VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THANH TÙNG
TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI
CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TỪ THỰC TIỄN
TỈNH QUẢNG NINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Hà Nội, 2019
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THANH TÙNG
TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI
CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TỪ THỰC TIỄN
TỈNH QUẢNG NINH
Ngành: Luật Hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. TRẦN ĐÌNH NHÃ
Hà Nội, 2019
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI CỐ Ý
GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA
NGƯỜI KHÁC ..................................................................................................... 7
1.1 Những vấn đề lý luận ...................................................................................... 7
1.2. Pháp luật hình sự Việt Nam về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác ............................................................................. 19
Chương 2. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI
CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC
KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC TẠI TỈNH QUẢNG NINH ............................ 35
2.1. Khái quát tình hình xét xử sơ thẩm các vụ án về tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tại tỉnh Quảng Ninh ................. 35
2.2. Đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự trong xét xử các vụ án về
tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác của Tòa
án nhân dân tỉnh Quảng Ninh ............................................................................. 36
Chương 3. YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO ÁP DỤNG ĐÚNG
PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH HOẶC
GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC ........................... 57
3.1. Yêu cầu ......................................................................................................... 57
3.2. Các giải pháp ................................................................................................ 63
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................... 81
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLHS
: Bộ luật hình sự
BLTTHS
: Bộ luật tố tụng hình sự
TAND
: Toà án nhân dân
TANDTC
: Toà án nhân dân tối cao
TANDCC
: Toà án nhân dân cấp cao
VKSNDTC
: Viện kiểm sát nhân dân tối cao
XHCN
: Xã hội chủ nghĩa
Nxb
: Nhà xuất bản
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Con người là vốn quý nhất của xã hội. Ở nước ta, quyền con người nói
chung, tính mạng, sức khỏe, danh dự nhân phẩm của con người nói riêng được
Hiến pháp và pháp luật bảo vệ. Điều 20 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi
người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức
khỏe, danh dự và nhân phẩm; không ai bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình
bằng bất cứ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm
danh dự, nhân phẩm”. Điều này hoàn toàn đáp ứng yêu cầu của công ước quốc
tế về chống tra tấn năm 1984 của Liên hợp quốc mà Việt Nam là thành viên.
Để cụ thể hóa quy định này của Hiến pháp, BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ
sung năm 2017) đã quy định các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự và
nhân phẩm của con người tại Chương XIV, trong đó các tội xâm phạm sức khỏe
của con người gồm 07 tội danh được quy định tại các điều, từ Điều 134 đến
Điều 140 của chương này. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác được quy định tại Điều 134 BLHS năm 2015. So với Điều
104 BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), nội dung cấu thành tội phạm
của tội phạm này về cơ bản được BLHS năm 2015 kế thừa, tuy nhiên có sửa đổi
về kỹ thuật lập pháp và hình phạt theo hướng ít nghiêm khắc hơn so với hình
phạt được quy định tại Điều 104 BLHS năm 1999. Mặc dù, BLHS năm 2015
(Điều 134) quy định tội phạm này có hoàn thiện hơn so với BLHS năm 1999,
nhưng thực tiễn áp dụng hơn một năm qua cho thấy, quy định của Điều 134 về
tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác đã bộc bộ
những bất cập, hạn chế nhất định, gây khó khăn, vướng mắc cho thực tiễn áp
dụng.
Quảng Ninh là một tỉnh có nhiều điều kiện thuận lợi cho sự phát triển
kinh tế xã hội, song cũng là một địa bàn phức tạp về an ninh, trật tự. Tình hình
tội phạm nói chung, tình hình các tội xâm phạm tính mạng sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm của con người nói riêng ở tỉnh Quảng Ninh diễn biến phức tạp, gây
thiệt hại nhiều mặt cho đời sống xã hội. Trước tình trạng đó, các cơ quan bảo vệ
1
pháp luật của tỉnh, nhất là Tòa án nhân dân (TAND) đã nêu cao vai trò, trách
nhiệm của mình trong việc điều tra, truy tố, xét xử tội phạm bước đầu thu được
những kết quả nhất định, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chống tội phạm.
Song do nhiều nguyên nhân chủ quan, khách quan khác nhau, việc áp dụng các
quy định của pháp luật hình sự để điều tra, truy tố, xét xử tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác vẫn còn những hạn chế, thiếu
sót, cần phải khắc phục nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm
trong tình hình mới. Vì vậy, việc nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện,
chuyên sâu tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác theo pháp luật hình sự Việt Nam nhằm làm phong phú thêm những vấn đề
lý luận, làm rõ những hạn chế, bất cập trong các quy định của pháp luật thực
định, cũng như những hạn chế, thiếu sót trong thực tiễn áp dụng ở tỉnh Quảng
Ninh, trên cơ sở đó kiến nghị những giải pháp đảm bảo áp dụng đúng quy định
của BLHS hiện hành về tội phạm này là có tính cấp thiết. Vì lý do trên, tác giả
lựa chọn đề tài: “Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh” để nghiên cứu làm luận văn thạc sĩ
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
xảy ra phổ biến trong đời sống xã hội, do vậy đã có nhiều công trình khoa học
mang tính truyền thống nghiên cứu về tội phạm này dưới các phương diện, cấp
độ khác nhau.
- Nghiên cứu về lý luận: Đã có các giáo trình của các cơ sở đào tạo luật
như: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam của Đại học Luật Hà Nội, Đại học Quốc
gia Hà Nội…, đặc biệt là giáo trình Luật hình sự Việt Nam do GS. TS. Võ
Khánh Vinh làm chủ biên, được Nhà xuất bản Khoa học xã hội phát hành năm
2013. Trong những giáo trình này, các nhà nghiên cứu đều làm sáng tỏ những
vấn đề lý luận cũng như quy định của pháp luật hình sự về tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nhưng chỉ ở mức độ khái
quát, cơ bản nhất. Ngoài hệ thống giáo trình Luật hình sự, nghiên cứu lý luận và
2
quy định của BLHS về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác còn được các cuốn bình luận khoa học BLHS của nhiều tác giả
đề cập, tiêu biểu là cuốn Bình luận khoa học BLHS năm 2015 được sửa đổi, bổ
sung năm 2017 (phần Các tội phạm) do GS. TS. Nguyễn Ngọc Hòa làm chủ
biên, được Nhà xuất bản Tư pháp phát hành năm 2018.
- Một số công trình khác (chủ yếu là luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ luật
học, chuyên ngành Luật hình sự và Tố tụng hình sự) tập trung nghiên cứu cả lý
luận và thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự về tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Tiêu biểu là: Luận án
tiến sĩ “Trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm xâm phạm sức khỏe của người
khác từ thực tiễn tỉnh Hải Dương” của tác giả Nguyễn Huy Tài; Luận văn thạc
sĩ “Tội cố ý gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe của người khác theo
pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hải Phòng” của tác giả
Nguyễn Thị Hòa, Học viện Khoa học xã hội, năm 2017; Luận văn thạc sĩ “Tội
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo pháp
luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Lạng Sơn” của tác giả Dương Mai
Phương, Học viện Khoa học xã hội, năm 2017… Các công trình khoa học này
chủ yếu nghiên cứu tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác theo quy định của BLHS năm 1999, từ thực tiễn một địa phương cụ
thể. Ngoài những luận án, luận văn nêu trên còn có một số cuốn sách chuyên
khảo đề cập đến các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm
của con người như cuốn:“Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm ,
danh dự của con người” của tác giả Trần Văn Luyện, Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia, Hà Nội 2000; cuốn “Tìm hiểu tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh
dự, nhân phẩm của con người” của tác giả Trần Minh Hưởng, Nhà xuất bản Lao
động, Hà Nội, năm 2002… Trong các cuốn sách tham khảo này, ở một mức độ
nhất định, các tác giả cũng đề cập đến tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác.
- Nghiên cứu các khía cạnh khác nhau về tội cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là các bài báo khoa học như: “Bàn về
3
một số quy định của BLHS năm 2015 về các tội phạm xâm phạm sức khỏe của
người khác” của tác giả Nguyễn Huy Tài, Tạp chí Kiểm sát, số 4 năm 2018;
“Một số ý kiến về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác theo quy định tại Điều 134 BLHS năm 2015” của tác giả Phạm Minh
Tuyên; Tạp chí TAND số 12/2018; “Kiến nghị tiếp tục hoàn thiện quy định về
các tội xâm phạm sức khỏe của người khác trong BLHS năm 2015 và những giải
pháp bảo đảm áp dụng” của tác giả Nguyễn Duy Hữu, Tạp chí TAND số
24/2016…
Như vậy, đã có rất nhiều công trình khoa học đề cập đến tội cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác ở các phương diện,
cấp độ và cách tiếp cận khác nhau. Song do mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên
cứu của các công trình đó được giới hạn nên đến nay vẫn chưa có một công trình
nào nghiên cứu một cách hệ thống, chuyên sâu tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác theo quy định tại Điều 134 BLHS năm
2015 từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh. Qua đây có thể xác định luận văn của tác giả
không trùng lặp với các công trình khoa học đã được công bố có liên quan đến
đề tài luận văn.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, quy định của pháp luật hình sự về tội cố ý
gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác theo quy định của
BLHS năm 2015 và thực tiễn áp dụng tại Quảng Ninh trong những năm gần đây,
luận văn hướng tới mục đích xây dựng các giải pháp đảm bảo áp dụng đúng quy
định của BLHS năm 2015 về tội phạm này trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn tập trung thực hiện các nhiệm vụ
nghiên cứu sau:
+ Phân tích, luận giải làm rõ những vấn đề lý luận về tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác; phân biệt tội phạm này với
một số tội phạm khác có những dấu hiệu giống tội phạm này.
4
+ Bình luận, đánh giá các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, chỉ ra
những điểm hạn chế, bất cập gây khó khăn, vướng mắc cho thực tiễn áp dụng.
+ Khảo sát, đánh giá thực tiễn áp dụng quy định của BLHS năm 1999 và
BLHS năm 2015 về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự (chủ yếu là TAND) tại
tỉnh Quảng Ninh, rút ra những kết quả đạt được, cũng như những hạn chế, thiếu
sót và nguyên nhân.
+ Luận giải, kiến nghị những giải pháp đảm bảo áp dụng đúng quy định
của pháp luật hình sự về tội phạm này trong thời gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận, quy định của
pháp luật hình sự Việt Nam về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác và thực tiễn áp dụng các quy định đó tại địa bàn tỉnh
Quảng Ninh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về lý luận: Luận văn nghiên cứu trong phạm vi lý luận chuyên ngành
Khoa học Luật hình sự và Tố tụng hình sự.
- Về thực tiễn: Luận văn tập trung nghiên cứu thực tiễn định tội danh và
quyết định hình phạt đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác tại TAND tỉnh Quảng Ninh.
- Về không gian: địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
- Về thời gian: thực tiễn áp dụng pháp luật từ năm 2014 đến năm 2018.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1 Phương pháp luận
Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước về
pháp luật và sử dụng pháp luật đấu tranh phòng, chống tội phạm. Ngoài ra, luận
văn còn dựa trên lý luận chuyên ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự để làm rõ
5
đối tượng nghiên cứu.
5.2 Các phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu chuyên ngành,
liên ngành như: phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê, chuyên gia v.v để làm rõ
từng nội dung nghiên cứu trong luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1 Ý nghĩa lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể góp phần
làm rõ và phong phú thêm lý luận chuyên ngành luật hình sự về tội phạm cụ thể.
6.2 Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể tham khảo
trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đấu tranh phòng, chống tội phạm nói
chung và tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
nói riêng.
Ngoài ra, luận văn còn có thể làm tài liệu tham khảo trong học tập, giảng
dạy và nghiên cứu tại các cơ sở đào tạo chuyên ngành luật.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn được cấu trúc thành 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận và pháp luật về tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
Chương 2. Thực trạng áp dụng pháp luật hình sự về tội cố ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tại tỉnh Quảng Ninh.
Chương 3. Yêu cầu và giải pháp đảm bảo áp dụng đúng pháp luật hình sự
về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác.
6
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG
TÍCH HOẶC GÂY TỔN HẠI CHO SỨC KHỎE CỦA NGƯỜI KHÁC
1.1. Những vấn đề lý luận
1.1.1. Khái niệm
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác là
một trong những tội phạm được quy định trong pháp luật hình sự Việt Nam, do
vậy khái niệm về tội phạm này được xây dựng trên cơ sở khái niệm gốc về tội
phạm được quy định tại Điều 8 BLHS hiện hành và dựa vào các quan điểm khoa
học về tội phạm.
Hiện nay trong giới khoa học có nhiều quan điểm khác nhau xoay quanh
vấn đề định nghĩa khái niệm tội phạm, nhưng tựu chung lại có thể chia làm hai
trường phái: trường phái đưa ra định nghĩa khái quát và trường phái đưa ra định
nghĩa đầy đủ.
- Trường phái đưa ra định nghĩa khái quát về tội phạm, theo đó tội phạm
là hành vi nguy hiểm cho xã hội, được quy định trong BLHS. Như vậy, cách
định nghĩa này chỉ phản ánh hai dấu hiệu đặc trưng trong nội hàm khái niệm tội
phạm, đó là: tính nguy hiểm cho xã hội (dấu hiệu nội dung) và tính được quy
định trong luật (dấu hiệu hình thức pháp lý).
- Trường phái khác thì đưa ra định nghĩa đầy đủ về tội phạm. Một trong
những người theo trường phái này cho rằng: “Khái niệm tội phạm phải thể hiện
được ba phương diện (khách quan, chủ quan và pháp lý) và năm dấu hiệu: a)
bình diện khách quan: tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội (1); b) bình
diện pháp lý: tội phạm là hành vi được quy định trong BLHS, tức là bị Luật hình
sự cấm (2); c) bình diện chủ quan: tội phạm là hành vi được thực hiện một cách
có lỗi (3) bởi người có năng lực trách nhiệm hình sự (4) và đủ tuổi chịu trách
nhiệm hình sự (5)” [8, tr. 25].
Định nghĩa lập pháp về tội phạm trong BLHS Việt Nam năm 2015 là một
định nghĩa đầy đủ, bao gồm tất cả các dấu hiệu đặc trưng của tội phạm, theo đó:
“Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, do
người có năng lực trách nhiệm hình sự hoặc pháp nhân thương mại thực hiện
7
một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm độc lập chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc
phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm
phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những
lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa mà theo quy định của Bộ
luật này phải bị xử lý hình sự” [18, tr. 50].
Kế thừa những yếu tố hợp lý trong định nghĩa khoa học và định nghĩa
pháp lý về tội phạm, đồng thời dựa vào quy định của Điều 134 BLHS năm 2015,
tác giả đưa ra khái niệm tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe
của người khác với nội dung như sau: “Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác là hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm
quyền được pháp luật bảo hộ về sức khỏe của con người được quy định trong
BLHS (Điều 134, Chương XIV BLHS), do người có năng lực trách nhiệm hình
sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý và theo quy định
của BLHS phải bị xử lý hình sự”. Khái niệm này đã phản ánh đầy đủ các dấu
hiệu pháp lý đặc trưng của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác trên cả ba phương diện: khách quan, chủ quan và pháp lý là
cơ sở khoa học cho việc nhận thức đúng đắn về tội phạm này trên thực tế.
1.1.2. Những dấu hiệu pháp lý
Từ khái niệm nêu trên cho thấy, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác có những dấu hiệu pháp lý đặc trưng sau:
- Khách thể của tội phạm: khách thể trực tiếp của tội phạm này là sức
khỏe của người khác được pháp luật bảo vệ. Khi thực hiện hành vi cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, hành vi của người
phạm tội đã xâm phạm hoặc đe dọa xâm phạm đến sức khỏe của con người
thông qua việc tác động đến cơ thể con người, gây ra những tổn thương cơ thể ở
một mức độ nhất định.
- Mặt khách quan của tội phạm: Cũng như các tội phạm khác, mặt khách
quan của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
là những biểu hiện của tội phạm ra bên ngoài, bao gồm: hành vi, hậu quả, mối
quan hệ nhân quả và các dấu hiệu khách quan khác (như: thời gian, địa điểm,
công cụ, phương tiện, phương thức, thủ đoạn, hoàn cảnh thực hiện hành vi).
8
Trong những dấu hiệu (biểu hiện) nêu trên, hành vi khách quan của tội phạm,
hậu quả nguy hại cho sức khỏe của con người do hành vi phạm tội gây ra và mối
quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả được BLHS quy định là dấu hiệu bắt
buộc để định tội.
Hành vi khách quan của tội phạm này là hành vi (hành động hoặc không
hành động) tác động đến cơ thể của người khác gây ra tổn thương cho cơ thể họ.
Khi thực hiện hành vi phạm tội, chủ thể có thể sử dụng công cụ, phương tiện
như: súng, dao, thuốc độc… và cũng có thể dùng chân tay không đấm đá, bóp
cổ… người bị hại. Theo quy định của Điều 134 BLHS, hành vi khách quan của
tội phạm này có hai dạng: hành vi gây thương tích và hành vi gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác. Biểu hiện thực tế của hai loại hành vi này có thể giống
nhau, nhưng khác nhau chủ yếu là hậu quả do hành vi gây ra: hậu quả mà hành
vi gây thương tích gây ra phải để lại những thương tật nhất định trên cơ thể nạn
nhân, còn hậu quả mà hành vi gây tổn hại cho sức khỏe gây ra thì không để lại
những thương tật trên cơ thể nạn nhân mà chỉ làm giảm đáng kể tình trạng sức
khỏe của nạn nhân mà thôi.
Như vây, hậu quả của tội phạm này là hậu quả thương tích hoặc hậu quả
tổn hại về sức khỏe, nhưng phải có tỷ lệ tổn thương cơ thể phải từ 11% trở lên
mới bị xử lý hình sự. Trường hợp tỷ lệ tổn thương cơ thể dưới 11% thì chỉ xử lý
hình sự nếu thuộc một trong những trường hợp sau:
a) Dùng vũ khí, vật liệu nổ, hung khí nguy hiểm hoặc thủ đoạn có khả
năng gây nguy hại cho nhiều người
Đây là trường hợp, người phạm tội đã sử dụng công cụ có tính nguy hiểm
cao cho xã hội hoặc thủ đoạn phạm tội có khả năng gây nguy hại cho nhiều
người, do vậy đã làm tăng tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà họ thực
hiện.
Vấn đề cơ bản là phải thống nhất nhận thức: vũ khí ở đây bao gồm cả vũ
khí quân dụng, vũ khí thô sơ (dao găm, kiếm, lưỡi lê, mã tấu, côn, cung, nỏ, phi
tiêu…) và vũ khí thể thao (súng săn) thậm chí bao gồm cả các loại vũ khí khác
tự chế có tính năng, tác dụng gây sát thương cho con người. Vật liệu nổ bao gồm
thuốc nổ và phụ kiện nổ (như kíp nổ, dây cháy chậm, mồi nổ…); hung khí nguy
hiểm là những vật được sử dụng làm công cụ phạm tội có tính nguy hiểm cao
9
hơn các công cụ phạm tội thông thường nhưng không phải là vũ khí quân dụng,
vũ khí thô sơ. Thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người là thủ đoạn
có khả năng gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khỏe không chỉ cho một người
mà phải từ hai người trở lên, chẳng hạn như: bỏ chất ngộ độc vào thức ăn của
bếp ăn tập thể.
b) Dùng a - xít nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm
Đây là trường hợp người phạm tội sử dụng những công cụ, phương tiện
phạm tội có tính năng gây nguy hại cao cho sức khỏe của con người. A - xít
nguy hiểm là những loại a - xít có khả năng gây ra nhưng tổn thương cho cơ thể
của nạn nhân khi có sự tiếp xúc giữa a - xít này với cơ thể người (chẳng hạn, gây
bỏng nặng cho người bị tạt a - xít); hóa chất nguy hiểm là hóa chất bất kỳ (ngoài
a - xít) và có khả năng gây tổn hại cho sức khỏe của con người.
c) Đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ mà biết là có thai, người già yếu,
ốm đau hoặc không có khả năng tự vệ
Đây là trường hợp nạn nhân của tội phạm là các đối tượng có đặc điểm
tâm sinh lý và thể chất không bình thường, cần được ưu tiên bảo vệ. Vì thế hành
vi phạm tội được thực hiện đối với các nạn nhân này sẽ làm tăng tính nguy hiểm
cho xã hội của hành vi đến mức cần xử lý hình sự.
d) Đối với ông, bà, cha, mẹ, thầy cô giáo mình, người nuôi dưỡng, chữa
bệnh cho mình
Đây là trường hợp nạn nhân của tội phạm này là những đối tượng có quan
hệ đặc biệt (quan hệ gia đình, nuôi dưỡng, thầy trò, chữa bệnh) với người phạm
tội. Việc người phạm tội thực hiện hành vi gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của những đối tượng này thể hiện tính chất vô đạo lý, do vậy làm tăng
tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội đến mức cần xử lý hình sự.
đ) Có tổ chức
Đây là trường hợp tội phạm được thực hiện bằng hình thức đồng phạm có
tổ chức, tức là có sự câu kết chặt chẽ giữa những người đồng phạm theo quy
định tại Điều 17 BLHS năm 2015. Do vậy, hành vi phạm tội được thực hiện
bằng hình thức này có tính nguy hiểm cho xã hội cao hơn trường hợp phạm tội
độc lập hoặc bằng các hình thức đồng phạm khác.
10
e) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn
Đây là trường hợp hành vi gây thương tích hoặc gây tổn hại cho cho sức
khỏe của người khác do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện và họ đã lợi
dụng chức vụ, quyền hạn được giao để thực hiện hành vi phạm tội.
g) Trong thời gian đang bị giữ, tạm giữ, tạm giam, đang chấp hành án
phạt tù, đang chấp hành biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng hoặc
đang chấp hành hành biện pháp xử lý vi phạm hành chính đưa vào cơ sở giáo
dục bắt buộc, đưa vào trường giáo dưỡng hoặc đưa vào cơ sở cai nghiện bắt
buộc
Đây là trường hợp chủ thể thực hiện hành vi cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong hoàn cảnh, điều kiện đặc biệt, thể
hiện thái độ không chịu tiếp thu giáo dục, cải tạo hoàn lương của người phạm
tội. Vì vậy, đã làm tăng tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội đến
mức phải xử lý hình sự.
h) Thuê gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác;
hoặc gây thương tích tổn hại sức khỏe cho sức khỏe của người khác do được
thuê
Đây là trường hợp hành vi gây thương tích hoặc gây tổn thiệt hại cho sức
khỏe của người khác được thực hiện bởi người thuê và người được thuê. Đối với
trường hợp này cả người thuê và người được thuê đều phải chịu trách nhiệm
hình sự về tội phạm này vì họ đồng phạm với nhau.
i) Có tính tính chất côn đồ
Đây là trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác có tính hung hãn, coi thường tính mạng, sức khỏe của người khác,
như chỉ vì lý do nhỏ nhặt, nhưng người phạm tội vẫn cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác. Chẳng hạn, người phạm tội cho là nạn
nhân “nhìn đểu” mình nên đã gây thương tích cho họ.
k) Đối với người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn
nhân
Đây là trường hợp cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người đang thi hành công vụ hoặc động cơ của việc gây thương tích gắn liền với
việc thi hành công vụ của nạn nhân, chẳng hạn như để trả thù nạn nhân đã thực
11
thi công vụ gây ảnh hưởng đến lợi ích cá nhân của người phạm tội.
Trên đây là 10 trường hợp đòi hỏi phải có làm tăng tính chất mức độ nguy
hiểm cho xã hội của việc phạm tội, nên hành vi cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác với tỷ lệ tổn thương cơ thể dưới 11% vẫn
bị xử lý hình sự. Những tình tiết này được quy định là dấu hiệu định tội tại
khoản 1 Điều 134 BLHS hiện hành.
Do hậu quả của tội phạm được quy định là dấu hiệu bắt buộc, nên giữa
hành vi gây thương tích hoặc hành vi gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
và hậu quả thương tích hoặc tổn hại về sức khỏe phải có mối quan hệ nhân quả
với nhau. Đây cũng là dấu hiệu bắt buộc thuộc mặt khách quan của tội phạm
này. Vì thế, khi định tội danh phải chứng minh làm rõ dấu hiệu này.
- Mặt chủ quan của tội phạm
Tội phạm này bắt buộc phải thực hiện với lỗi cố ý, có thể là cố ý trực tiếp
và có thể là cố ý gián tiếp.
Trường hợp cố ý trực tiếp phạm tội là trường hợp người phạm tội nhận
thức rõ tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, thấy trước được hậu quả thương
tích hoặc tổn hại về sức khỏe có thể hoặc tất yếu xảy ra, nhưng mong muốn hậu
quả đó xảy ra.
Trường hợp cố ý gián tiếp phạm tội là trường hợp người phạm tội cũng
nhận thức được tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, thấy trước được hậu quả
thương tích hoặc tổn hại về sức khỏe có thể xảy ra, tuy không mong muốn
nhưng có ý thức để mặc cho những hậu quả đó xảy ra.
- Chủ thể của tội phạm.
Chủ thể của tội phạm này là bất kỳ người nào có năng lực chịu trách
nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo luật định.
+ Người có năng lực trách nhiệm hình sự là người khi thực hiện hành vi
cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác có khả năng
nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi cũng như tính chất
pháp lý của hành vi, đồng thời có khả năng điều khiển được hành vi phạm tội
của mình, tức là không ở trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự
12
quy định tại Điều 21 BLHS.
+ Theo quy định tại Điều 12 và Điều 134 BLHS, thì chủ thể của tội phạm
này phải đủ 16 tuổi trở lên, nếu phạm tội quy định ở khoản 1 và khoản 2 Điều
134 hoặc đủ 14 tuổi trở lên nếu phạm tội quy định tại các khoản 3,4,5 Điều 134
BLHS.
Tóm lại, những dấu hiệu pháp lý đặc trưng thuộc bốn yếu tố cấu thành tội
phạm của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
nêu trên là những dấu hiệu luật định, có tính chất bắt buộc phải chứng minh khi
định tội danh đối với tội phạm này.
1.1.3. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác với các tội phạm khác có liên quan
1.1.3.1. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác trong trường hợp làm chết người với tội giết người
Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
trong trường hợp làm chết người và tội giết người (đã hoàn thành) có nhiều biểu
hiện giống nhau (nhất là những biểu hiện thực tế của hành vi khách quan) nên
trong thực tiễn đã xảy ra một số trường hợp cùng một hành vi phạm tội nhưng
lại có những ý kiến khác nhau khi định tội danh. Do vậy, về mặt lý luận cần
phân biệt rõ hai tội phạm này, để tìm ra những điểm khác nhau giữa chúng, giúp
cho việc định tội danh được chính xác.
So sánh tội cố ý gây thương tích trong trường hợp làm chết người với tội
giết người đã hoàn thành thấy rằng, hai tội phạm này có nhiều biểu hiện giống
nhau như: chủ thể của hai tội phạm này đều là người đủ 14 tuổi trở lên, có năng
lực trách nhiệm hình sự; lỗi của chủ thể đều là lỗi cố ý; hành vi thực hiện tội
phạm tương tự như nhau (như đấm, đá, chém,… nạn nhân) và đều gây ra hậu
quả chết người. Tuy nhiên, giữa hai tội phạm này có sự khác nhau nhất định. Cụ
thể là: về mặt chủ quan, mặc dù cả hai tội phạm này đều được thực hiện với lỗi
cố ý, nhưng nội dung của lỗi cố ý có sự khác nhau. Cố ý giết người là cố ý tước
đoạt tính mạng của nạn nhân, còn cố ý gây thương tích chỉ là cố ý làm cho nạn
nhân bị thương tích, chứ không cố ý tước đoạt tính mạng của nạn nhân và nạn
nhân chết là ngoài nhận định của người phạm tội. Như vậy, điểm khác cơ bản
giữa hai tội phạm này là lỗi của người phạm tội đối với hậu quả chết người xảy
13
ra.
Ở tội giết người, khi thực hiện hành vi tước đoạt tính mạng của nạn nhân,
người phạm tội thấy trước hành vi đó có thể hoặc tất yếu gây ra hậu quả chết
người, đồng thời mong muốn hoặc có ý thức bỏ mặc cho hậu quả chết người xảy
ra. Còn ở tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
dẫn đến làm chết người, thì người phạm tội chỉ thấy trước hành vi mà họ thực
hiện có thể hoặc tất yếu gây ra hậu quả thương tích hoặc tổn hại về sức khỏe với
tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11% trở lên và chỉ mong muốn hoặc bỏ mặc cho hậu
quả này xảy ra, còn đối với hậu quả chết người thì người phạm tội tự tin cho
rằng sẽ không xảy ra hoặc có thể ngăn ngừa được. Do vậy, lỗi của người phạm
tội đối với hậu quả chết người trong trường hợp này là lỗi vô ý (vô ý vì quá tự
tin), thậm chí có trường hợp đối với hậu quả chết người xảy ra, lỗi của người
phạm tội đối với hậu quả này là lỗi vô ý do cẩu thả, nghĩa là khi thực hiện hành
vi cố ý gây thương tích cho nạn nhân, người phạm tội không thấy trước khả
năng gây ra hậu quả chết người của hành vi mà họ thực hiện, mặc dù phải thấy
trước và có thể thấy trước và cho rằng hậu quả chết người sẽ không xảy ra.
Trên thực tế, việc xác định ý thức chủ quan (lỗi) của người phạm tội trong
hai trường hợp trên gặp không ít khó khăn, phức tạp.
Bởi vì để có căn cứ khẳng định người phạm tội có thấy trước được hậu
quả chết người hay không thì phải phân tích, đánh giá không chỉ những tình tiết
khách quan của vụ án mà còn phải xem xét khả năng nhận thức của người phạm
tội. Những tình tiết khách quan cần phải đánh giá ở đây thường là những tình
tiết như: tính chất, cường độ thực hiện hành vi phạm tội; công cụ và phương tiện
được sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội; vị trí tác động lên cơ thể của nạn
nhân; thời gian, không gian, hoàn cảnh xảy ra tội phạm và những đặc điểm nhân
thân của người phạm tội.
Mặt khác, để có cơ sở kết luận người phạm tội mong muốn hoặc có ý thức
bỏ mặc (phó mặc) cho hậu quả chết người xảy ra hay tự tin cho rằng hậu quả
chết người sẽ không xảy ra cần phải làm rõ ý thức chủ quan của người phạm tội
đối với hậu quả chết người mà họ đã thấy trước. Cụ thể là phải làm rõ những
tình tiết như: mối quan hệ giữa nạn nhân và người phạm tội; động cơ thúc đẩy
chủ thể thực hiện tội phạm; mức độ mãnh liệt của hành vi phạm tội; tính năng,
14
tác dụng của công cụ, phương tiện được sử dụng và cách thức tiến hành; vị trí
tác động trên cơ thể nạn nhân có khả năng làm chết người hay không; hoàn cảnh
cụ thể xảy ra sự kiện phạm tội; thái độ của người phạm tội trước, trong và sau
khi sự việc xảy ra.
Tất cả những tình tiết này cần phải được xem xét, đánh giá một cách toàn
diện, khách quan thì mới có thể xác định được chính xác ý thức chủ quan của
người phạm tội đối với hậu quả chết người.
Ngoài sự khác nhau về ý thức chủ quan (lỗi) đối với hậu quả chết người,
hai tội phạm này còn khác nhau ở nguyên nhân dẫn đến hậu quả chết người
(quan hệ nhân quả). Cụ thể, hậu quả chết người ở trường hợp phạm tội giết
người là do chính hành vi tước đoạt sinh mạng của nạn nhân trực tiếp gây ra;
còn ở tội cố ý gây thương tích làm chết người thì hậu quả chết người xảy ra
không phải do hành vi cố ý gây thương tích gây ra mà do hậu quả thương tích
gây ra. Do vậy, giữa hậu quả thương tích và hậu quả chết người phải có mối
quan hệ nhân quả. Trong mối quan hệ này, hậu quả thương tích là nguyên nhân,
còn hậu quả chết người xảy ra là kết quả của hậu quả thương tích. Về vấn đề
này, TANDTC có giải thích, hướng dẫn như sau: “Thương tích dẫn đến chết
người trước hết là thương tích nặng làm cho nạn nhân chết vì thương tích nặng
này, nghĩa là giữa thương tích và cái chết của nạn nhân phải có mối quan hệ
nhân quả” [43].
Tóm lại, có nắm vững được những điểm khác nhau nêu trên thì định tội
danh mới chính xác, tránh nhầm lẫn tội này với tội khác.
1.1.3.2. Phân biệt tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh, do vượt quá phòng vệ
chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội.
Căn cứ vào quy định của BLHS năm 2015 cho thấy, ba tội phạm này có
nhiều điểm tương đồng (điểm giống) như:
Cả ba tội này người phạm tội đều có hành vi cố ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác; hậu quả thương tích hoặc hậu quả tổn
hại về sức khỏe được luật quy định là dấu hiệu bắt buộc thuộc mặt khách quan
với một tỷ lệ tổn thương cơ thể nhất định; giữa hành vi phạm tội và hậu quả của
15
tội phạm phải có mối quan hệ nhân quả… Tuy nhiên, ba tội phạm này khác nhau
ở những điểm cơ bản sau đây:
+ Thứ nhất, mức độ hậu quả (tỷ lệ tổn thương cơ thể)
Nếu ở tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người
khác quy định tại Điều 134 BLHS thì tỷ lệ tổn thương cơ thể của nạn nhân chỉ từ
11% trở lên thì đã xử lý hình sự; còn ở các tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác… quy định tại Điều 135 và Điều 136 thì tỷ lệ
tổn thương cơ thể của nạn nhân phải từ 31% trở lên mới xử lý hình sự.
+ Thứ hai, nạn nhân của tội phạm.
Nạn nhân của tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác (quy định tại Điều 134) là bất kỳ ai, còn nạn nhân của các tội quy
định tại Điều 135 và Điều 136 phải là người có hành vi trái pháp luật nghiêm
trọng đối với người phạm tội hoặc người thân thích của người phạm tội (Điều
135); hoặc phải là người có hành vi trái pháp luật xâm phạm lợi ích của Nhà
nước, của tổ chức, xâm phạm quyền, lợi ích chính đáng của người phạm tội hoặc
của người khác; hoặc là đối tượng phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã mà
người phạm tội đã dùng vũ lực để bắt giữ (Điều 136).
+ Thứ ba, dấu hiệu làm cho tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của
tội phạm giảm đi đáng kể.
Ở tội phạm quy định ở Điều 134 không có dấu hiệu làm cho tính chất của
tội phạm giảm đi đáng kể (tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đặc biệt)
nhưng hai tội quy định tại Điều 135 và Điều 136 có dấu hiệu này. Cụ thể, ở tội
phạm quy định tại Điều 135 có dấu hiệu “trong trạng thái tinh thần bị kích động
mạnh”. Theo Nghị quyết số 04/HĐTP ngày 29/11/1986 của Hội đồng thẩm phán
TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLHS thì: “trạng thái tinh
thần bị kích động mạnh là tình trạng người phạm tội không hoàn toàn tự chủ, tự
kiềm chế hành vi phạm tội của mình…” [42]. Khi thực hiện hành vi cố ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, người phạm tội phải
trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm
trọng của nạn nhân đối với họ hoặc đối với người thân thích của họ. Qua đây
cho thấy, nguyên nhân dẫn tới “trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” phải là
hành vi trái pháp luật (chủ yếu là trái pháp luật hình sự) của nạn nhân đối với
16
- Xem thêm -