Nghiên cứu sử dụng dầu thực vật làm nhiên liệu biodisel
M ở đầu
Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới đang bước vào toàn cầu hóa, mỗi một biến
động trên thế giới đều ảnh hưởng tới các quốc gia, trong đó có Việt Nam. Trong hai năm
trở lại đây thị trường xăng dầu luôn biến động, tăng giá liên tục, đã ảnh hưởng không
nhỏ tới nền kinh tế nước ta. Nguyên nhân là do sự biến động về chính trị, về nhu cầu sử
dụng; và đặc biệt là theo dự đoán của các nhà khoa học, trữ lượng của các loại nhiên
liệu hóa thạch trên thế giới đang cạn kiệt dần trong vòng 50 năm tới. Do đó, việc tìm
kiếm những nguồn nhiên liệu thay thế là một nhu cầu cấp thiết.
Dẫn xuất của dầu thực vật và dầu thực vật phế thải đang được các nhà khoa học
quan tâm và được coi là sự thay thế thích hợp cho nhiên liệu diesel truyền thống. Đây là
nguồn nguyên liệu mà con người có thể ti tạo được. Bên cạnh đó, nguồn nhin liệu thay
thế ny cịn có ý nghĩa to lớn trong vấn đề giảm ô nhiễm môi trường. Hiện nay, các nước
Châu Âu, Châu Mỹ và khu vực Đông Nam Á cũng rất quan tâm vào thử nghiệm và sản
xuất lọai nhin liệu mới ny.
Việt Nam chúng ta thuộc khu vực nhiệt đới nên dầu thực vật rất phong phú, nhu
cầu sử dụng dầu thực vật thay cho mỡ động vật của người dân ngày càng tăng. Vấn đề vệ
sinh an toàn thực phẩm cũng ngày càng được quan tâm đúng mức. Các loại dầu đã qua
sử dụng thải ra sẽ nhiều thêm. Vì vậy, việc đi sâu nghiên cứu khả năng sử dụng dầu thải
thực vật làm nhiên liệu biodiesel càng có ý nghĩa thực tế hơn.
Trang1
Sưu tầm bởi www.diendandaihoc.vn
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN
Trang2
Sưu tầm bởi www.diendandaihoc.vn
1.1. NHIÊN LIỆU DIESEL VÀ ĐỘNG CƠ DIESEL
1.1.1. Nhiên liệu diesel
1.1.1.1. Giới thiệu chung
Nhiên liệu diesel là một loại nhiên liệu lỏng, được sử dụng chủ yếu cho động cơ
diesel và một số loại turbine khí. Nhiên liệu diesel được sản xuất chủ yếu từ chưng cất
trực tiếp dầu thô với nhiệt độ phân cắt từ 2200C – 2400C đến 3600C – 3800C bao gồm các
hydrocarbon khác nhau từ C14 đến C20.
1.1.1.2. Nhu cầu sử dụng diesel
Cùng với sự gia tăng dân số và phát triển công nghiệp, nông nghiệp thì nhu cầu
tiêu thụ nhiên liệu diesel cũng ngày càng tăng. Nhin liệu diesel chủ yếu được sử dụng
cho các phương tiện dùng động cơ diesel như xe tải, xe bus, tuabin, tàu thủy, … Nhu cầu
tiêu thụ nhiên liệu diesel tại Việt Nam được trình by trong cc Bảng 1.1 v 1.2.
Bảng 1.1. Nhu cầu tiêu thụ dầu diesel qua các giai đoạn [5].
Sản phẩm
Tiêu thụ
(triệu tấn)
Mức tăng
%/năm
199
1
1992
1993 1994
1995
1996 1997
1.2
1.74
2.12
2.36
2.92
3.0
-
34.8
21.8
11.3
25.4
1.4
1998
1999
2000
3.15
3.25
3.58
3.74
5.0
3.2
10.2
4.5
Bảng 1.2. Nhu cầu tiu thụ nhin liệu tại Việt Nam trong các năm qua [5].
Đơn vị đo
1995
2000
2005
Tổng nhu cầu nhin liệu
Triệu tấn
4.2
5.5
7.5
Tỷ lệ nhin liệu diesel
%
46
47
47
Qua bảng phân tích ta thấy rằng nhu cầu tiêu thụ diesel tại Việt Nam rất cao,
chiếm gần 50% tổng nhu cầu nhiên liệu cần dùng. Theo dự báo, nhu cầu về nhiên liệu
diesel tại nước ta sẽ tăng gấp 2,5 lần vào năm 2020 (xem Bảng 1.3).
1.1.2. Động cơ diesel
1.1.2.1. Nguyên lý làm việc của động cơ diesel
Động cơ diesel làm việc theo nguyên tắc 4 kỳ: hút không khí, nén không khí, nổ,
xả. Piston đi từ trên xuống thực hiện quá trình hút không khí vào buồng đốt. Piston đi từ
Trang3
Sưu tầm bởi www.diendandaihoc.vn
dưới lên nén khối không khí với tỷ số nén cao và nhiệt độ không khí tăng cao. Sau đó,
nhiên liệu sẽ được phun dưới dạng sương vào khối không khí nóng này. Tiếp xúc với
không khí ở nhiệt độ cao, nhiên liệu sẽ tự bốc cháy. Quá trình này sinh công, giãn nở,
đẩy piston đi từ trên xuống. Sau đó, piston đi từ dưới lên đẩy khí thải ra ngoài.
1.1.2.2. Quá trình cháy trong động cơ
Quá trình cháy động cơ thường chia làm 3 giai đoạn:
Giai đoạn bắt cháy: nhiên liệu được phun vào bên trong buồng đốt dưới dạng hạt
sương mịn (nhưng ở trạng thái lỏng) lúc này trong buồng đốt đã có sẵn khí nén. Ngay tại
thời điểm này nhiệt độ trong buồng đốt đạt khoảng 5000C. Sau khoảng thời gian T(thời
gian bắt cháy) nhiên liệu bốc cháy. Khoảng thời gian này dài hay ngắn phụ thuộc nhiên
liệu và hệ thống phun nhiên liệu.
Giai đoạn cháy: giai đoạn này bắt đầu khi hỗn hợp nhiên liệu đồng nhất. Ngọn
lửa lan tràn nhanh chóng xuyên qua hỗn hợp dễ cháy được hình thành trong thời gian
cháy trễ, đó là nguyên nhân làm cho nhiệt độ, áp suất tăng nhanh chóng trong phòng đốt.
Tốc độ tăng áp suất trong buồng đốt thay đổi phụ thuộc hỗn hợp cháy hiện diện trong
buồng đột ngư thế nào. Vấn đề này phụ thuộc thời gian cháy trễ, tỷ lệ nhiên liệu và
không khí.
Giai đoạn xả: trong suốt giai đoạn cuối cùng, sự cháy liên tục nhưng được điều
chỉnh bởi tỉ lệ nhiên liệu có thể được hoà trộn với oxy. Ở quá trình này thì áp suất lên
chậm hơn và rồi giảm khi piston đi xuống. Khi nhiên liệu ngừng phun, sự cháy vẫn tiếp
tục cho đến khi nhiên liệu cháy hết.
1.1.2.3. Các hợp chất trong khí thải từ động cơ
Các hợp chất thải trong động cơ thường là khói thải, hydrocarbon, muội than, các
hợp chất lưu huỳnh, các hợp chất Nitơ và CO2.
1.1.2.3.1. Khói thải của động cơ: thường được chia làm 3 loại với sự phân biệt màu khác
nhau.
Khói trắng: được hình thành khi động cơ và không khí ở trạng thái nguội
lạnh. Tại nhiệt độ thấp thời gian cháy trễ tăng và quá trình cháy không
hoàn toàn. Kết quả trong hỗn hợp của nước và một phần nhiên liệu cháy
được thải ra ngoài như khói trắng. Khi động cơ nóng dần lên thì khói trắng
biến dần đi.
Trang4
Sưu tầm bởi www.diendandaihoc.vn
Khói đen: ta có thể thấy được, chính là của carbon và bồ hóng mà nó được
hình thành khi quá trình cháy không hoàn toàn. Điều này chỉ xuất hiện khi
không khí đưa vào không đủ.
Khói xanh: được hình thành khi dầu bôi trơn được đốt cháy trong buồng
đốt và thường gây bào mòn động cơ.
1.1.2.3.2. Hydrocarbon: trong điều kiện vận hành trên, việc dư không khí sẽ tạo rất ít
hydrocarbon.
1.1.2.3.3. Bồ hóng: tương tự như hydrocarbon, khói thải thì việc tạo thành bồ hóng là do
quá trình cháy không hoàn toàn. Vì vậy để xử lí hiện tượng này người ta
thường tăng thời gian cháy, tăng nhiệt độ cháy và sử dụng nhiên liệu ít hàm
lượng lưu huỳnh.
1.1.2.3.4. Các hợp chất nitơ, lưu huỳnh, v CO2:
Các hợp chất lưu huỳnh được hình thành do quá trình đốt cháy lưu huỳnh
trong nguyên liệu. Đây chính là nguyên nhân gây ra hiện tượng mưa acid.
Các hợp chất Nitơ được hình thành trong suốt quá trình cháy, ở nhiệt độ
cao thì hợp chất này được hình thành.
CO2 là hợp chất khá phổ biến hình thành trong quá trình cháy và là nguyên
nhân gây nên hiệu ứng nhà kính.
Mức độ phát sinh các chất thải trong động cơ còn tuỳ thuộc vào quá trình phun
nhiên liệu vào trong buồng đốt của động cơ. Lượng phát sinh chất thải từ qu trình đốt
cháy nhiên liệu được trình by trong Bảng 1.4.
Bảng 1.3. Mức độ phát sinh chất ô nhiễm trung bình của quá trình cháy nhiên liệu
hydrocarbon [5].
Chất ô nhiễm
Lượng phát sinh (g/kg nhiên liệu)
NOX
20
CO
200
HC
2.5
Bồ hóng
2–5
Trang5
Sưu tầm bởi www.diendandaihoc.vn
1.1.3. Chất lượng của nhiên liệu diesel
Nhằm đáp ứng các yêu cầu về sử dụng trong động cơ cũng như các tiêu chuẩn về
môi trường, nhiên liệu diesel phải thỏa mn một số chỉ tiu về chất lượng sản phẩm quy
định. Tuỳ theo điều kiện của mỗi nước mà có các tiêu chuẩn khác nhau (xem cc Bảng 1.5
v 1.6).
Bảng 1.4. Tiêu chuẩn nhiên liệu diesel ở Ấn Độ IS : 1460 – 1974 [5].
Chỉ tiêu
Acid tổng, max
Cặn Carbon (Ramsbotton), max
Đơn vị
Mức quy định
mgKOH/g
0.5
%kl
0.2
-
42
C
6
-
1A
Chỉ số cetan, min
0
Điểm chảy, max
Độ ăn mòn đồng 3h tại 1000C
Điểm chớp cháy cốc kín, min
0
C
38
Độ nhớt, 380C
cSt
2 – 7.5
Lưu huỳnh tổng, max
%kl
1
Hàm lượng nước, max
%tt
0.05
Bảng 1.5. Tiêu chuẩn nhiên liệu diesel ở Việt Nam : TCVN 5689 : 1998.[5]
Mức quy định
Chỉ tiêu
Chỉ số Cetan, min
Hàm lượng lưu huỳnh, max
Nhiệt độ cất 90%, max
Điểm chớp cháy cốc kín, min
Độ nhớt động học 400C
Căn carbon 10%, max
Phương pháp thử
Đơn vị
D.976
DO
0.5%S
DO
1%S
50
45
D.129, D2622
%kl
0.5
1.0
TCVN2698 – 95
%tt
370
370
C
60
50
D.445
cSt
(mm2/s)
1.8 – 5.0
1.8 –
5.0
D.198/TCVN –
%kl
0.3
0.3
D.96/TCVN2693 –
95
0
Trang6
Sưu tầm bởi www.diendandaihoc.vn
6324
Điểm đông đặc
D.94TCVN3753 –
95
Phía bắc
0
C
Phía nam
D.492/TCVN2690–
95
Hàm lượng tro, max
Nước và tạp chất cơ học, max
An mòn miếng
3h/500C, max
đồng
Nhựa thực tế
1.2.
D.2709
%tt
ở D.130/TCVN2694–
95
TCVN3178 - 79
+5
+5
+9
+9
0.01
0.01
0.05
0.05
n-1
n-1
mg/100m
l
DẦU THỰC VẬT
1.2.1. Khái quát chung về dầu thực vật
Dầu thực vật là một nguồn nguyên liệu quan trọng trong công nghiệp và thực phẩm. Từ
dầu thực vật, người ta có thể điều chế được rất nhiều sản phẩm khác nhau. Hiện
nay, một lượng lớn dầu thực vật được sử dụng trong thực phẩm, chế biến xà
phòng, chất hoạt động bề mặt và rất nhiều sản phẩm hữu dụng khác. Phần lớn các
loại dầu thực vật được sản xuất từ các loại hạt của các cây tương ứng (trừ một số
loại như dầu dừa, cọ…) bằng cách làm khô, nghiền, nấu, v ép cơ học hoặc chiết
để tách dầu ra. Sau đó, dầu cần được trải qua một số công đoạn sử lý như lọc tạp
chất, xử lý kiềm, … mới có thể sử dụng.
Dầu thực vật rất phong phú (xem Bảng 1.7), nhưng phân bố không đều. Các nước
như Mỹ, Nga, Ấn Độ, … có dầu đậu nành, dầu lanh, … Các quốc gia vùng Địa Trung
Hải cĩ nhiều dầu oliu. Các nước vùng nhiệt đới như các quốc gia Đông Nam Á, Châu Phi
có nhiều dầu cọ, dầu dừa, …
Bảng 1.6. Liệt kê một số loại dầu thực vật trên thế giới.[7]
STT
Tên
Loài
Khối lượng
riêng
Chỉ số xà
phòng hoá
Chỉ số
Iốt
D15/15 (g/cm3)
1
Bông (hạt)
Gossypium
hirsutum
0,920 - 0,926
189 - 199
100 - 200
2
Cải bẹ (hạt)
Brasica Annuus
0,920 – 0,917
170 – 188
92 – 123
Trang7
Sưu tầm bởi www.diendandaihoc.vn
3
Cám
Oryza sativa
0,914 – 0.928
180 – 195
91 – 110
4
Cọ (cùi)
Elaeis guineensis
0,915
196 – 206
51 – 58
5
Cọ (nhân)
Elaeis guineensis
0,918 – 0,925
284 – 250
23 – 37
6
Cao su ( hạt)
Hevea brasillensis
0,923 – 0,924
183 – 190
125 – 145
7
Dọc
Garcinia tonkiness
0,912 – 0,913
176
64 – 86
8
Dừa
Cocos nucifera
0,917 – 0,930
246 – 268
7,5 – 12
9
Đậu nành
Glycinemax
(G.soja)
0,922 – 0,928
188 – 195
120 – 140
10
Gai dầu
Caunabis sativa
0,929 – 0,934
190 – 194
145 – 167
11
Hướng
dương
Heliauthus Annuus
0,923 – 0,926
186 – 194
120 – 135
12
Lạc
Arachis hypogaca
0,194 – 0,926
187 – 207
83 – 105
13
Lai
Aleurites
moluccana
0,925 – 0,930
180 – 193
130 – 145
14
Ngô (phôi)
Zea mys
0,921 – 0,928
187 – 193
115 – 125
15
Lanh
Linum
usitatissinum
0,930 – 0,938
188 – 195
170 – 204
16
Oliu
Olea europea
0,914 – 0,918
185 – 196
79 – 88
17
Thầu dầu
Ricinus communis
0,957 – 0,967
177 – 185
81 – 90
18
Trẩu
Aleurites montana
0,925 – 0,943
185 – 197
145 – 176
19
Sở
Thea sasaqua
0,916
190 – 195
85 – 90
20
Vừng
Sesamum indicum
0,914 – 0,925
187 – 195
103 - 116
1.2.2. Thành phần của dầu thực vật:
Dầu thực vật có thành phần chủ yếu (95%) là hỗn hợp các ester của gylcerin với
các acid béo cao phân tử (tryglyceride), trong đó tính chất của dầu phụ thuộc vào thành
phần của các mạch acid béo cũng như sự phân bố của chúng trong các triglyceride. Mặc
dù thành phần của dầu có sự dao đông nhất định phụ thuộc vào các điều kiện khí hậu ở
vùng trồng hạt dầu nhưng nhìn chung các tính chất cơ bản của dầu tương đối ổn định.
Thông thường các loại dầu thường ở thể lỏng tại điều kiện nhiệt độ thường. Thể lỏng là
do các acid béo ngắn hoặc dây acid béo dài nhưng mang nhiều nối đôi. Ngoài glyceride
Trang8
Sưu tầm bởi www.diendandaihoc.vn
trong dầu còn chứa một lượng nhỏ rất nhiều tạp chất khác nhau: các acid béo tự do, chất
màu, phosphatide, protein, hydrocacbon…
Công thức tổng quát của tryglyceride như sau:
CH2 – OCOR1
CH2 – OCOR2
CH2 – OCOR3
Các acid béo trong các triglyceride và các acid béo tự do tồn tại trong dầu thực vật
thường có dạng mạch thẳng, có số carbon chẵn, từ C6 đến C24 và thường không chứa
nhóm định chức khác trên dây nhưng có thể mang một vài nối đôi C=C, dẫn đến sự khác
biệt về bản chất của các loại dầu. Chỉ có một số ít trường hợp acid có thêm dây nhnh
hoặc chứa nhóm – OH, vòng peroxide, hoặc vòng cyclopentane, …
Acid béo có 2 loại: acid béo no và không no:
Acid béo no thường gặp là: acid caproic (C6), acid capilic (8), acid capric (C10),
acid miistic (C14), acid paltimic (C6), acid stearic (C8).
Acid béo không no thường gặp là: acid oleic, acid linoleic, acid arachidomic,…
Trong dầu thực vật, acid béo C18 thường chiếm nhiều nhất, trừ một vài trường hợp
có tỉ lệ acid C12 lớn nhất như: dầu dừa, dầu cọ, … Chính các acid béo quyết định phần
lớn đặc trưng hoá lý của dầu thực vật. Mạch acid béo càng dài, no thì nhiệt độ nóng chảy
của dầu càng cao, áp suất hơi càng kém, do đó ít có mùi. Cùng một chiều dài mạch
cacbon, acid béo có chứa nhiều nối đôi thì nhiệt độ nóng chảy càng thấp (xem Bảng 1.7).
Phần lớn các acid béo có mạch dài cấu tạo nên triglyceride của dầu thực vật. Đó chính là
nguyên nhân dẫn đến dầu thực vật không tan trong nước, ít tan trong rượu có mạch ngắn
như methanol. Thành phần acid béo trong một số loại dầu thực vật được trình by trong
Bảng 1.8.
Bảng 1.7. Các acid béo có trong thành phần các loại dầu .[7]
Tên thông
dụng
Công thức cấu tạo
Tonc(oC
)
Tỉ
trọng
Acid béo no
Blau ric
CH3(CH2)10COOH
44
-
Panmitic
CH3(CH2)12COOH
63
0,849
Stearic
CH3(CH2)16COOH
70
0,847
Trang9
Sưu tầm bởi www.diendandaihoc.vn
Acid béo không no
Oleic
CH3(CH)7CH=CH(CH2)7COOH
14
0,900
Linileic
CH3(CH2)CH=CHCH2CH=(CH2)7COOH
-9.5
0,903
Linolenic
CH3(CH2CH=CH)3(CH2)7COOH
-11
0,914
Eleostearic
CH3(CH2)5CHCH2CH=CH(CH2)7COOH
-
-
Ricinoleic
CH3(CH2)5CHCH2CH=CH(CH2)7COOH
5
0,954
OH
Bảng 1.8. Thành phần acid béo trong một số loại dầu thực vật.[7]
Thành phần acid béo (% khối lượng)
12:0
14:0
16:0
18:0
18:1
18:2
18:3
22:1
Dừa
44-51
13-18
7.5-10
1-3
5-8.2
1.0-2.6
-
-
Cám
-
7-13
2.5-3
30-43
39-52
1
-
Cotton
-
22-24
2.6-5
19
50-52
-
-
Lanh
-
6
3.2-4
13-37
5-23
26-60
-
Olive
-
1.3
7-18
1.4-3.3
55-85
4-19
-
-
Cọ
-
0.62.4
32-46
4-6.3
37-53
6-12
-
-
Đậu phộng
-
0.5
6-12.5
2.5-6
37-61
13-41
-
-
Cải
-
1.5
1-4.7
1-3.5
13-18
9.5-22
1-10
40-64
Đậu nành
-
2.3-11
2.4-6
22-31
49-53
2-10.5
-
-
3.5-6.5
1.3-5.6
14-43
44-69
-
-
Hướng
dương
0.81.5
Ngoài ra, dầu thực vật còn chứa một lượng nhỏ các tạp chất như:
Photpholipit: những hợp chất này còn là Photphalit, chiếm tỉ lệ thấp hơn 3% như:
lexitin, xephalin, …
Sáp: là ester của acid béo có dây Carbon dài thường từ 240C đến 260C với một
rượu đơn chức hoặc đa chức.
Trang10
Sưu tầm bởi www.diendandaihoc.vn
Sterol: một số dầu thực vật chứa 100mg đến 150mg sterol trong 100g dầu thực
vật.
Các chất màu như: carotenoit, clorophil,…chính các chất này tạo sắc tố màu cho
dầu từ vàng đến đỏ.
Các chất oxy hoá có mục đích bảo vệ dầu như: tocopherol.
1.2.3. Ứng dụng của dầu thực vật:
Về mặt sinh lý, chất béo là những chất cơ bản không thể thiếu trong quá trình cấu
thành tế bào và đảm bảo cho các hoạt động sinh lý trong cơ thể con người. Giá trị dinh
dưỡng của chất béo thể hiện ở chỗ nó là loại thực phẩm có năng lượng cao. Do đó, trong
cơ thể, dinh dưỡng chất béo được chuyển hoá và cung cấp năng lượng cho cơ thể hoạt
động và bù đắp lại sự giảm thân nhiệt do ảnh hưởng của các yếu tố bên ngoài.
Trong y học, chất béo có quan hệ trực tiếp đến sự sống của vật chất, đặc biệt là
dầu thực vật. Nhiều loại acid béo và dẫn xuất của nó có trong dầu thực vật có hoạt tính
sinh học cao. Một số loại dầu thực vật còn được trực tiếp làm thuốc và biệt dược. Trong
công nghiệp, dầu thực vật là nguồn nguyên liệu quan trọng cho nhiều ngành như: thực
phẩm, công nghiệp sản xuất các chất tẩy rửa, công nghiệp chất dẻo, công nghiệp sợi, da,
cao su nhân tạo, dùng trong sơn, verni, keo, mực in, chất tạo nhũ, chất thấm ướt, vật liệu
cách điện, phụ gia cho dầu bôi trơn, … Tóm lại, dầu thực vật không thể thiếu trong đời
sống và sản xuất.
Hiện nay, một lĩnh vực ứng dụng mới của dầu thực vật hiên đang được nghiên
cứu trong việc sử dụng để sản xuất nhiên liệu thay thế cho nhiên liệu diesel, dùng làm
chất bôi trơn thay cho các loại dầu nhờn có nguồn gốc từ dầu mỏ …
Bắt đầu từ thập kỷ 80 thế giới đã nghiên cứu việc sử dụng dầu thực vật thay thế
cho nhiên liệu diesel. Đặc biệt trong những năm gần đây, vấn đề này càng được phát
triển mạnh và được tiến hành nghiên cứu ở nhiều quốc gia. Một số loại dầu thực vật đã
được thử nghiệm trên thế giới như dầu cải, dầu lạc, dầu hướng dương, dầu đậu nành, dầu
cọ, … Do các loại dầu thực vật có khối lượng riêng, độ nhớt cao hơn và tính bay hơi kém
hơn, nhiệt trị và chỉ số cetan thấp hơn nhiên liệu diesel một ít nên thích hợp sử dụng cho
động cơ diesel.
Viêc sử dụng dầu thực vật nguyên chất hoặc phối trộn dầu thực vật với diesel làm
nhiên liệu đã được thử nghiệm từ rất lâu với tỷ lệ 20%, 50%, 100% dầu thực vật. Kết quả
thử nghiệm cho thấy nếu sử dụng trực tiếp dầu thực vật thì công suất động cơ giảm đi
một ít, suất tiêu hao nhiên liệu cao hơn, độ khói khí xả, hàm lượng oxit carbon cao hơn,
Trang11
Sưu tầm bởi www.diendandaihoc.vn
hàm lượng hidrocarbon không cháy thấp hơn nhưng lượng oxit nitơ cao hơn so với
trường hợp sử dụng toàn bộ nhiên liệu diesel. Tuy nhiên, khi sử dụng trực tiếp như thế
thì gặp phải những khó khăn ở bộ phun nhiên liệu và động cơ.
1.2.4. Một số tính chất hoá học của dầu thực vật:
1.2.4.1.
Phản ứng xà phòng hoá
Các triglyceride khi phản ứng với kiềm sẽ tạo thành muối xà phòng (muối của các
acid béo) và glycerin.
CH2 – OCOR1
CH2 – OCOR2
CH2 – OH
+ 3NaOH
D
CH2 – OCOR3
1.2.4.2.
CH2 – OH
R1COONa
+
R2COONa
CH2 – OH
R3COONa
Phản ứng thuỷ phân
Tryglyceride bi thuỷ phân trong nước tạo thành acid béo và glycerine, phản ứng
cần có sự hiện diện của xúc tác (base, acid…)
CH2 – OCOR1
CH2 – OCOR2
CH2 – OH
Xúc tác
+ 3H2O
D
CH2 – OH
CH2 – OCOR3
1.2.4.3.
R1COOH
+
R2COOH
CH2 – OH
R3COOH
Phản ứng alcol phân
Tương tự phản ứng thuỷ phân, tryglyceride khi tác dụng với alcol với sự có mặt
của xúc tác thích hợp sẽ bị thuỷ phân tách thành glycerine và ester của các acid béo với
ancol tham gia.
CH2 – OCOR1
CH2 – OCOR2
+
RCOOR’
CH2 – OH
Xúc tác
3R’OH
CH2 – OCOR3
1.2.4.4.
D
CH2 – OH
CH2 – OH
Phản ứng khử
Trang12
Sưu tầm bởi www.diendandaihoc.vn
RCOOR’
+
RCOOR’
Khi có mặt của xúc tác cromit đồng ở 200 – 4000C dưới áp suất 100 – 200 atm,
tryglyceride bị khử thành rượu. Đây là phản ứng dùng để điều chế rượu béo từ dầu mỡ.
RCOOR’
1.2.4.5.
+
H2
D
CH2OH
+
R’OH
Phản ứng làm ôi dầu
Trong quá trình tồn trữ, bảo quản dầu có thể bị biến đổi màu sắc, mùi vị. Hiện
tượng này gọi là phản ứng làm ôi dầu. Nguyên nhân gây ra do ảnh hưởng của tạp chất
trong dầu, nước, vi sinh vật, men, các muối kim loại, … Việc tìm các biện pháp chống sự
ôi của dầu hiện nay là một vấn đề quan trọng cần nghiên cứu giải quyết.
1.2.4.6.
Phản ứng đồng hoá
Trong điều kiện thích hợp, các acid béo không no có trong dầu sẽ thực hiện phản ứng
cộng hợp với một số chất khác. Một trong những phản ứng quan trọng nhất là phản ứng
hydro hoá, phản ứng tiến hành trong điều kiện nhiệt độ 90 – 2800C, áp suất 6 – 10 atm,
có mặt xúc tác Ni. Phản ứng này có ý nghĩa thực tế rất quan trọng trong việc chuyển dầu
dạng lỏng sang dạng rắn. Trong những điều kiện thích hợp, dầu có acid béo không no có
thể cộng hợp với halogen. Người ta ứng dụng một số phản ứng cọng hợp của halogen
vào phân tích.
1.2.4.7.
Phản ứng oxy hoá
Phản ứng xảy ra tại các nối đôi của acid béo không no. Tuỳ theo bản chất của chất
oxy hoá và điều kiện phản ứng mà tạo thành các sản phẩm oxy hoá khác nhau, như các
peroxide, ceton, acid…
1.2.4.8.
Phản ứng trùng hợp
Ở điều kiện thích hợp, các nối đôi có thể tham gia phản ứng trùng hợp. Sản phẩm
là các hợp chất là các hợp chất cao phân tử.
1.3. DẦU ĂN PHẾ THẢI
1.3.1. Thành phần hoá học của dầu ăn phế thải
Tương tự như dầu thực vật, dầu ăn phế thải có thành phần chính là triglycerit,
ngoài ra còn có một lượng nhỏ acide béo tự do. Thành phần acid béo trong dầu ăn phế
thải không thay đổi nhiều so với dầu nguyên chất (xem Bảng 1.10).
Trang13
Sưu tầm bởi www.diendandaihoc.vn
Bảng 1.9. So sánh thành phần dầu ăn phế thải và thành phần dầu ăn nguyên
chất.[4]
Thành phần acid béo (% khối
lượng)
Đơn vị tính
Dầu dừa
Dầu dừa phế
thải
C6:0
%
0.03
1.3131
C8:0
%
6.11
9.9753
C 10 : 0
%
5.94
7.3156
C 12 : 0
%
52.29
49.5915
C 14 : 0
%
17.56
16.2820
C 15 : 0
%
0
0
C 16 : 0
%
8.22
7.3434
C 16 : 1
%
0
0
C 18 : 0
%
2.11
2.0109
C 18 : 1
%
6.28
4.8262
C 18 : 2
%
1.45
1.3420
1.3.2. Tính chất hoá lý của dầu ăn phế thải
Qua bảng phân tích thành phần ta thấy thành phần dầu ăn phế thải không khác
nhiều so với dầu nguyên chất. Vì vậy tính chất hoá lý của dầu nguyên chất không khác
nhau lắm so với dầu phế thải (xem bảng 1.11). Do đó, dầu ăn phế thải cũng có thể được
sử dụng làm nguyên liệu để sản xuất biodiesel.
Bảng 1.10: Tính chất hoá lý của dầu ăn phế thải và dầu ăn nguyên chất.[5]
Tính chất
Đơn vị
Dầu dừa nguyên
chất
Dầu dừa phế thải
Tỉ trọng ở 400C
-
0.22
0.176
Độ nhớt ở 400C
mm2/g
4.17
8.39
Chỉ số axide
mgKOH/g
4.74
8.639
Chỉ số Iod
g/100g
9.15
8.5657
Chỉ số xà phòng hoá
mgKOH/g
255.57
270.0
Trang14
Sưu tầm bởi www.diendandaihoc.vn
Điểm chớp cháy
0
C
287.25
243
Điểm vẩn đục
0
C
25
16.5
Điểm chảy
0
C
22
14
1.4. CÁC PHƯƠNG PHÁP LÀM GIảM Độ NHớT CủA DầU THựC VậT
Theo quan điểm sử dụng động cơ thì điểm khác biệt cơ bản giữa dầu thực vật so
với nhiên liệu diesel chính la độ nhớt. Ở 400C, độ nhớt dầu thực vật lớn gấp 10 lần
diesel, gây khó khăn trong quá trình phun nhiên liệu, tạo cặn đầu phun. Những phương
pháp sau đã được sử dụng để làm giảm độ nhớt của dầu thực vật.
1.4.1. Phương pháp sấy nóng
Độ nhớt dầu thực vật giảm khi nhiệt độ tăng, bởi vậy sấy nóng có thể coi là một
phương pháp làm giảm độ nhớt của dầu thực vật.
Khi động cơ diesel làm việc ở chế độ ổn định thì nhiệt độ nhiên liệu ở sau bơm
cao áp thay đổi trong phạm vi 350C - 450C. Trong khoảng nhiệt độ này thì độ nhớt của
dầu thực vật thay đổi từ 25 – 35 mm2/s. Độ nhớt của dầu thực vật, ví dụ như dầu đậu
nành lúc này còn cao hơn khoảng 10 lần độ nhớt của nhiên liệu diesel. Để đạt tới độ nhớt
của nhiên liệu diesel thì cần tăng nhiệt độ của dầu thực vật lên 800C bởi vì độ nhớt giảm
rất ít khi nhiệt độ lớn hơn 500C. Tuy nhiên tăng nhiệt độ nhiên liệu lên quá cao làm giảm
thay đổi trạng thái nhiệt và ảnh hưởng xấu đến hệ thống cấp nhiên liệu. Ngoài ra, phương
pháp này không cải thiện được các chỉ tiêu khác của dầu thực vật như: chỉ số cetan,
nhiệt trị, …
1.4.2. Phương pháp pha loãng
Pha loãng là phương pháp đơn giản làm giảm độ nhớt. Có thể sử dụng nhiên liệu
diesel để pha loãng dầu thực vật. Ở 400C, độ nhớt của dầu thực vật thường cao hơn độ
nhớt nhiên liệu diesel 10 lần. Pha loãng dầu thực vật bằng nhiên liệu diesel sẽ nhận được
dạng nhiên liệu mới từ dầu thực vật. Đây là một hỗn hợp cơ học giữa nhiên liệu diesel
và dầu thực vật, hỗn hợp này đồng nhất và bền vững. Pha loãng không chỉ làm giảm độ
nhớt của dầu thực vật mà còn cải thiện được các chỉ tiêu khác của dầu thực vật.
Nhược điểm:
Độ nhớt vẫn còn lớn hơn so với nhiên liệu diesel
Trang15
Sưu tầm bởi www.diendandaihoc.vn
Dầu còn có chứa các acide tự do do đó có thể hình thành nhựa bởi sự oxy hoá và
polyme hoá trong suốt quá trình tồn trữ và đốt cháy, tạo cặn cacbon và làm đặc dầu
bôi trơn
1.4.3. Phương pháp cracking
Có thể hình dung quá trình cracking dầu thực vật giống với quá trình cracking dầu
mỏ. Nguyên tắc cơ bản của quá trình chưng cất là cắt ngắn mạch hydrocacbon của dầu
thực vật bằng tác động của nhiệt và xúc tác thích hợp. Sản phẩm của quá trình thông
thường bao gồm nhiên liệu khí, xăng, nhiên liệu diesel và một số sản phẩm phụ khác.
Bảng 1.11. Một số tính chất của sản phẩm cracking dầu đậu nành.[5]
Tính chất hoá lý
Dầu đậu nành
Dầu nành sau khi cracking
Chỉ số cetan
38
43
Nhiệt lượng(MJ/kg)
39.3
40.6
Độ nhớt ở 380C,cSt
32.6
7.74
Như vậy, phương pháp cracking dầu thưc vật không những làm giảm độ nhớt của
dầu thực vật mà còn cải thiện được các chỉ tiêu khác của thực vật như làm tăng trị số
cetan, giảm khối lượng riêng, tăng nhiệt trị, … Nhược điểm cơ bản của phương pháp này
là tốn năng lượng, sản phẩm thu được gồm nhiều dạng nhiên liệu và đặc biệt là nó khó
thực hiện ở quy mô nhỏ.
1.4.4. Phương pháp nhũ tương hoá
Nguyên liệu ban đầu là dầu thực vật, rượu và chất tạo sức căng bề mặt. Với thiết
bị tạo nhũ có thể tạo ra nhũ tương dầu thực vật – rượu trong đó các hạt rượu có kích
thước hạt khoảng 150nm được phân bố đều trong nhũ tương.
Nhược điểm: kim phun bị kết dính, phun không đều đặn, bám cặn carbon nặng,
cháy không hoàn toàn và tăng độ nhớt của dầu bôi trơn. Vì vậy, động cơ hoạt động
không ổn định khi làm việc theo thời gian dài.
1.4.5. Phương pháp alcol phân
Ester hoá dầu thực vật là phương pháp được quan tâm nhiều hơn trong những năm
gần đây. Nguyên liệu ban đầu là dầu thực vật và rượu. Điều kiện phản ứng đơn giản, có
thể thực hiện ở quy mô nhỏ. Bên cạnh đó sản phẩm quá trình alcol phân đáp ứng được
tiêu chuẩn về: độ nhớt, chỉ số cetan, nhiệt trị.
Phương trình phản ứng alcol phân :
Trang16
Sưu tầm bởi www.diendandaihoc.vn
CH2COOR1
CHCOOR2
CH2OH
+
3ROH
D
CHOH
CH2COOR1
1.5.
CH2OH
R1COOR
+
R2COOR
R3COOR
BIODIESEL
1.5.1. Lịch sử pht triển của nhin liệu biodiesel
Biodiesel là từ chuyên môn chỉ loại nhiên liệu dùng cho động cơ diesel được làm
từ dầu thực vật hoặc methyl ester của dầu thực vật hay mỡ động vật sau đó được trộn lẫn
với nhiên liệu diesel truyền thống. Nó được định nghĩa như sau: “Biodiesel là monoalkyl
ester của axít béo mạch dài có nguồn gốc từ dầu thực vật hoặc mỡ động vật, được sử
dụng cho động cơ diesel”.
Cách đây hơn 100 năm, nhà phát minh Rudolf Diesel đ pht minh ra động cơ chạy
bằng dầu thực vật. Vào những năm 1930 và 1940, dầu thực vật được sử dụng như là
nhiên liệu diesel nhưng chỉ được sử dụng trong tình trạng khẩn cấp. Bắt đầu từ năm
1980, có nhiều cuộc tranh ci lớn về việc sử dụng dầu thực vật lm một nhin liệu. Cũng vo
năm 1980, Caterpilla Brazil đ sử dụng hỗn hợp 10% dầu thực vật cho động cơ diesel mà
không có sự thay đổi cũng như thay thế gì. Tại thời điểm này, chưa có một thực hành nào
sử dụng 100% dầu thực vật để thay thế cho nhiên liệu diesel, nhưng hỗn hợp pha trộn
20% dầu thực vật với 80% dầu diesel đ mang lại thnh cơng rực rỡ [1,2]. Một thời gian
ngắn sau đó, người ta đ tiến hnh thử nghiệm đến tỷ lệ 50/50.
Tháng 8 năm 1982, Hội nghị đầu tiên của thế giới về việc sử dụng dầu thực vật
như là nhiên liệu được diễn ra tại Fargo, phía nam Dakota. Năm 1982 là năm đáng được
ghi nhận vì đây cũng chính là năm bắt đầu dử dụng dầu ăn phế thải, cũng là thời điểm
Viện Hóa Hữu Cơ của Graz (Áo) đầu tiên sử dụng ester của dầu hạt cải. Năm 1985, thí
điểm đầu tiên trên thế giới sản xuất methyl ester dầu hạt cải được thực hiện tại trường
Nông Nghiệp Silberberg, Styria (Áo). Năm 1987, thử nghiệm trên động cơ đo hàm lượng
khói thải của methyl ester dầu ăn phế thải được tiến hành tại AVL List Gmble, Graz.
Trong những năm 1989 – 1990, dự án đầu tư của chính phủ Áo về “Sản xuất biodiesel
chất lượng cao từ dầu ăn phế thải” được thực hiện. Năm 1994, biodiesel từ dầu ăn phế
thải được bắt đầu đưa vào sản xuất công nghiệp tại Mureck, Áo. Năm 1995, thành công
trong việc sản xuất methyl ester với hiệu suất 100% đ được công bố. Năm 1998, dự án
sản xuất biodiesel từ nguồn nguyên liệu mỡ động vật chứa 20% hàm lượng axít béo được
Trang17
Sưu tầm bởi www.diendandaihoc.vn
thành lập. Đến năm 2003, có 4 quy trình tin tiến cho việc sản xuất biodiesel từ dầu thực
vật v dầu ăn phế thải đ được cơng bố.
1.5.2. Tình hình nghiên cứu và ứng dụng nhiên liệu thay thế trn thế giới v Việt Nam
Việc tìm kiếm nguồn nhiên liệu mới thay thế nhiên liệu diesel từ dầu mỏ cho động
cơ diesel ngày càng trở nên quan trọng và cấp thiết, đặc biệt, cuộc khủng hoảng năng
lượng vào cuối thập niên 70, đầu thập niên 80. Dầu thực vật và dẫn xuất của chúng được
coi là sự thay thế thích hợp nhiên liệu diesel truyền thống. So với dầu thực vật, biodiesel
có độ nhớt thấp hơn và chỉ số cetan cao hơn. Bên cạnh yếu tố thuận lợi là chủ động được
nguồn nhiên liệu trong nước, nhiên liệu thay thế còn có ý nghĩa rất to lớn trong vấn đề ô
nhiễm môi trường. Vì vậy, một số nước đã khuyến khích việc sử dụng nhiên liệu
biodiesel.
Tại Việt Nam, việc điều chế và thử nghiệm nhiên liệu biodiesel từ dầu thực vật
bắt đầu được quan tâm từ những năm 1980. Công trình lớn nhất được công bố có lẽ là
luận án Tiến sĩ của tác giả Nguyễn Đức Minh vào năm 1997 [12]. Trong công trình này,
tác giả đã so sánh các tính năng kĩ thuật của nhiên liệu diesel có pha dầu đậu nành với
các hàm lượng 10, 20, …, 100% với nhiên liệu diesel truyền thống. Ngoài ra, tác giả
cũng đã thử nghiệm điều chế nhiên liệu biodiesel bằng phương pháp ester hoá dầu đậu
nành với ethanol, sử dụng xúc tác NaOH, nhiệt độ phản ứng khoảng 50 – 650C, thời gian
phản ứng 6 – 7 giờ.
Trong khoảng 5 năm gần đây, các nghiên cứu về điều chế nhiên liệu biodiesel từ
dầu thực vật phế thải đã được thực hiện ở Hà Nội (Trung tâm Khoa học Tự nhiên và
công nghệ Quốc Gia) và Tp. Hồ Chí Minh (Đại học Quốc Gia Tp. Hồ Chí Minh). Các
nghiên cứu này chủ yếu đi theo hướng điều chế biodiesel bằng phương pháp ester hoá.
Từ năm 2000, một số nhóm nghiên cứu ở Viện Hoá Học, Viện Môi Trường (Trung tâm
Khoa học Tự nhiên và Công nghệ Quốc Qia) và ở trung tâm Khoa Học Môi Trường và
phát triển bền vững thuộc Đại học Quốc Gia Hà Nội bắt đầu nghiên cứu công nghệ siêu
âm để điều chế nhiên liệu biodiesel từ dầu thực vật.
Từ năm 2001, nhóm nghiên cứu thuộc Bộ môn Công nghệ Chế biến Dầu khí và
Trung tâm Lọc – Hoa dầu (trường Đại học Bách Khoa Tp. Hồ Chí Minh) đã bắt đầu
nghiên cứu khả năng sản xuất biodiesel từ các nguồn dầu thực vật.
Tác giả Trương Quốc Vương [5] đã khảo sát khả năng pha trộn trực tiếp dầu thực
vật và dầu diesel để thay thế dầu diesel. Nguồn nguyên liệu sử dụng là dầu dừa hoặc dầu
đậu phộng. Kết quả cho thấy rằng hỗn hợp pha trộn 3% thể tích dầu dừa và 97% thể tích
diesel hoặc hỗn hợp 2% dầu đậu phộng và 98% dầu diesel có thể được sử dụng như
Trang18
Sưu tầm bởi www.diendandaihoc.vn
nguồn nhiên liệu thay thế cho nhiên liệu diesel truyền thống. Đây là một phương pháp
đơn giản và có thể dễ dàng thực hiện ở quy mô sản xuất lớn hoặc nhỏ. Rõ ràng, khả năng
sử dụng trực tiếp nguồn nguyên liệu dầu thực vật là khả thi. Tuy nhiên, lượng dầu thực
vật sử dụng vẫn còn quá ít, và lượng diesel truyền thống dùng trong hỗn hợp nhiên liệu
vẫn còn quá cao. Một trong những nguyên nhân của điều này là do độ nhớt của dầu thực
vật quá cao dẫn đến những bất lợi trong quá trình phun nhiên liệu và đốt cháy. Vì vậy,
chúng ta cần phải biến tính dầu thực vật trước khi đưa vào sử dụng. Trên cơ sở phân tích
các ưu nhược điểm của các phương pháp sản xuất biodiesel đang được sử dụng hiện nay,
phương pháp biến tính dầu thực vật bằng phản ứng chuyển methyl ester hoá đã được lựa
chọn để khảo sát.
Tác giả Nguyễn Thị Hồng Nơ [1] đã nghiên cứu tổng hợp biodiesel từ nguồn
nguyên liệu dầu dừa trên cơ sở thực hiện phản ứng chuyển metyl ester hoá giữa các
tryglyxerit có trong dầu dừa và methanol trên xúc tác rắn SO4.SnO2 tự tổng hợp. Điều
kiện thích hợp cho quá trình điều chế xúc tác như sau:
Nhiệt độ nung: 8000C
Thời gian sulfate hoá: 2h
Độ pH 8
Nồng độ H2SO4: 4M
Điều kiện thích hợp cho phản ứng để đạt hiệu suất ester hoá 26,4%:
Nhiệt độ: 650C.
Tỷ lệ mol methanol : dầu: 10 : 1.
Tỷ lệ xúc tác/dầu: 6%.
Thời gian phản ứng: 10h.
Ưu nhựơc điểm của xúc tác SO4.SnO2 :
Sản phẩm dễ tách lớp:
Không có quá trình rửa sản phẩm nên không tạo ra chất thải gây ô nhiêm môi
trường.
Là xúc tác dễ điều chế và rẻ tiền.
Phản ứng khi tiến hành ở nhiệt độ thường thì hiệu suất phản ứng không cao. Ở
đây ta bi giới hạn bởi nhiệt độ sôi của methanol ở áp suất thường.
Trang19
Sưu tầm bởi www.diendandaihoc.vn
Trong nỗ lực nâng cao hiệu suất của quá trình chuyển methyl ester hoá dầu dừa,
các tác giả Phạm Hoàn Vũ [6] và Đào Đức Phú [7] đã thay thế xúc tác rắn axit bằng xúc
tác rắn kiềm. Ở đây, tác giả sử dụng K2CO3/Al2O3 tự điều chế như là xúc tác. So với xúc
tác rắn axit SO4.SnO2 sử dụng ở trên, xúc tác rắn kiềm này đã nâng hiệu suất phản ứng
lên rất cao, khoảng 87 – 92% mà vẫn giữ được điều kiện phản ứng tương đối đơn giản
(phản ứng được thực hiện ở nhiệt độ khoản 600C, áp suất khí quyển, sự phân tách sản
phẩm tương đối dễ dàng). Theo các tác giả này, các yếu tố liên quan đến quá trình điều
chế xúc tác (như thời gian tẩm, thời gian nung và nhiệt độ nung) và tỷ lệ xúc tác quyết
định đến hiệu suất của phản ứng. Một điểm đáng lưu ý nữa là khả năng phản ứng phụ
thuộc rất lớn vào quá trình xử lý sơ bộ nguyên liệu dầu dừa trước khi thực hiện phản
ứng. Dầu dừa phải đựơc lọc bỏ các tạp chất cơ học, chất xơ trước khi đưa vào hệ phản
ứng. Một trong những tác hại của những tạp chất này có lẽ là do ảnh hưởng che phủ của
chúng lên các tâm hoạt động cũng như các lỗ xốp của chất mang, nhất là trong giai đoạn
đầu của phản ứng khi độ nhớt của dầu dừa còn khá cao, dẫn đến khả năng xúc tác của
các hệ xúc tác rắn giảm xuống.
Việc sử dụng biodiesel từ dầu thực vật đã góp phần đáng kể trong vấn đề giảm ô
nhiễm môi trường, giảm sự phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu. Tuy nhên, giá
thành vẫn còn cao hơn rất nhiều so với diesel truyền thống. Nhằm mục đích giảm chi phí
cho quá trình sản xuất biodiesel, các tác giả Phan Ngọc Anh [2], Phùng Khánh
Nghiêm[3] và Nguyễn Thanh Dũng[4] đã thử nghiệm trên nguồn dầu ăn thải từ các quá
trình chế biến thực phẩm. Tương tự như dầu thực vật, dầu ăn phế thải có thành phần
chính là tryglyxerit, ngoài ra còn có một lượng nhỏ axit béo tự do. Thành phần axit béo
trong dầu ăn phế thải không thay đổi nhiều so với dầu nguyên chất [2] vì vậy, tính chất lý
hoá của dầu phế thải không khác nhiều so với dầu nguyên chất. Ở Việt Nam, lượng dầu
này chủ yếu thải ra môi trường bên ngoài gây ô nhiễm nguồn nước. Do vậy, việc nghiên
cứu khả năng sử dụng từ dầu ăn phế thải là cần thiết vì sẽ góp phần vào việc giảm ô
nhiễm môi trường từ nguồn dầu thải này. Đây cũng là hướng đã và đang được áp dụng
tại nhiều nước trên thế giới[2 – 4,9]
Các tác giả này đã tập trung vào phản ứng ester hoá dầu ăn phế thải bằng phương
pháp hoá học với sử dụng xúc tác kiềm. Quá trình chuyển hoá được thực hiện ở nhiệt độ
mội trường, xúc tác KOH (0,75% khối lượng). Điều kiện tối ưu để phản ứng đạt hiệu
suất khoảng 88.3% là: tỷ lệ mol methanol : dầu = 7 : 1; thời gian phản ứng là 90 phút.
Sản phẩm methyl ester tổng hợp từ dầu thải thoả mãn hầu hết các tiêu chuần quy định
cho nhiên liệu diesel. Tuy nhiên, hàm lượng cặn carbon Condradson (10% cất) quá cao
so với tiêu chuần và thành phần chưng cất của methyl ester dầu ăn phế thải khác xa so
Trang20
Sưu tầm bởi www.diendandaihoc.vn
- Xem thêm -