiểu số: Một số giải pháp xây dựng
đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số các “xã đặc biệt khó khăn” vùng đồng bằng sông Cửu
Long” của Đoàn Minh Huấn, Tạp chí lý luận của Ủy ban dân tộc, 2009; “Một số vấn đề
cấp bách trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của người Khmer ở Đồng bằng
sông Cửu Long” của Vũ Văn Sen, Tạp chí phát triển Khoa học và công nghệ, 2011.
Tóm lại, vấn đề nguồn nhân lực nói chung và nguồn nhân lực dân tộc Khmer nói
riêng đã được rất nhiều tác giả nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau, các tác giả tập
trung nghiên cứu vai trò của nguồn nhân lực đối với sự phát triển chung của xã hội. Song
cho đến nay vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu đến việc phát triển nguồn nhân lực
dân tộc Khmer nói chung và phát triển nguồn nhân lực dân tộc Khmer ở tỉnh Trà Vinh
nói riêng, vấn đề này còn là một khoảng trống cần được nghiên cứu. Vì thế, tác giả chọn
đề tài “Phát triển nguồn nhân lực dân tộc Khmer ở tỉnh Trà Vinh hiện nay” là sự kế thừa
một số thành tựu của những người đi trước về vấn đề nguồn nhân lực và tầm quan trọng
của nguồn lực này, đồng thời bước đầu tìm hiểu những thành tựu cũng như hạn chế và
nguyên nhân của việc phát triển nguồn nhân lực dân tộc Khmer ở tỉnh Trà Vinh hiện nay.
3
3. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích thực trạng phát triển nguồn nhân lực dân tộc Khmer ở tỉnh
Trà Vinh hiện nay, luận văn đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực này
trong giai đoạn hiện nay.
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
- Khách thể nghiên cứu: Người dân tộc Khmer tỉnh Trà Vinh
- Đối tượng: Đối tượng nghiên cứu của luận văn là phát triển nguồn nhân lực dân
tộc Khmer ở tỉnh Trà Vinh hiện nay
5. Giả thuyết khoa học
Nguồn nhân lực nói chung và nguồn nhân lực dân tộc Khmer nói riêng có vai
trò quan trọng đối với sự phát triển của đất nước. Nguồn nhân lực dân tộc Khmer ở tỉnh
Trà Vinh có những đặc trưng riêng đóng góp rất lớn cho sự phát triển kinh tế, xã hội của
tỉnh. Tuy nhiên do nhiều yếu tố tác động như: chính sách của Đảng và Nhà nước, trình độ
văn hóa, chuyên môn kỹ thuật, kế hoạch phát triển dân số,…có ảnh hưởng rất lớn đến sự
phát triển của nguồn nhân lực dân tộc Khmer ở tỉnh Trà Vinh hiện nay.
Nếu thực hiện thành công đề tài góp phần làm rõ bản chất của nguồn nhân lực và
có bước đầu đề xuất những giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực dân tộc Khmer ở
tỉnh Trà Vinh hiện nay.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích nêu trên, luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ sau đây:
- Phân tích lý luận về nguồn nhân lực, phát triển nguồn nhân lực và nhân tố tác
động đến sự phát triển nguồn nhân lực dân tộc Khmer tỉnh Trà Vinh.
- Khảo sát thực trạng phát triển nguồn nhân lực dân tộc Khmer tỉnh Trà Vinh hiện nay.
- Kiến nghị những giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực dân tộc Khmer tỉnh
Trà Vinh trong giai đoạn hiện nay.
4
7. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu về sự phát triển nguồn nhân lực dân tộc Khmer chủ yếu là ở
tỉnh Trà Vinh. Trong đó, việc khảo sát thực trạng để nhận thức mặt tích cực, mặt hạn chế trong việc
phát triển nguồn nhân lực dân tộc Khmer tỉnh Trà Vinh được tập trung giai đoạn từ 2010-2016.
8. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận của Chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa
duy vật biện chứng, kết hợp với các phương pháp khác như phân tích, tổng hợp, thống
kê… để làm rõ nội dung của luận văn.
9. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn có 2 chương, 4 tiết.
10. Những luận điểm cơ bản và đóng góp mới của luận văn
10.1 Những luận điểm cơ bản
Nguồn nhân lực có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của toàn xã hội, đặc biệt trong
giai đoạn hiện nay khi Việt Nam thực hiện tiến trình đổi mới đất nước.
Phát triển nguồn nhân lực dân tộc Khmer là một yêu cầu cấp thiết trong điều kiện hiện nay.
Để phát triển nguồn nhân lực dân tộc Khmer cần tìm được nguyên nhân của những
hạn chế ảnh hưởng đến việc phát triển của nguồn lực nói trên.
10.2 Đóng góp mới của luận văn
- Về lý luận : Phân tích nhân tố tác động đến sự phát triển nguồn nhân lực dân
tộc Khmer tỉnh Trà Vinh; đánh giá thực trạng phát triển nguồn nhân lực dân tộc Khmer
tỉnh Trà Vinh hiện nay; đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực dân tộc
Khmer tỉnh Trà Vinh trong giai đoạn hiện nay.
- Về thực tiễn : Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng
dạy nguồn nhân lực ở các trường đào tạo cán bộ, các cơ quan chức năng của tỉnh. Dùng
làm tài liệu cho các cấp lãnh đạo của tỉnh trong việc chỉ đạo thực tiễn, đồng thời làm tài
5
liệu tham khảo cho các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long có người dân tộc Khmer
sinh sống khi đề xuất những giải pháp phát triển nguồn lực người dân tộc Khmer nhằm
tạo động lực thúc đẩy xã hội phát triển.
6
Chương 1
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC PHÁT TRIỂN
NGUỒN NHÂN LỰC DÂN TỘC KHMER TỈNH TRÀ VINH HIỆN NAY
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
- Nguồn nhân lực
Trong thời đại ngày nay, để phát triển nhanh và bền vững các quốc gia trên thế giới
cần xác định đúng và huy động có hiệu quả mọi nguồn lực. Căn cứ vào những tiêu chí
khác nhau, nguồn lực được phân loại gồm: Nguồn nhân lực, tài nguyên thiên nhiên, vị trí
địa lý, nguồn vốn...Những nguồn lực này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và cùng tham
gia vào quá trình cải biến tự nhiên và xã hội với những tác động và vai trò của chúng
không giống nhau trong sự phát triển của kinh tế- xã hội. Trong tổng hợp các nguồn lực,
nguồn nhân lực được xác định là quan trọng nhất, bởi vì con người là nhân tố cơ bản
trong hệ thống các nhân tố vận động hợp thành nhân tố xã hội, đóng vai trò là hạt nhân
động lực, là chủ thể của sự phát triển của xã hội, và theo V.L. Lênin đó là “yếu tố hàng
đầu của lực lượng sản xuất” [46, tr.430]. Mặt khác, chỉ có thông qua hoạt động của chủ
thể con người thì các nguồn lực khác mới phát huy được tác dụng, mới có thể biến tiềm
năng thành hiện thực. C.Mác đã chỉ rõ, muốn nâng cao sản xuất trong lĩnh vực công
nghiệp và nông nghiệp lên đến mức độ cao mà chỉ có phương tiện cơ giới, hóa học phụ
trợ thì không đủ. Còn cần phải phát triển một cách tương xứng năng lực của chính con
người sử dụng những phương tiện đó nữa. Diện mạo của xã hội loài người ngày càng
thay đổi theo hướng tích cực chính là do con người biết khơi dậy và phát huy tổng hợp
các nguồn lực. Chính con người phát hiện và sáng tạo ra nguồn lực mới phát triển và phát
huy nguồn lực tinh thần và sử dụng nó để phục vụ con người.
Nguồn nhân lực hay nguồn lực con người được hình thành trong quá trình nghiên
cứu, xem xét con người với tư cách là một nguồn lực, là động lực của sự phát triển.
Trong nhiều thập kỷ trở lại đây, vấn đề nguồn nhân lực đã được các nhà khoa học Việt
7
Nam cũng như của nhiều quốc gia khác trên thế giới quan tâm. Các công trình nghiên cứu
ở trong và ngoài nước gần đây cho thấy khái niệm nguồn nhân lực được đề cập đến khá
đa dạng với nhiều góc độ tiếp cận khác nhau.
Theo định nghĩa của tổ chức Liên Hợp Quốc: Nguồn nhân lực là trình độ lành
nghề, là kiến thức và năng lực của toàn bộ cuộc sống con người hiện có thực tế hoặc
tiềm năng để phát triển kinh tế - xã hội trong một cộng đồng. Với cách tiếp cận này, về
nguồn nhân lực có những đòi hỏi về trình độ cũng như năng lực để thực sự trở thành
đơn vị cấu thành chất xám trong trong kết quả sản xuất và hoạt động của xã hội. Như
vậy, nguồn nhân lực không chỉ ở số lượng mà còn ở chất lượng.
Theo Giáo sư kinh tế học David Begg: Nguồn nhân lực là toàn bộ quá trình
chuyên môn mà con người tích lũy được, nó được đánh giá cao về tiềm năng đem lại thu
nhập trong tương lai. Cũng giống như nguồn lực vật chất, nguồn nhân lực là kết quả đầu
tư trong quá khứ với mục đích đem lại thu nhập trong tương lai.
Trong lý luận về “vốn”, con người được đề cập đến như một loại vốn, “vốn người”,
“tư bản người”, của quá trình sản xuất một thành tố cơ bản, tất yếu của quá trình sản xuất
và kinh doanh. Từ phương thức tiếp cận này, Ngân hàng thế giới cho rằng: Nguồn nhân
lực được hiểu là toàn bộ vốn người ( thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp) mà mỗi cá
nhân sở hữu, có thể huy động được trong quá trình sản xuất kinh doanh hay một hoạt
động nào đó. Ở đây, nguồn nhân lực được xem là một nguồn vốn bên cạnh các loại vốn
vật chất khác như tiền, tài nguyên thiên nhiên...Đầu tư cho con người giữ vị trí trung tâm
các loại đầu tư và được coi là cơ sở chắc chắn cho sự phát triển bền vững.
Ở Việt Nam khái niệm nguồn nhân lực được sử dụng tương đối rộng rãi ở những
năm 90 của thế kỷ XX. Tuy nhiên, trong những tự điển Việt Nam hay tự điển Bách khoa,
khái niệm nguồn nhân lực vẫn chưa được định nghĩa. Dù vậy, các nhà khoa học Việt
Nam cũng đã nêu ra nhiều quan niệm khác nhau về nguồn nhân lực. Các tác giả Phạm
Văn Thái, Nguyễn văn Dương cho rằng: Nguồn nhân lực là toàn bộ những dấu hiệu riêng
có, là những yếu tố, những mặt nói lên vai trò của con người như là chủ thể các hoạt động
trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Giáo sư, tiến sĩ Hoàng Chí Bảo quan niệm nguồn
8
nhân lực với tư cách là một phạm trù triết học xã hội nói lên vai trò, vị trí và ảnh hưởng
của con người trong hoạt động thực tiễn để thay đổi thế giới hiện thực, đồng thời khẳng
định những sức mạnh tiềm tàng của bản thân con người trong quá trình phát triển và hoàn
thiện bản chất xã hội của nó. Từ cách tiếp cận đó, Giáo sư, tiến sĩ Hoàng Chí Bảo khẳng
định: “Nguồn nhân lực là sự kết hợp thể lực và trí lực, cho thấy khả năng sáng tạo, chất
lượng hiệu quả hoạt động và triển vọng mới phát triển của con người” [1, tr.13-17].
Ngoài hai tố chất thể lực và trí lực, theo tác giả “ cái làm nên nguồn nhân lực là kinh
nghiệm sống, đặc biệt là những kinh nghiệm nếm trải trực tiếp của con người, là nhu cầu
và thói quen vận dụng tổng hợp tri thức và kinh nghiệm của mình, của cộng đồng vào
việc tìm tòi sáng tạo” [1, tr.14].
Một số nhà khoa học tham gia chương trình khoa học – công nghệ cấp nhà nước:
Con người Việt Nam mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế- xã hội mang mã số
KX-07 do Giáo sư, viện sỹ Phạm Minh Hạc làm chủ nhiệm, cho rằng: Trong chuỗi các
yếu tố tạo nên sự phát triển kinh tế -xã hội, yếu tố con người- nguồn nhân lực giữ vai trò
trung tâm, giữ vai trò quyết định. Theo Giáo sư, viện sỹ Phạm Minh Hạc : “Nguồn lực
con người được hiểu là dân số và chất lượng con người, bao gồm cả thể chất và tinh thần,
sức khỏe và trí tuệ, năng lực và phẩm chất” [29, tr.328].
Theo tiến sĩ Nguyễn Hữu Dũng: Nguồn nhân lực được xem xét dưới hai góc độ
năng lực xã hội và tính năng động xã hội. Ở góc độ thứ nhất, nguồn nhân lực là nguồn
cung cấp sức lao động cho xã hội, là bộ phận quan trọng nhất của dân số, có khả năng tạo
ra giá trị vật chất và tinh thần cho xã hội. Xem xét nguồn nhân lực dưới dạng tiềm năng
giúp định hướng phát triển nguồn nhân lực để đảm bảo không ngừng nâng cao năng lực
xã hội của nguồn nhân lực thông qua giáo dục đào tạo, chăm sóc sức khỏe. Tuy nhiên,
nếu dừng lại ở dạng tiềm năng thì chưa đủ. Muốn phát huy tiềm năng đó phải chuyển
nguồn nhân lực sang trạng thái động thành vốn năng lực, tức là nâng cao tính năng động
xã hội của con người thông qua các chính sách, thể chế và giải phóng triệt để tiềm năng
con người. Con người với tiềm năng vô tận, nếu được tự do phát triển, tự do sáng tạo và
cống hiến, được trả đúng giá trị lao động thì tiềm năng vô tận đó được khai thác, phát huy
9
trở thành nguồn vốn vô cùng to lớn. Nguồn nhân lực là tổng thể các tiềm năng lao động
của một tổ chức, một địa phương, một quốc gia trong thể thống nhất hữu cơ năng lực xã
hội (thể lực, trí lực, nhân cách) và tính năng động xã hội của con người thuộc các nhóm
đó, nhờ tính thống nhất mà nguồn lực con người biến thành nguồn vốn con người đáp
ứng yêu cầu phát triển. Nguồn nhân lực theo cách tiếp cận mới, có nội hàm rộng rãi bao
gồm các yếu tố cấu thành về số lượng, tri thức, khả năng nhận thức và tiếp thu kiến thức,
tính năng động xã hội, sức sáng tạo, truyền thống lịch sử văn hóa.
Như vậy, các khái niệm trên cho thấy nguồn nhân lực không chỉ đơn thuần là lực
lượng lao động đã có và sẽ có, mà còn bao gồm sức mạnh của thể chất, trí tuệ, tinh thần
của các cá nhân trong một cộng đồng, một quốc gia được đem ra hoặc có khả năng đem
ra sử dụng vào quá trình phát triển xã hội. Khái niệm “nguồn nhân lực” (Human
Resources) được hiểu như khái niệm “nguồn lực con người”. Khi được sử dụng như một
công cụ điều hành, thực thi chiến lược phát triển kinh tế- xã hội, nguồn nhân lực bao gồm
bộ phận dân số trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động và những người ngoài độ
tuổi lao động có tham gia lao động- hay còn được gọi là nguồn lao động. Bộ phận của
nguồn lao động gồm toàn bộ những người từ độ tuổi lao động trở lên có khả năng và nhu
cầu lao động được gọi là lực lượng lao động. Do xem xét dưới các góc độ khác nhau, có
thể có những khái niệm khác nhau về nguồn nhân lực nhưng những khái niệm này đều
thống nhất nội dung cơ bản: nguồn nhân lực là nguồn cung cấp sức lao động cho xã hội.
Con người với tư cách là yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất giữ vị trí hàng đầu, là
nguồn lực cơ bản và nguồn lực vô tận của sự phát triển không thể chỉ được xem xét đơn
thuần ở góc độ số lượng hay chất lượng mà là sự tổng hợp của cả số lượng và chất lượng;
không chỉ là bộ phận dân số trong độ tuổi lao động mà là các thế hệ con người với những
tiềm năng sức mạnh trong cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội.
Từ sự phân tích trên có thể hiểu: Nguồn nhân lực là tổng thể số lượng và chất lượng
con người với tổng hòa các tiêu chí về trí lực, thể lực và những phẩm chất đạo đức- tinh
thần tạo nên năng lực mà bản thân con người và xã hội đã, đang và sẽ huy động vào quá
trình lao động sáng tạo vì sự phát triển và tiến bộ xã hội.
10
Trên cơ sở những quan điểm đã trình bày của những nhà khoa học trong và ngoài
nước cho thấy, khi nghiên cứu về “nguồn nhân lực” cần tập trung một số điểm sau:
Thứ nhất, không thể đồng nhất nguồn nhân lực với những nguồn lực khác như nguồn
lực về kỹ thuật, nguồn lực tự nhiên.... Tức là không thể coi nguồn nhân lực như là yếu tố
đương nhiên, có sẵn trong quá trình sản xuất và chỉ cần khai thác sao cho có hiệu quả nhất
mà không chú ý đến việc chăm sóc, bồi dưỡng và phát triển. Theo tính nhân văn của triết học
Mác, mọi sự phát triển không chỉ là do con người mà chủ yếu là vì con người.
Thứ hai, không thể tách rời nguồn nhân lực ra khỏi hoạt động thực tiễn. Bởi vì, chỉ
có thông qua hoạt động con người mới thể hiện như một động lực của sự phát triển.
Thứ ba, xem xét nguồn nhân lực theo quan điểm toàn diện, nhưng biểu hiện tập
trung nhất của nó vẫn là năng lực hoạt động thực tiễn mà cơ bản nhất là hoạt động sản
xuất vật chất. Việc xem xét nguồn nhân lực phải gắn với sản xuất và phát triển lực lượng
sản xuất. Do vậy, nội dung cấu thành nguồn nhân lực phải bao gồm những tiêu chí về số
lượng và chất lượng của dân số và lao động, thể hiện khả năng của con người, cộng đồng
người trong một hoàn cảnh xã hội-lịch sử nhất định.
Xét về nội dung, nguồn nhân lực là phạm trù không những được dùng để phân
biệt chủ thể “người” trong quan hệ với khách thể “giới tự nhiên” mà còn dùng để
khẳng định vai trò của yếu tố người trong các lĩnh vực kinh tế, kỹ thuật, chính trị - xã
hội. Đặc trưng của nguồn nhân lực được thể hiện rõ nhất trong lao động. Phẩm chất
độc đáo của nguồn nhân lực, đó là tính sáng tạo gắn với sự phát triển không ngừng
tiềm năng trí tuệ của con người.
- Phát triển nguồn nhân lực
Phát triển nguồn nhân lực là khái niệm được hình thành và phát triển từ những năm
70 của thế kỷ trước, dựa trên quan điểm mới của Liên hợp quốc về phát triển và vị trí con
người trong phát triển. Hiện nay, có những cách tiếp cận khác nhau, nên khái niệm phát
triển nguồn nhân lực được phân tích với những cách hiểu khác nhau.
11
Đối với tổ chức Liên hợp quốc, thuật ngữ “phát triển nguồn nhân lực” được dùng
theo nghĩa rộng bao gồm giáo dục, đào tạo và sử dụng tiềm năng con người nhằm thúc
đẩy phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống.
Theo tổ chức giáo dục, khoa học và văn hóa của Liên hợp quốc ( UNESCO), khái
niệm phát triển nguồn nhân lực được hiểu theo nghĩa hẹp. UNESCO cho rằng, phát triển
nguồn nhân lực là làm cho toàn bộ sự lành nghề của dân cư luôn luôn phù hợp trong mối
quan hệ với yêu cầu phát triển của đất nước.
Ra đời vào năm 1919 là thành viên của Hội Quốc liên - Tổ chức Lao động quốc tế (ILO)
cho rằng: phát triển nguồn nhân lực không chỉ là sự chiếm lĩnh trình độ lành nghề hoặc vấn đề
đào tạo nói chung, mà còn là sự phát triển năng lực và sử dụng năng lực đó của con người để
tiến tới có việc làm hiệu quả, cũng như thoả mãn nghề nghiệp và cuộc sống cá nhân.
Xem xét những cách tiếp cận trên, cho thấy cách hiểu của Liên hiệp quốc bao quát
hơn và nhấn mạnh đến khía cạnh xã hội của vấn đề, bởi nguồn nhân lực là nhân tố cơ bản
trong hệ thống các nhân tố vận động hợp thành xã hội. Nguồn nhân lực vừa là yếu tố của
sản xuất, của tăng trưởng kinh tế vừa là mục tiêu của phát triển. Cách tiếp cận này xuất
phát từ lý thuyết mới về phát triển con người, trong đó phát triển nguồn nhân lực thuộc
phạm trù phát triển con người. Theo PGS. TS Nguyễn Văn Huyên, muốn xây dựng và
phát triển con người theo tinh thần nhân văn thì phải nhận thức đúng về bản tính và khả
năng vốn có của con người. Lịch sử phát triển xã hội cho thấy, bản tính và khả năng vốn
có của con người luôn vượt qua những giới hạn và tìm cách chiếm lĩnh những đỉnh cao
mới trong quá trình vươn lên không ngừng trong cuộc sống. Phát triển con người, là tạo
điều kiện cho con người phát huy được tối đa năng lực chiếm lĩnh những đỉnh cao. Để
phát triển con người theo hướng đó, cần có một quan niệm đúng đắn rằng, con người cần
phát triển năng lực người của mình.
Thuật ngữ “phát triển con người” được dùng từ rất lâu, với nhiều ngôn ngữ khác
nhau. Nhưng mãi đến năm 1990, thuật ngữ này mới xuất hiện trong báo cáo về phát triển
con người được Chương trình phát triển của Liên hợp quốc công bố. Theo chương trình
phát triển của Liên hợp quốc: “Của cải đích thực của một quốc gia là con người của quốc
12
gia đó. Mục đích của phát triển là để tạo ra một môi trường thuận lợi cho phép con người
được hưởng cuộc sống lâu dài khỏe mạnh và sáng tạo” [30, tr 140]. Phát triển con người
là làm cho mỗi cá nhân con người ngày càng trở nên cường tráng về thể lực và dồi dào về
trí tuệ để có thể tạo ra nhiều của cải vật chất và tinh thần làm nguồn lực phát triển xã hội.
Vậy, phát triển con người là quan điểm về phát triển, trong đó lấy con người làm trung
tâm. Đó là, phát triển của con người, vì con người và do con người. Phát triển con người
là đầu tư vào phát triển tiềm năng của con người như giáo dục, y tế, kỹ năng...để con
người có thể làm việc một cách sáng tạo và có năng suất cao nhất.
Từ sự phân tích trên, cho thấy theo quan điểm của Liên hợp quốc, thuật ngữ phát
triển con người nhấn mạnh đến mục tiêu hơn là phương tiện của sự phát triển. Với quan
điểm, phát triển nguồn nhân lực là các hoạt động đầu tư nhằm tạo ra nguồn nhân lực với
số lượng và chất lượng đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đồng
thời đảm bảo sự phát triển của mỗi cá nhân. Điều này, cho thấy mục tiêu của sự phát triển
không chỉ là phát triển xã hội mà chính là sự phát triển con người. Trong một xã hội hiện
đại, sự phát triển của xã hội đó không có nghĩa đi theo đó là sự phát triển của con người.
Thực tế, ở nhiều nước trên thế giới hiện nay cho thấy, xã hội phát triển cao nhưng con
người lại bị quên lãng, không được quan tâm. Ở những nước này diễn ra nghịch lý: GDP
tăng nhưng tình trạng không có việc làm và đói nghèo cũng tăng lên, khoa học và công
nghệ tiến bộ nhưng thất học và dốt nát trở nên phổ biến, tiện nghi vật chất xã hội hiện đại
hơn nhưng quyền con người lại bị vi phạm nhiều hơn. Nói đến điều này, cách đây hai thể
kỷ nhà Chủ nghĩa xã hội không tưởng Charles Fourier (1772-1837) đã chỉ ra rằng: Trong
xã hội tư bản “sự nghèo khổ được sinh ra từ chính sự thừa thãi”. Trong tác phẩm “Tuyên
ngôn của Đảng Cộng sản”, một tác phẩm bất hủ trong di sản văn hóa nhân loại, ở đó quan
điểm về phát triển con người đã được C. Mác và Ph. Ăngghen đề cập đến: “sự phát
triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do cho tất cả mọi người”
[57, tr 628]. Tư tưởng này đã trở thành tư tưởng chủ đạo của thời đại ngày nay.
Con người được phát triển tự do thì trước hết là tự do cho người lao động. Mỗi cá
nhân người lao động phải có tính độc lập và có tính sáng tạo trong hoạt động sản xuất,
13
làm cho mỗi người lao động trở thành đơn vị chủ thể trong nguồn nhân lực- nguồn quyết
định tạo ra sản phẩm, chất lượng, hiệu quả lao động.
Như vậy, mục đích thật sự của sự phát triển là cần phải tạo ra một môi trường đảm
bảo cho con người phát huy khả năng sáng tạo, được hưởng một cuộc sống khỏe mạnh,
được học hành và trường thọ, các quyền tự do chính trị, quyền con người và cá nhân
được bảo đảm. Quan điểm phát triển con người như vậy hoàn toàn phù hợp với quan
điểm của Chủ nghĩa Mác- Lênin về phát triển con người toàn diện. Đó là làm cho con
người được trở về với bản tính tự do của mình bằng cách thủ tiêu sự tha hóa về nhân
cách. Con người phải được phát triển toàn bộ các năng khiếu, thể lực và trí lực. Nhờ phát
triển toàn diện, con người làm chủ được thiên nhiên, làm chủ chính bản thân, tức trở
thành con người tự do.
Hiện nay, ở Việt Nam thuật ngữ phát triển nguồn nhân lực, được các nhà khoa học
trong nước sử dụng nhiều trong các công trình nghiên cứu dưới giác độ khác nhau.
Theo Giáo sư, viện sỹ Phạm Minh Hạc: Phát triển nguồn nhân lực được hiểu về cơ
bản là gia tăng giá trị cho con người trên các mặt như đạo đức, trí tuệ, kỹ năng, tâm hồn,
thể lực,...làm cho con người trở thành những người lao động có những năng lực phẩm
chất mới và cao, đáp ứng được những yêu cầu to lớn của sự phát triển kinh tế - xã hội,
của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước[30, tr285].
Tiến sỹ Nguyễn Hữu Dũng cho rằng: “Phát triển nguồn nhân lực được coi là quá trình
làm biến đổi về số lượng, chất lượng và cơ cấu nguồn nhân lực ngày càng đáp ứng tốt yêu
cầu của sự phát triển kinh tế - xã hội” [13, tr.13]. Theo tác giả, quá trình này bao gồm sự phát
triển về thể lực, trí lực, khả năng nhận thức và tiếp thu kiến thức, tay nghề, tính năng động xã
hội và sức sáng tạo của con người. Trong đó, nền văn hóa truyền thống, lịch sử của dân tộc
góp phần rất quan trọng hình thành nên bản lĩnh và ý chí của mỗi cá nhân người.
Như vậy, phát triển nguồn nhân lực không phải là một khái niệm trừu tượng mà nó
gắn với sự phát triển của con người cụ thể. Theo C. Mác, con người là yếu tố quan trọng
nhất, yếu tố giữ vị trí hàng đầu, chủ yếu của lực lượng sản xuất. Đó là yếu tố cách mạng
14
của lực lượng sản xuất. Người lao động trong lực lượng sản xuất phải là con người về trí
tuệ thì ngày càng được phát triển cao hơn, về thể chất thì ngày càng khỏe mạnh và có đạo
đức trong sáng, linh hoạt và văn minh trong ứng xử. Kinh nghiệm sản xuất và kỹ năng
lao động ngày càng cao. Do đó, phát triển nguồn nhân lực và phát triển con người có mối
quan hệ biện chứng với nhau. Phát triển nguồn nhân lực phải được hiểu là quá trình phát
triển toàn diện con người cả thể lực, trí lực, cả khai thác, sử dụng tái tạo và phát triển
tiềm năng, năng lực của mỗi người, của cả cộng đồng người nhằm đóng góp nhiều nhất
vào sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội, bởi lẽ nguồn nhân lực được cấu thành từ nguồn
lực của những cá nhân cũng như của cộng đồng. Vì vậy, nếu cho rằng phát triển nguồn
nhân lực chỉ là quá trình làm gia tăng kiến thức, kỹ năng và năng lực của mỗi người là
không đầy đủ, điều đó mới chỉ đề cập đến khía cạnh khai thác năng lực của con người mà
thiếu đi quá trình tái tạo, phát triển và sử dụng lâu dài tiềm năng con người, cũng như tạo
ra giá trị đích thực cho cuộc sống của con người.
Như vậy, mặc dù với nhiều cách tiếp cận và quan niệm khác nhau về phát triển
nguồn nhân lực, nhưng tựu chung lại có thể hiểu rằng: Phát triển nguồn nhân lực là quá
trình làm biến đổi về số lượng, chất lượng, cơ cấu nguồn nhân lực, đồng thời làm gia
tăng các giá trị tinh thần, đạo đức, trí tuệ, kỹ năng, thể chất...cho con người nhằm đáp
ứng những yêu cầu của sự phát triển kinh tế - xã hội.
Mỗi một giai đoạn lịch sử đều có nhu cầu về nguồn nhân lực phù hợp giai đoạn lịch
sử đó. Do vậy, từng giai đoạn phát triển khác nhau của xã hội đòi hỏi phát triển nguồn
nhân lực với những phẩm chất phù hợp là cần thiết.
- Phát triển nguồn nhân lực dân tộc Khmer
Người Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long và người Khmer Campuchia đúng là
cùng một nguồn gốc chủng tộc nhưng do biến động của lịch sử, từ lâu họ đã là chủng tộc
người của hai quốc gia.
Người Khmer cư trú ở đồng bằng sông Cửu Long tổ chức thành những cụm rời,
nhỏ là một ấp, lớn là một vài xã xen kẽ với các ấp của người Việt và người Hoa. Ở
15
đồng bằng sông Cửu Long, người Khmer thường sống nơi giồng cát cao ở ngoại vi
thành phố, ở vùng hẻo lánh, vùng điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn. Vì vậy, để tập
hợp và phát huy được nội lực trong việc xây dựng và phát triển xã hội cần phải thực
hiện những chính sách bình đẳng dân tộc xóa bỏ dần những chênh lệch trong sự phát
triển kinh tế- xã hội giữa người Khmer và cộng đồng dân tộc khác.
Trong truyền thống dựng nước và giữ nước, dù nguồn gốc lịch sử, ngôn ngữ, văn
hóa có khác nhau nhưng người Khmer và cộng đồng các dân tộc anh em cùng đoàn kết
chống ngoại xâm bảo vệ tổ quốc. Khi đất nước hòa bình thì cùng làm ăn sinh sống trong
sự hòa hợp bình đẳng. Sự cộng cư lâu đời, cùng với sự thử thách khắc nghiệt thường
xuyên của thiên tai như hán hạn, lũ lụt....và chiến tranh đã làm cho người Khmer và các
anh em cùng chung sống trên vùng lãnh thổ gắn bó chặt chẽ với nhau. Tình đoàn kết giữa
các dân tộc đã trở thành truyền thống lịch sử, là giá trị tinh thần cực kỳ to lớn của dân tộc
Việt Nam. Truyền thống lịch sử đó, đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh rút ra một nguyên lý,
chỉ có đoàn kết mới giúp dân tộc Việt Nam có được sức mạnh chiến thắng kẻ thù. Với
Người, không một người dân Việt Nam nào đứng ngoài khối đoàn kết dân tộc. Để thắt
chặt khối đại đoàn kết, Người nhắc nhở với chúng ta: Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường
hay Mán, Gia Rai hay Ê Đê...và các dân tộc thiểu số khác đều là con cháu Việt Nam, đều
là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau.
Kế thừa và phát triển truyền thống dân tộc và tư tưởng của Hồ Chí Minh, Đại hội
lần thứ XI của Đảng Cộng sản Việt Nam có khẳng định: Đại đoàn kết dân tộc là đường
lối chiến lược cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là nhân tố
có ý nghĩa quyết định bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Ngày nay, thực hiện công cuộc đổi mới đất nước trong điều kiện quốc tế hóa, để
tránh nguy cơ tụt hậu, tạo ra sự phát triển nhanh thì việc coi trọng phát triển tổng hợp
nguồn lực là quan trọng.
Việt Nam, xuất phát từ một nước nông nghiệp còn ở tình trạng nghèo lạc hậu, để đổi
mới đi lên chúng ta không thể chỉ dựa vào nguồn lực tự nhiên vốn có của đất nước, mà trước
hết phải phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nguồn nhân lực, trong đó nguồn nhân lực dân tộc
16
Khmer đóng vai trò quan trọng tiến trình phát triển của đất nước. Tuy nhiên, do những nguyên
nhân khách quan và chủ quan, nguồn nhân lực dân tộc Khmer chủ yếu còn ở dạng tiềm năng,
chưa được chú ý khai thác và sử dụng có hiệu quả trong phát triển. Do vậy, việc xây dựng
chiến lược nhằm phát triển toàn diện nguồn nhân lực này, tạo ra năng lực nội sinh trong tiến
trình phát triển đất nước là một nhiệm vụ hết sức cần thiết.
Từ nhiều cách tiếp cận và quan điểm khác nhau về phát triển nguồn nhân lực, nhưng
nhìn chung có thể thấy rằng phát triển nguồn nhân lực là phạm trù dùng để chỉ số dân, cơ
cấu dân số, đặc biệt là chất lượng người với tất cả những tiềm năng, năng lực và phẩm
chất làm nên sức mạnh của nó trong sự phát triển. Từ cách diễn đạt này có thể hiểu, để
phát triển có hiệu quả nguồn nhân lực dân tộc Khmer, trước hết là không ngừng cải thiện
và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào dân tộc Khmer, trên cơ sở đó tạo
ra một đội ngũ người lao động, có chất lượng, một nguồn nhân lực dồi dào. Điều này sẽ
trở thành hiện thực khi có sự kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công
bằng xã hội, với nâng cao chất lượng cuộc sống để tạo điều kiện và cơ hội cho mọi thành
viên trong cộng đồng nâng cao trình độ học vấn và văn hóa, trình độ tay nghề và kỹ năng
lao động, chăm sóc sức khỏe cho người dân tộc Khmer, khơi dậy và phát huy tinh thần lao
động tích cực, tự giác, năng lực làm chủ và khả năng sáng tạo của mỗi con người, đồng thời
phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo ra động lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội.
Vậy, phát triển nguồn nhân lực dân tộc Khmer là quá trình làm biến đổi về số
lượng, về cơ cấu ngành nghề và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực này một cách phù
hợp với điều kiện địa lý, kinh tế - xã hội của dân tộc này, đồng thời làm gia tăng các giá
trị tinh thần, đạo đức, trí tuệ, kỹ năng...cho người dân tộc Khmer nhằm đáp ứng yêu cầu
của quá trình phát triển chung của đất nước.
Tóm lại, chính nét đặc thù như: dân số ít, cư trú vùng nông thôn, sản xuất nông
nghiệp là chủ yếu, điều kiện kinh tế -xã hội kém, có nét văn hóa riêng đã nói lên nét đặc
thù của nguồn nhân lực dân tộc Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long.
17
1.1.2.Quan điểm của Đảng, Nhà nước về phát triển nguồn nhân lực dân tộc Khmer
Vấn đề con người và phát triển con người là một trong những nội dung chủ đạo,
mối quan tâm hàng đầu trong hệ thống lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin. Trong học
thuyết về con người của Chủ nghĩa Mác – Lênin, con người không những là chủ thể của
các hoạt động sản xuất vật chất, đóng vai trò yếu tố cơ bản nhất của lực lượng sản xuất xã
hội, mà hơn thế nữa còn là chủ thể sáng tạo nên lịch sử của xã hội.
Nhận thức rõ điều đó, C. Mác đã từng khẳng định rằng, ý nghĩa lịch sử, mục đích
cao cả của sự phát triển xã hội là phát triển con người toàn diện, là nâng cao năng lực,
nhân cách và phẩm giá con người, giải phóng con người khỏi mọi sự “tha hóa” và làm
cho họ được sống cuộc sống đích thực của con người. Nói cách khác trong quan điểm của
Chủ nghĩa Mác – Lênin, thực chất của tiến trình phát triển lịch sử xã hội loài người là vì
con người, vì cuộc sống ngày càng hạnh phúc và tốt đẹp cho con người.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng quan niệm rằng, trong bầu trời không có gì
quý bằng nhân dân; rằng trách nhiệm lớn nhất của Đảng và Nhà nước là phải thường
xuyên quan tâm, chăm lo cho nhân dân có đời sống vật chất đầy đủ, đời sống tinh thần
phong phú và lành mạnh.
Tư tưởng phát triển con người, thường xuyên chăm lo hạnh phúc của mỗi con
người luôn được Đảng ta đặt lên hàng đầu. Trong thời kỳ đổi mới, Đảng đã nhận thức sâu
sắc vai trò đặc biệt quan trọng của nhân tố con người với tính cách là động lực của sự
phát triển xã hội, của sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa. Kế thừa quan điểm của Chủ
nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của con người trong tiến trình xây
dựng xã hội mới, Đảng ta khẳng định rằng, nguồn lực quý báo nhất, có vai trò quyết định
nhất là con người Việt Nam; rằng nhân tố con người chính là nguồn sức mạnh nội sinh
của dân tộc Việt Nam.
Phát triển xã hội, vì mục tiêu con người được Đảng ta xác định, đây là một bước
phát triển quan trọng trong thời kỳ đổi mới. Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, với 54
thành phần dân tộc. Dân tộc Kinh là dân tộc đa số, chiếm 83,6% dân số, còn lại 53 dân
18
tộc là dân tộc thiểu số trong đó ở Nam Bộ có dân tộc Khmer tập trung nhiều ở tỉnh Trà
Vinh. Do vậy, để thúc đẩy sự phát triển kinh tế -xã hội, đòi hỏi phải phát huy trí tuệ, sức
người của mọi nguồn nhân lực, trong đó có nguồn lực dân tộc Khmer. Thực tế đã cho
thấy, ở đâu các lực lượng cách mạng mà đánh giá đúng vai trò của con người, biết phát
huy, phát triển nó một cách có hiệu quả thì sự nghiệp cách mạng ở đó sẽ giành thắng lợi.
Những năm qua Đảng và nhà nước ta có nhiều chính sách, chủ trương phát triển
nguồn nhân lực dân tộc thiểu số ở các vùng, miền trong cả nước, ở Nam Bộ có nguồn
nhân lực dân tộc Khmer.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
thông qua tại đại hội lần thứ VII (tháng 6-1991) Đảng ta khẳng định “thực hiện cuộc sống
bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện để các dân tộc phát
triển...Các chính sách kinh tế - xã hội phải phù hợp với đặc thù của các vùng và các dân
tộc, nhất là các dân tộc thiểu số ” [18, tr.16].
Những chính sách của Đảng về dân tộc làm cơ sở phát triển nguồn nhân lực dân
tộc thiểu số, tiếp tục được hoàn thiện, thể hiện cụ thể trong các nghị quyết của Đại hội
đại biểu toàn quốc ở các kỳ đại hội VIII, đại hội IX, đại hội XI, XII của Đảng.
Báo cáo Chính trị của Ban chấp hành trung ương Đảng khóa VII tại Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VIII của Đảng khẳng định: Vấn đề dân tộc có vị trí chiến lược lớn.
Thực hiện “bình đẳng, đoàn kết, tương trợ” giữa các dân tộc trong sự nghiệp đổi mới.
Xây dựng luật dân tộc, từ nay đến năm 2000, bằng nhiều biện pháp tích cực và vững chắc
thực hiện ba mục tiêu... cải thiện đời sống sức khỏe của đồng bào các dân tộc ở vùng cao,
vùng biên giới [19, tr.369].
Hội nghị trung ương 7 khóa IX cụ thể hóa: Vấn đề dân tộc là vấn đề chiến lược cơ
bản lâu dài đồng thời cũng là vấn đề cấp bách hiện nay của cách mạng Việt Nam; các dân
tộc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển cùng nhau thực hiện thắng
lợi sự nghiệp phát triển đất nước; Phát triển toàn diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội
và an ninh quốc phòng trên địa bàn vùng dân tộc và miền núi, quan tâm phát triển, bồi
19
dưỡng nguồn nhân lực, chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số; phát huy nội
lực, tinh thần tự lực, tự cường của đồng bào dân tộc [24, tr.34-35].
Văn kiện Đại hội X của Đảng tiếp tục nhấn mạnh: Vấn đề dân tộc có vị trí chiến
lược lâu dài trong sự nghiệp cách mạng nước ta. Phát triển kinh tế, chăm lo đời sống
vật chất, tinh thần, xóa đói giảm nghèo, nâng cao trình độ dân trí... của các dân tộc.
Thực hiện chính sách ưu tiên trong đào tạo bồi dưỡng cán bộ trí thức là người dân tộc
thiểu số, chống biểu hiện kỳ thị, hẹp hòi chia rẽ dân tộc. [25, tr.121-122].
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc thứ XII của Đảng khẳng định: Đoàn kết dân tộc
có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng của nước ta. Tiếp tục hoàn thiện các cơ
chế, chính sách, bảo đảm các dân tộc bình đẳng, tôn trọng đoàn kết, giải quyết hài hòa
quan hệ giữa các dân tộc, giúp nhau cùng phát triển, tạo chuyển biến rõ rệt trong phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là các vùng
Tây Bắc, Tây nguyên, Tây Nam Bộ. Nâng cao chất lượng giáo dục-đào tạo, chất lượng
nguồn nhân lực...người dân tộc thiểu số [26, tr.164].
Xác định nguồn nhân lực dân tộc thiểu số, trong đó có dân tộc Khmer là một
trong những nguồn nhân lực quan trọng góp phần vào sự nghiệp phát triển chung của
cả nước. Chính vì thế, những năm qua Đảng và Nhà nước đã có những văn bản cụ thể
nhằm đảm bảo điều kiện cho sự phát triển của nguồn nhân lực dân tộc Khmer.
- Chỉ thị 68 CT/TW, ngày 18/4/1991 của Ban Bí thư trung ương Đảng (khoá VI) về
“công tác vùng đồng bào dân tộc Khmer” nêu rõ, tập trung phát triển nguồn nhân lực dân tộc
thiểu số nói chung, nguồn nhân lực dân tộc Khmer nói riêng, đặc biệt là đội ngũ cán bộ trong
hệ thống chính trị cơ sở, cán bộ có trình độ cao đẳng, đại học cho các chức danh chủ chốt cấp
xã, vùng dân tộc; đổi mới hình thức đào tạo nghề, nhanh chóng nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực cho người dân tộc thiểu số trong đó có nguồn nhân lực dân tộc Khmer.
- Quyết định số 134/2004/QĐ-TTg, ngày 20/7/2004 của Thủ tướng Chính phủ về
một số chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt cho hộ đồng bào
dân tộc thiểu số.
20
- Xem thêm -