VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ THANH
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
NGƯỜI CÓ CÔNG VỚI CÁCH MẠNG
TỪ THỰC TIỄN QUẬN CẨM LỆ,
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG
HÀ NỘI, năm 2018
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN THỊ THANH
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
NGƯỜI CÓ CÔNG VỚI CÁCH MẠNG
TỪ THỰC TIỄN QUẬN CẨM LỆ,
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
Ngành: Chính sách công
Mã số: 834 04 02
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. HOÀNG HỒNG HIỆP
HÀ NỘI, năm 2018
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tổ quốc vẹn toàn, để người dân đất Việt được sống trong hòa bình, tự
do như hôm nay, cha ông ta đã mất mát không hề nhỏ. Đó chính là “cái bóng”
của tượng đài hào quang chiến thắng. Dưới tượng đài đó là có hàng triệu,
hàng triệu người con ưu tú của đất nước đã ngã xuống, hàng triệu, hàng triệu
người đã hy sinh một phần thân thể và cũng có không biết bao nhiêu gia đình
phải chịu ảnh hưởng của cuộc chiến. Hàng triệu thân nhân liệt sĩ - ông bà, cha
mẹ, người vợ, người chồng, người con, anh chị em mãi mãi không bao giờ
được gặp lại những người thân yêu nhất của mình. Các anh hùng liệt sĩ,
thương binh “đã làm rạng rỡ dân tộc, vẻ vang giống nòi”, họ đã chiến đấu, hy
sinh để Tổ quốc ta độc lập, tự do, thống nhất và dân tộc ta mãi mãi trường
tồn.
Chính những điều đó mà Đảng, Nhà nước cùng nhân dân đã không
ngừng làm tốt công tác Đền ơn đáp nghĩa cả về chủ trương, chính sách, nhằm
chăm lo để không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người có
công và thân nhân người có công. Nhà nước phân bổ nguồn ngân sách hằng
năm dành cho đối tượng này rất lớn (riêng năm 2017, vào khoảng 17.500 tỉ
đồng) để thực hiện các chế độ trợ cấp ưu đãi như: trợ cấp thường xuyên hàng
tháng; sửa chữa, xây dựng mới nhà ở, nâng cấp cấp nghĩa trang; điều dưỡng,
hỗ trợ về học tập, điều dưỡng, phụng dưỡng mẹ Việt Nam anh hùng; bảo
hiểm y tế;….. Nhờ đó nhằm nâng cao đời sống vật chất ,góp phần ổn định và
tinh thần cho các đối tượng người có công. Thực hiện chính sách đối với
người có công không là sự ban ơn, mà thể hiện tinh thần trách nhiệm của
Đảng và Nhà nước nhằm xoa dịu và bù đắp phần nào những những công lao
1
và mất mát to lớn đối với những người đã có công lao đóng góp đối với đất
nước.
Cẩm Lệ là quận vùng ven thành phố Đà Nẵng, là cửa ngõ ra vào thành
phố từ phía Nam. Thời kháng chiến, Cẩm Lệ là một trong những nơi có trụ sở
làm việc và cũng là nơi có cơ sở tập trung huấn luyện, đóng quân của chế độ
cũ tại địa điểm Hoà Cầm và trung tâm quận Hoà Vang (nay là trung tâm hành
chính của quận Cẩm Lệ). Nơi đây là địa bàn đấu tranh hết sức ác liệt giữa ta
và địch. Nhiều gia đình sinh sống tại đây là cơ sở cách mạng trực tiếp hoặc
gián tiếp cùng bám địch và chuẩn bị thời cơ để tiến công vào nội thị. Do vậy,
số lượng người có công với cách mạng trên địa bàn quận là khá lớn, với 1.765
người vào cuối năm 2017 [16].
Trong những năm qua, quận Cẩm Lệ đã tổ chức thực hiện một cách
hiệu quả và nghiêm túc các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về
người có công với cách mạng. Ngoài những chính sách người có công với
cách mạng theo quy định của trung ương, thành phố, quận đã huy động từ
quận đến phường và các tổ chức, cá nhân tham gia tích cực vào việc thực hiện
chính sách người có công bằng những việc làm cụ thể như: tham gia huy
động, đóng góp quỹ đền ơn đáp nghĩa; thắp nến tri ân, phối hợp giữa Hội Cựu
chiến binh và Đoàn Thanh niên dâng hương tại các nghĩa trang vào tối 14
(Âm lịch) và ngày cuối tháng (Âm lịch); thường xuyên chăm sóc, phụng
dưỡng các BMVNAH. Đây là những việc làm rất thiết thực, cụ thể, đã tác
động một cách tích cực đến các đối tượng chính sách, nhằm giúp cho các đối
tượng này ổn định cuộc sống và tạo niềm tin của các đối tượng chính sách đối
với Đảng và Nhà Nước.
Bên cạnh những kết quả đạt được, thực hiện chính sách người có công
trên địa bàn quận Cẩm Lệ vẫn còn một số mặt hạn chế như: Công tác phổ
biến, tuyên truyền chính sách chưa được thực hiện rộng rãi; Đội ngũ làm công
2
tác lao động thương binh xã hội ở cơ sở không ổn định, năng lực tham mưu
triển khai tổ chức thực hiện chưa đáp ứng được yêu cầu; Một số người dân
nhận thức về chính sách chưa đúng, nên còn nhiều thắc mắc về chính sách;
Một số văn bản hướng dẫn chậm, thiếu đồng bộ hoặc chưa rõ ràng; Thủ tục
xét công nhận còn rườm rà, chưa rõ ràng, gây khó khăn cho các đối tượng;
Chế độ trợ cấp chậm được bổ sung, điều chỉnh, chưa đáp ứng được nhu cầu
cho các đối tượng; Việc triển khai thực hiện có nơi còn chủ quan, thiếu chặt
chẽ trong quá trình xét duyệt, thẩm định nên việc xác định đối tượng được
hưởng còn chưa đúng; một số trường hợp cố tình khai man; mức hỗ trợ còn
thấp so với tốc độ gia tăng giá cả của đời sống xã hội đã dẫn đến tình trạng
đời sống của nhiều người, nhiều gia đình chính sách chưa được bảo đảm;
Những tồn tại, hạn chế này đã khiến hiệu quả tác động của chính sách chưa
được như kỳ vọng.
Đó chính là lý do mà em lựa chọn đề tài “Thực hiện chính sách người
có công với cách mạng từ thực tiễn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng”, nơi
bản thân đang sinh sống và là lĩnh vực công tác thực tiễn của mình. Đề tài
được thực hiện nhằm góp phần hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực hiện
chính sách người có công với cách mạng tại quận Cẩm Lệ.
2. Tình hình nghiên cứu
2.1. Tình hình nghiên cứu nước ngoài
An sinh xã hội là tiếp cận rộng cho chính sách người có công với cách
mạng. Thực tế, có nhiều nghiên cứu trên thế giới đề cập đến an sinh xã hội
trên những khía cạnh khác nhau, trên cả phương diện phân tích lý thuyết lẫn
mô hình thực nghiệm. Merriam (1978) phân tích tương đối hệ thống các nội
dung lý thuyết gắn với hệ thống an sinh xã hội và những chỉ số cơ bản về
phúc lợi xã hội. Leliveld (1991) nghiên cứu lý thuyết về hệ thống an sinh xã
hội, đặc biệt nhấn mạnh các nội dụng về đặc điểm, tính cần thiết, những
nguyên tắt, những hình thức, và những nhân tố của hệ thống an sinh xã hội
3
của một quốc gia. BITS (2002) phân tích chuyên sâu hệ thống an sinh xã hội
dưới các nội dung chủ yếu : (i) An sinh xã hội, việc làm và phát triển; (ii) Mở
rộng các hỗ trợ xã hội; (iii) Bình đẳng giới; (iiii) Nguồn tài trợ bền vững cho
bảo đảm xã hội. JICA (2009) phân tích lý thuyết về an sinh xã hội và thực tế
hệ thống an sinh xã hội tại một số quốc gia châu Á.
Không nhiều các nghiên cứu định lượng đo lường hiệu quả thực hiện
các chính sách an sinh xã hội. Sử dụng các phương pháp ước lượng, Peter
Herrmann và cộng sự (2008) nghiên cứu tính hiệu quả của những khoản chi
tiêu công phục vụ mục tiêu xã hội trong mô hình các quốc gia Châu Âu.
Những kết quả ước lượng chỉ ra tính hiệu quả ý nghĩa của các khoản chi tiêu
nhà nước trong việc giảm tỷ lệ nghèo đói quốc gia. Sử dụng dữ liệu từ các
cuộc điều tra quốc gia trong thập kỷ qua, Svallfors (1995) đánh giá xem liệu
những thay đổi gần đây về kinh tế và chính trị có tác động đến các chính sách
phúc lợi của Thụy Điển trong dài hạn hay không? Kết quả thực nghiệm chỉ ra
một sự ổn định ý nghĩa về tính hiệu quả trong những chính sách phúc lợi xã
hội của Thụy Điển. Anu Muuri (2010) đo lường những nhân tố ảnh hưởng
đến thái độ của người dân Phần Lan đối với chất lượng các dịch vụ phúc lợi
xã hội, và đối với những lợi ích an sinh xã hội mà họ nhận được. Đầu tiên, tác
giả mô tả một cách tổng quát các nghiên cứu gắn với phúc lợi xã hội dưới
khía cạnh lý thuyết lợi ích. Sau đó, trên cơ sở dữ liệu của cuộc điều tra quốc
gia Phần Lan tiến hành vào cuối năm 2006, sử dụng phương pháp hồi quy
Logistic tác giả đã tìm thấy rằng : (1) Chất lượng dịch vụ phúc lợi xã hội và
mức độ lợi ích an sinh xã hội phụ thuộc ý nghĩa vào giới tính, đặc biệt là vai
trò ngày một gia tăng của người phụ nữ; (2) Những đối tượng yếu thế trong
xã hội như những người gặp khó khăn trong tìm kiếm việc làm, những người
phụ thuộc vào phúc lợi nhà nước, có thái độ tích cực nhất đối với những chính
sách phúc lợi xã hội; (3) Những người sử dụng các dịch vụ phúc lợi xã hội
4
đánh giá cao ích lợi của hệ thống an sinh xã hội hơn người không sử dụng; (4)
Những người có trình độ giáo dục đại học có một thái độ tích cực hơn so với
những người khác trong đánh giá chất lượng các dịch vụ phúc lợi xã hội và
mức độ lợi ích an sinh xã hội.
Blekesaune và Quadagno (2003) nghiên cứu thái độ của công chúng
đối với các chính sách công về phúc lợi xã hội ở cả hai cấp độ cá nhân và
quốc gia. Đối tượng chính sách gồm: những hỗ trợ công cộng cho người bệnh
và người già, và những hỗ trợ công cộng cho những người thất nghiệp. Đây
cũng chính là những đối tượng mục tiêu của chính sách an sinh xã hội của nhà
nước. Các tác giả đã tìm thấy rằng, cấp độ quốc gia là rất quan trọng trong
việc định hình thái độ của công chúng đối với các chính sách phúc lợi xã hội
ở các quốc gia công nghiệp phát triển. Các tác giả lý giải rằng, các quốc gia
khác nhau tạo ra niềm tin khác nhau cho công chúng về các vấn đề xã hội
quốc gia và về mối quan hệ giữa các cá nhân, nhà nước và các tổ chức khác.
Ngoài ra, những hiểu biết và niềm tin của công chúng cũng ảnh hưởng ý
nghĩa đến thái độ công chúng đối với các chính sách phúc lợi xã hội mà nhà
nước cần phải theo đuổi.
2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
Chính sách người có công với cách mạng là một chính sách lớn của
Đảng và nhà nước ta. Chính vì vậy đã có nhiều công trình nghiên cứu, tài liệu,
bài viết viết về vấn đề chính sách người có công với cách mạng, trong đó có đề
cập đến công tác này ở góc độ lý luận, chính sách, thực tiễn,... Một số công
trình nghiên cứu như sau:
Mai Ngọc Cường (2009) trình bày những vấn đề lý luận cơ bản về
chính sách an sinh xã hội; phân tích hệ thống chính sách an sinh xã hội ở Việt
Nam trong thời gian qua với những cấu thành cơ bản là bảo hiểm xã hội, bảo
5
hiểm y tế, trợ giúp và ưu đãi xã hội; đề xuất phương hướng và những giải
pháp nhằm hoàn thiện hệ thống chính sách an sinh xã hội ở Việt Nam.
Mai Ngọc Cường (2012) phân tích những thành tựu, những bất cập chủ
yếu của hệ thống chính sách an sinh xã hội Việt Nam. Đặc biệt, tác giả tranh
luận rằng chính sách an sinh xã hội chỉ là một hệ thống chính sách trong tổng
thể chính sách xã hội của một quốc gia, bên cạnh chính sách an sinh xã hội
còn có nhiều chính sách xã hội khác. Ngoài ra, tác giả cũng đề xuất những
khuyến nghị quan trọng nhằm xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách an
sinh xã hội của Việt Nam trong thời gian tới.
Với tiếp cận hệ thống an sinh xã hội bao gồm hai trụ cột là an sinh xã
hội đóng - hưởng và an sinh xã hội không đóng góp, Mai Ngọc Cường
(2013a) phân tích thực trạng an sinh xã hội ở Việt Nam, và những thành tựu,
hạn chế và nguyên nhân hạn chế của nó. Ngoài ra, tác giả khuyến nghị một số
vấn đề có ý nghĩa quan trọng để thực hiện chính sách an sinh xã hội ở nước ta
những năm tới. Cùng cách tiếp cận về hệ thống an sinh xã hội như trên, Mai
Ngọc Cường (2013b) cho rằng để phát triển hệ thống an sinh xã hội đến năm
2020, nhà nước cần đa dạng hóa hình thức bảo hiểm xã hội cho người lao
động khu vực phi chính thức và nông dân, chuyển căn cứ đóng bảo hiểm xã
hội từ chỗ dựa vào tiền công, tiền lương hiện nay sang dựa trên toàn bộ thu
nhập của người tham gia, bổ sung thêm các chế độ bảo hiểm tai nạn, bảo hiểm
thai sản vào chế độ hưởng của bảo hiểm xã hội thu nhập, nâng độ bao phủ trợ
giúp xã hội đến năm 2020 khoảng 2,5-2,6% dân số. Ngoài ra, tác giả cũng đề
xuất cần đa dạng hóa việc tổ chức quản lý an sinh xã hội, tăng cường phối
hợp quản lý kinh tế - xã hội với quản lý an sinh xã hội, tăng cường công tác
kiểm tra, giám sát, tăng cường số lượng và chất lượng đội ngũ cán bộ làm
công tác an sinh xã hội.
6
Mai Ngọc Anh (2012) đề cập đến vai trò, thực trạng, những thành công
và hạn chế của các chính sách ưu đãi xã hội đối với người có công của Việt
Nam. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất những khuyến nghị trong việc thực thi
những chính sách ưu đãi xã hội đối với người có công tại Việt Nam trong thời
gian đến. Quan niệm chính sách y tế như là một trong những chính sách xã
hội cơ bản hướng tới các mục tiêu công bằng, phúc lợi và hòa nhập xã hội,
Đặng Thị Lệ Xuân (2012) hướng tới việc phân tích thực trạng chính sách y tế
Việt Nam trong việc đạt được các mục tiêu xă hội, đồng thời tác giả cũng đề
xuất một số giải pháp cơ bản cho việc đạt được các mục tiêu đó.
Tiếp cận hệ thống an sinh xã hội địa phương bao gồm ba trụ cột chủ
yếu: bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, trợ cấp xã hội và xóa đói giảm nghèo,
Phạm Văn Sáng và cộng sự (2009) đã tiến hành phân tích thực trạng hệ thống
an sinh xã hội của tỉnh Đồng Nai trong thời gian qua, đồng thời đề xuất những
giải pháp nhằm đảm bảo an sinh xã hội của tỉnh Đồng Nai trong thời gian tới.
Luận văn thạc sĩ “Thực hiện chính sách người có công với cách mạng
từ thực tiễn huyện Hoà Vang, thành phố Đà Nẵng”, của học viên Nguyễn Văn
Vân, bảo vệ năm 2016 tại Học viện Khoa học xã hội, đã đề cập đến một số
vấn đề lý luận cơ bản, đánh giá thực trạng thực thi chính sách người có công
với cách mạng, nêu lên những giải pháp nhằm khắc phục những tồn tại hạn
chế, tổ chức thực hiện tốt hơn chính sách người có công với cách mạng trên
địa bàn huyện Hòa Vang
Luận văn thạc sĩ “Thực hiện chính sách an sinh xã hội thực tiễn quận
Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng”, của học viên Dương Thanh Phong, bảo vệ
năm 2018 tại Học viện Khoa học xã hội đã làm rõ một số vấn đề lý luận về
thực thi chính sách an sinh xã hội, đánh giá thực trạng quá trình tổ chức thực
hiện chính sách, đồng thời đề xuất những giải pháp nhằm thực hiện chính
sách an sinh xã hội trên địa bàn quạn Thanh Khê.
7
Luận văn thạc sĩ “Thực hiện chính sách đối với người có công với cách
mạng thực tiễn quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng”, của học viên Hồ Văn
Dũng, bảo vệ năm 2016 tại Học viện Khoa học xã hội đã nêu việc nghiên cứu
lý luận, đánh giá thực trạng quá trình tổ chức thực hiện chính sách, nêu lên
những phương hướng, giải pháp, nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện chính
sách đối với người có công trên địa bàn quận Thanh Khê.
Trong luận án tiến sĩ “Thực thi chính sách anh sinh xã hội ở thành phố
Đà Nẵng hiện nay- thực trạng và giải pháp”, Lê Anh (2017) đã xây dựng
phương hướng và chủ trương, quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao
chất lượng thực thi chính sách an sinh xã hội thành phố Đà Nẵng.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu quốc tế và trong nước đã đề cập
được các vấn đề lý luận và thực tiễn việc thực hiện chính sách an sinh xã hội,
chính sách người có công với cách mạng ở cấp quốc gia, địa phương. Song hiện
vẫn chưa có công trình nghiên cứu đánh giá việc thực hiện chính sách người có
công với cách mạng tại địa bàn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng. Vì vậy, tôi
quyết định chọn và thực hiện đề tài luận văn “Thực hiện chính sách người có
công với cách mạng, từ thực tiễn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng”.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận và thực tiễn (
thông qua nghiên cứu thực tiễn tại quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng) về thực
hiện chính sách người có công với cách mạng. Từ đó, đề xuất một số giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách đối với người có công
cách mạng tại quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về thực hiện chính sách người có công với
cách mạng;
8
- Phân tích được thực trạng tình hình thực hiện chính sách người có
công với cách mạng ở quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng thời gian qua;
- Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách
người có công với cách mạng tại quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các nhóm đối tượng thụ hưởng chính sách ưu đãi
người có công trên địa bàn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về thời gian: Nghiên cứu việc thực hiện chính sách người có công với
cách mạng trên địa bàn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng trong giai đoạn
2013 - 2017.
Về không gian: Nghiên cứu đối tượng chính sách trên địa bàn quận Cẩm lệ,
thành phố Đà Nẵng.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tuởng Hồ Chí Minh, và các quan điểm của
Ðảng, Nhà nuớc Việt Nam làm phương pháp luận cơ bản thực hiện nghiên cứu.
9
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu định tính được sử dụng nhằm thu thập các ý
kiến của một số đối tượng chính sách về thực hiện chính sách tại địa bàn quận
Cẩ Lệ; phân tích thống kê, mô tả nhằm làm rõ thực trạng tình hình thực hiện
chính sách trên địa bàn quận. Đồng thời, kết hợp quan sát ghi chép hiện trường,
nghiên cứu thực địa thông quan điền dã, ... làm cơ sở để đánh giá thực tiễn.
- Phương pháp nghiên cứu định lượng, phân tích các kết quả điều tra
theo từng tiêu chí.
- Phương pháp điều tra xã hội học bằng bảng hỏi: khảo sát bằng bảng
hỏi 50 người dân đang hưởng chính sách người có công với cách mạng tại
phường Hòa An, nhằm tìm hiểu thực trạng việc thực hiện chính sách tại địa
phương như đối chiếu với tình hình, phân tích kết quả kết quả thực hiện chính
sách để đưa ra đánh giá chung.
- Phương pháp phỏng vấn sâu: phỏng vấn sâu 6 cán bộ lao đông thương
binh xã hội cấp phường để thu thập thông tin và đánh giá việc thực hiện chính
sách từ phía người thực thi chính sách.
- Ngoài ra còn dựa trên phương pháp khác như: Phương pháp so sánh,
diễn giải, quy nạp làm cơ sở cho quá trình nghiên cứu, đồng thời trong quá
trình nghiên cứu luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn hệ thống hóa cơ sở lý luận về thực hiện chính sách người có
công với cách mạng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn phản ánh được thực trạng và đề xuất được một số giải pháp
nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách người có công với cách mạng tại
quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng.
10
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, các phục lục, nội dung
chính của luận văn được kết cấu thành 3 chương.
Chương 1. Cơ sở lý luận về thực hiện chính sách người có công với
cách mạng.
Chương 2. Thực trạng thực hiện chính sách người có công với cách
mạng, tại quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng.
Chương 3. Quan điểm, giải pháp nhằm hoàn thiện và nâng cao hiệu quả
thực hiện chính sách người có công với cách mạng tại quận Cẩm Lệ, thành
phố Đà Nẵng.
11
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH NGƯỜI
CÓ CÔNG VỚI CÁCH MẠNG
1.1. Người có công với cách mạng và chính sách người có công với
cách mạng
1.1.1. Khái niệm người có công với cách mạng
Thấm nhuần đạo lý “Uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ người trồng
cây”, trong những năm qua dù bất cứ hoàn cảnh khó khăn nào của đất nước,
công tác thương binh, liệt sĩ và người có công luôn được coi trọng, được sự
quan tâm chỉ đạo đặc biệt của Đảng, Nhà nước, Chính phủ, sự hưởng ứng
tham gia nhiệt tình và trách nhiệm của các ngành các cấp và toàn thể nhân
dân. Hệ thống văn bản pháp luật, cơ chế chính sách về tôn vinh, ưu đãi, chăm
sóc người có công ngày càng được hoàn thiện. Đặc biệt, Hiến pháp 2013
“Nhà nước, xã hội tôn vinh, khen thưởng, thực hiện chính sách ưu đãi đối với
người có công với nước” (Khoản 1, Điều 59).
Ở mỗi thời kỳ, chế độ khác nhau thì chính sách người có công với cách
mạng cũng khác nhau. Nhưng suy cho cùng thì chính sách ưu đãi đối với
người có công là sự ghi nhận những công lao của họ cho đất nước, là những
chế độ đãi ngộ về vật chất và tinh thần, là sự bày tỏ lòng biết ơn đến những
người đã hy sinh, đã cống hiến cho sự nghiệp bảo vệ và phát triển đất nước.
Trong mấy chục năm qua, Đảng và Nhà nước ta coi việc thực hiện ưu
đãi xã hội đối với người có công là quốc sách. Chủ trương đó đã được luật
hóa bằng hai Pháp lệnh quan trọng đó là: Pháp lệnh “ưu đãi người hoạt động
cách mạng, liệt sỹ, gia đình liệt sỹ, thương binh, bệnh binh, người hoạt động
kháng chiến, người có công giúp đỡ cách mạng” và Pháp lệnh “Quy định
12
danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng”. Khái niệm người có
công được hiểu theo 2 nghĩa rộng, hẹp khác nhau.
Theo nghĩa rộng, người có công là người bình thường, làm việc đại
nghĩa, có công lao lớn đối với đất nước, đó là nghĩa vụ không bao giờ kể công
và không đòi hỏi cộng đồng phải báo nghĩa.
Cụ thể hơn, người có công là cống hiến của họ vì lợi ích của đất nước,
được nhân dân tôn vinh và được Nhà nước thông qua cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền ghi nhận theo qui định của pháp luật, đồng thời đảm bảo cho họ
các chế độ ưu đãi về kinh tế, về chính trị, xã hội. Ở đây, có thể thấy rõ những
tiêu chí cơ bản xác định nội hàm khái niệm người có công. Đó phải là những
người có thành tích đóng góp hoặc cống hiến lớn lao, xuất sắc vì lợi ích chung
của đất nước. Những cống hiến đó có thể được thực hiện trong các cuộc
kháng chiến vì độc lập tự do của Tổ quốc trong công cuộc xây dựng và phát
triển đất nước.
Theo nghĩa hẹp, khái niệm người có công được xác định là những
người tham gia hoặc giúp đỡ cách mạng, họ đã hy sinh cả cuộc đời hoặc một
phần thân thể hoặc có thành tích đóng góp to lớn cho sự nghiệp cách mạng của
nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Căn cứ pháp lý để thực hiện chính sách ưu đãi hiện nay được quy định
tại Pháp lệnh số 04/2012/UBTVQH13 ngày 16 tháng 7 năm 2012 của Uỷ ban
thường vụ Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của pháp lệnh ưu đãi người
có công với cách mạng. Theo pháp lệnh, thì có 12 nhóm được công nhận là
Người có công với cách mạng đó là: Người hoạt động cách mạng trước ngày
01 tháng 01 năm 1945; Người hoạt động cách mạng từ ngày 01 tháng 01 năm
1945 đến ngày khởi nghĩa tháng Tám năm 1945; Bà mẹ Việt Nam Anh hùng;
Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân; Anh hùng Lao động trong thời kỳ
kháng chiến; Liệt sĩ; Thương binh, người hưởng chính sách như thương binh
13
(gọi chung là thương binh); Bệnh binh; Người có công giúp đỡ cách mạng
Người hoạt động cách mạng, hoạt động kháng chiến bị địch bắt tù, đày; Người
hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc
tế; người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hoá học.
1.1.2. Đặc điểm của người có công với cách mạng
Trong suốt chiều dài những cuộc đấu tranh dựng nước và giữ nước,
người có công cách mạng luôn tự hào và tôn trọng quá khứ. Họ luôn có tinh
thần yêu nước như hàng triệu chiến sĩ đã bị thương và vĩnh viễn ra đi, nhiều
gia đình cùng một lúc đã mất đi nhiều người thân yêu nhất của mình. Nhiều
người đã công hiến trọn vẹn tuổi thanh xuân của mình cho sự nghiệp cách
mạng cao cả của Tổ Quốc. Nhiều người vợ trẻ hưởng hạnh phúc vợ chồng
chưa trọn một ngàn, rồi gáo bụi cả đời. Sự hy sinh những thiệt thòi mất mát to
lớn của những người còn sống khi người thân mất đi là không gì đo đếm
được. Bước ra khỏi thời chiến, người có công với cách mạng những thương
tích, mất mát to lớn và bệnh tật nhưng vẫn tiếp tục đi đầu trên các lĩnh vực,
góp phần xây dựng đất nước, quê hương ngày càng giàu đẹp; luôn gương
mẫu, đi đầu ủng hộ và chấp hành tốt các chủ trương chính sách pháp luật của
Đảng và nhà nước, là tấm gương để mọi người noi theo; họ luôn trung thành
với chế độ mà mình đem sức lực, máu xương để bảo vệ; luôn xây dựng gia
đình ấm no, hạnh phúc; là những công dân gương mẫu, những tấm gương
sáng giáo dục thế hệ trẻ tích cực lao động, học tập trong sự nghiệp và bảo vệ
tổ quốc.
Đối với thương binh, bệnh binh đã trải qua 2 cuộc chiến tranh chống
Pháp và chống Mỹ: Đến nay, hiện còn ít, hầu hết ở tuổi cao và trung niên, họ
sống rất khiêm tốn, ít đòi hỏi quyền lợi các nhân; nhu cầu vật chất giản dị,
hăng hái tham gia tích cực các hoạt động công tác xã hội. Tuy nhiên, họ là
những người chịu ảnh hưởng lớn từ tác động kinh tế thị trường với các chủ
14
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước liên quan đến đời sống, tinh thần, vật
chất của chính họ; có một số ít đối tượng có tư tưởng công thần, đưa ra yêu sách,
đòi hỏi quá đáng , để trục lợi cho cá nhân và ảnh hưởng đến việc triển khai tổ
chức thực hiện chính sách người có công với cách mạng của Đảng và Nhà nước.
Đối với thân nhân liệt sỹ và người có công với cách mạng: Nỗi đau
thương, mất mát của người thân là sự đau đớn lớn nhất đối với những người
cha, mẹ, vợ, người con liệt sỹ mà không thể bù đắp. Vào các dịp Tết cổ
truyền, ngày lễ, họ rất cần sự quan tâm động viên, chia sẻ, đầm ấm trong
những ngày này đặc biệt này. Tuy nhiên, người có công có những đặc điểm
khác nhau trong công tác chăm sóc cũng khác nhau và phải tìm hiểu nhu cầu
kỹ đặc điểm của họ. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng để đưa ra những giải
pháp chăm sóc tốt hơn, hỗ trợ phù hợp, đem lại hiệu quả cao về vật chất và
tinh thần, nhằm bù đắp phần nào những hy sinh cống hiến to lớn của bản thân
người có công và thân nhân người có công, phấn đấu vươn lên trong cuộc
sống. Tuy nhiên phải nhìn nhận thực tế rằng, vẫn còn những khó khăn, thiệt thòi
của họ trong cuộc sống hiện nay, như những Mẹ Việt Nam Anh Hùng nêu đơn
đến nay tuổi các mẹ đã trên 80 tuổi nhưng lại không có người thân chăm sóc nên
cần được sự quan tâm chăm sóc và chia sẽ tình cảm; Các thương binh, bệnh binh
đang chịu sự đau đớn của vết thương tái phát , bệnh tật và những di chứng chiến
tranh để lại, nên cần phải động viên nổ lực vượt qua khó khăn, bệnh tật.
1.1.3. Chính sách người có công với cách mạng
Chính sách người có công với cách mạng là một chính sách nhân đạo,
thể hiện sâu sắc bản chất ưu việt của xã hội ta, có liên quan tới nhiều lĩnh vực
của đời sống xã hội như: Kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng, lịch sử, pháp lý
và truyền thống đạo lý của dân tộc. Đảng và Nhà nước ta tổ chức nghiên cứu,
hoạch định ban hành hệ thống chính sách, chế độ và tổ chức thực hiện, kiểm
tra việc thực hiện đến từng đối tượng tùy điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội
15
ở từng giai đoạn mà Nhà nước điều chỉnh chế độ ưu đãi xã hội theo hướng
nâng cao và cải thiện hơn nữa đời sống vật chất và tinh thần cho người có
công thể hiện sự quan tâm, biết ơn của Đảng, Nhà nước và nhân dân đối với
sự hy sinh, cống hiến của họ cho đất nước; bù đắp một phần nào đó cho họ về
đời sống vật chất cũng như tinh thần. Chính sách người có công với cách
mạng là chính sách quan trọng về vai trò và chức năng, sử dụng các biện pháp
khác nhau để xây dựng và triển khai đưa các chính sách người có công với
cách mạng vào cuộc sống.
1.1.3.1. Quan niệm về chính sách người có công với cách mạng
Chính sách người có công với cách mạng thể hiện chủ nghĩa nhân đạo
cao đẹp, thể hiện tryền thống đạo lý quý báu của dân tộc ta, truyền thống
“uống nước nhớ nguồn”, “ăn quả nhớ kẻ trồng cây”. Thể hiện nghĩa vụ, trách
nhiệm và tình cảm của Nhà nước và cộng đồng đối với người có công chứ
không phải sự ban ơn, làm phúc, từ thiện, nhân đạo. Bù đắp phần nào sự mất
mát to lớn, sự hy sinh cao cả của những người có công, thể hiện sự đoàn kết
giúp đỡ nhau trong cộng đồng, là sự chia sẻ trong cộng đồng, giúp đỡ những
người khó khăn do cuộc kháng chiến để lại nhằm đảm bảo một xã hội phát
triển lành mạnh.
Trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể của đất nước ta, chính sách người có
công với cách mạng không chỉ là thể hiện sự sinh động, sự quan tâm của
Đảng - Nhà nước và nhân dân đối với những người đã cống hiến, hy sinh cho
độc lập, tự do, hạnh phúc và sự toàn vẹn của lãnh thổ quốc gia mà còn là hành
động xã hội văn hóa, là bản chất của chế độ xã hội, trở thành một bộ phận
trong hệ thống chính sách xã hội và phương châm phát triển đất nước. Những
năm qua, riêng việc luôn điều chỉnh và mở rộng chế độ ưu đãi người có công
cho phù hợp với tình hình thực tế xã hội của đất nước đã góp phần quan trọng
vào việc ổn định đời sống, từng bước nâng cao mức sống của các đối tượng
16
chính sách trong điều kiện đất nước có nhiều khó khăn, số người là đối tượng
có công lại rất lớn… mà chúng ta đã thực hiện đạt kết quả lớn như vậy là khá
trọn nghĩa, vẹn tình. Mặc dù chưa thật bằng lòng với những thành tích ấy,
nhưng có thể nói chính sách người có công với cách mạng đã góp phần không
nhỏ cho việc giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, củng cố hệ
thống chính trị, mở rộng dân chủ và làm thất bại mọi âm mưu chống phá của
kẻ thù dân tộc. Việc ưu đãi đối với người có công là vấn đề của hôm nay, thiết
thực góp vào sự phát triển. Nó trở thành động lực thúc đẩy xã hội, đặc biệt có
tác dụng giáo dục lòng yêu nước, niềm tự hào, tự tôn dân tộc cho thế hệ trẻ.
1.1.3.2. Chính sách nhà nước đối với người có công với cách mạng
Kế tục truyền thống của cha ông, ngay từ khi đất nước mới giành được
độc lập, Đảng và Nhà nước ta đã sớm xây dựng chính sách ưu đãi xã hội, đặc
biệt là chính sách ưu đãi người có công với đất nước trong sự nghiệp bảo vệ
Tổ quốc và trong sự nghiệp xây dựng đất nước. Được chia thành các giai đoạn
như sau:
Giai đoạn từ 1945 đến 1954: Sau khi giành được chính quyền, nhân
dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng phải bắt tay ngay vào cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp. Thời kỳ này đất nước gặp muôn vàn khó khăn, nhưng
Đảng, Chính phủ sớm thiết lập một số văn bản pháp luật ưu đãi một số đối
tượng có công như: thương binh, gia đình liệt sĩ, đồng thời động viên toàn dân
lấy lên phong trào toàn dân chăm sóc giúp đỡ các đối tượng này.
Ngày 16/2/1947 Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ký Sắc
lệnh số 20/SL “Về chế độ hưu bổng, thương tật đối với thương binh, tử sĩ”.
Sau đó được sửa đổi, bổ sung bằng Sắc lệnh 242/SL ngày 12/10/1948 về
“Hưu bổng thương tật và tiền tuất cho thân nhân tử sĩ”, qui định về tiêu chuẩn
xác nhận thương binh, truy tặng tử sĩ, thực hiện chế độ lương hưu thương tật
đối với thương binh, chế độ tiền tuất đối với gia đình tử sĩ. Đây là văn bản
17
pháp luật đầu tiên của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa qui định về
những ưu đãi đối với người có công với cách mạng. Sau đó Đảng – Nhà nước
ta còn ban hành nhiều chính sách, văn bản có liên quan quy định những vấn
đề về thương binh, tử sĩ…và những ưu đãi dành cho họ. Đồng thời, Đảng –
Nhà nước cũng khuyến khích, động viên toàn dân dấy lên phong trào giúp đỡ,
chăm sóc đối tượng này như phong trào đón thương binh về làng, giúp binh sĩ
tử nạn, lập quỹ tình nghĩa…
Nghị định số 51/TB-NĐ ngày 27/7/1949 và Nghị định số 367/TB-NĐ
ngày 30/08/1950 thì Nhà nước sẽ tổ chức các trại an dưỡng để thu nhận và
chăm sóc thương binh, bệnh binh.
Giai đoạn từ 1955 đến 1975: Trong các văn bản ban hành trong thời kỳ
này đáng chú ý nhất là Nghị định số 16/CP ngày 30/10/1964 kèm theo bản Điều
lệ tạm thời về chế độ đãi ngộ với quân nhân, thanh niên xung phong, dân quân
du kích với việc qui định chế độ thương tật mới là 8 hạng, mức khởi điểm là
21%. Quy định chế độ tiền tuất mới gồm tuất hàng tháng và tuất một lần đối với
gia đình và thân nhân liệt sĩ. Đồng thời, để phù hợp với tình hình thực tế của
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đánh giá đúng và động viên kịp thời sự
đóng góp của nhân dân, pháp luật ưu đãi người có công đã bổ sung các đối
tượng mới đó là :
- Chế độ đối với dân công thời chiến (nghị định số77/CP ngày
26/04/1966).
- Chế độ ưu đãi đối với lực lượng vận tải nhân dân (theo Quyết định số
84/CP ngày 04/5/1966).
- Chế độ cán bộ y tế làm nhiệm vụ cấp cứu phòng không (Nghị định số
111/CP ngày 28/6/1973).
Tóm lại, chính sách ưu đãi người có công thời kỳ này đã phát triển
tương đối toàn diện các nội dung ưu đãi cả vật chất và tinh thần đối với người
18
- Xem thêm -