MỞ ĐẦU
1.lý do chọn đề tài
Đường vô Xứ Nghệ quanh quanh
Non xanh nước biếc như tranh hoạ đồ
Hẳn ai đã từng một lần đặt chân lên Xứ Nghệ đều được chứng thực bởi câu ca dao
đã có từ ngàn đời này. Chỉ một câu lục bát đã toát lên đã toát lên diện mạo của vùng đất
này. Quả đúng như vậy cái thế địa hình sông núi nơi đây vừa thơ mộng như bức tranh vẽ
tuyệt đẹp , vừa hùng vĩ không kém phần hiểm trở gieo neo. Phải chống chọi với điều kiện
địa lí hết sức khắc nghiệt đã hình thành tính cách cứng cỏi bền bỉ của người nơi đây.
Chính môi trường thiên nhiên ấy đã tạo nên những đặc trưng con người Xứ Nghệ để rồi
khó có thể lẫn với tính cách của con người bất cứ nơi nào đó trên bất cứ dọc dài tổ quốc
thân yêu này!
Ngược dòng lịch sử thì xứ nghệ là mảnh đất với truyền thống đấu tranh chống giặc
ngoại xâm rất kiên trung và quyết liệt. Với nhiều phong trào đấu tranh tiêu biểu như Xô
Viết Nghệ Tĩnh 1930 -1931, mặt khác nơi đây là mảnh đất ươm mầm cho những nhân tài
những vị anh hùng dân tộc, như Mai Thúc Loan, Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh
Khai, và tiêu biểu cho các vị anh hùng giải phóng dân tộc có chủ tịch Hồ Chí Minh.
...Song song với quá trình trường tồn và vận động của lịch sử dân tộc thì Xứ Nghệ rất
giàu truyền thống và bản sắc văn hoá. Những bản sắc văn hoá ấy mang dấu ấn rất rõ
mảnh đất Nghệ An , đồng thời ở đó cũng có mang nét đặc trưng của dân tộc Việt Nam
Một trong những nét đặc trưng của mà mỗi ai đã từng đặt chân đến nơi đây đều
thấy là nét mộc mạc giản dị của con người nơi đây, cái giản dị mà Xứ nghệ để lại dấu ấn
trong lòng bạn muôn nơi là những món ăn hết sức bình dị , quen thuộc nhưng dường như
nó có cái khác biệt so với các vùng miền khác, các món ăn xứ nghệ như mang trong đó
tấm lòng người dân bản xữ nên mang phong vị rất riêng mà không có ở đâu trên bất kì
dân tộc này.
Chính vì vậy khi chọn đề tài ẩm thực Xứ Nghệ cho bài viết của học phần văn hóa
Miền Trung Tây Nguyên như lời giới thiệu về mảnh đất Nghệ thân thương và đưa đến
cho mọi người biết thêm về vùng đất không chỉ giàu truyền thống đấu tranh, mà còn có
cả những nét đẹp ẩm thực không thể có ở đâu. Đó chính là nét văn hoá của Xứ Nghệ nó
đến với ta từ những cái giản dị nhất.
2. Lịch sử vấn đề
Viết về Xứ Nghệ có rất nhiều nhà nghiên cứu với nhiều công trình khác nhau. Đặc
biệt trong thời gian gần đây có nhiều nhà nghiên cứu đã có nhiều bài viết khác nhau về
mảnh đất nhiều duyên nợ này. Điển hình là các bài viết về văn hoá – lịch sử nơi đây, tất
cả những công trình nghiên cứu đó đã phản ánh thiên nhiên, con người phong tục tập
quán nơi đây đã có từ hàng nghìn năm. Tất cả những bài viết những nghiên cứu đó phản
ánh tình yêu da diết đối với Xứ Nghệ thân thương.
Viết về ẩm thực Xứ nghệ thì hiện nay vẫn còn có số lượng khá khiêm tốn mặc dù
nơi đây có nhiều nét đặc trưng trong ẩm thực mang đậm nét rất riêng. Tiêu biểu cho việc
nghiên cứu về ẩm thực Xứ Nghệ có các nhà nghiên cứu như: PGS.TS Nguyễn Nhã Ban
bản sắc văn hoá văn hoá người Nghệ Tĩnh, với công trình nghiên cứu này ông đã nói lên
lòng tự hào về mảnh đât này và những vẻ đẹp từ mây trời non nước và từ các điều bình dị
như các món ăn hàng ngày của người dân nơi đây.
Hay gần đây là sách Bản sắc Ẩm thực Việt Nam do Nguyễn Nhã chủ biên Nhà xuất
bản Thông tấn, Thành phố Hồ Chí Minh 2009. cuốn sách này đã giới thiệu cho bạn bè
bốn phương về ẩm thực Việt Nam, trong đó có cả ẩm thực Xứ Nghệ đó là những món ăn
hết sức gần gũi quen thuộc . Đó như lời giới thiệu gọi mời du khách về với Việt Nam và
đến xứ Nghệ thưởng thức những gì bình dị nhất trong cuộc sống này. Ngoài ra còn có
nhiều các công trình nghiên cứu khác nữa nhưng trong bài viết này chưa có điều kiện đề
cập.
3. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu về vùng đất Xứ Nghệ với văn hoá lịch sử lâu đời , với nhiều văn hoá
đặc trưng và văn hoá ẩm thực là một trong những nét tiêu biểu của vùng đất này. Tìm
hiểu về ẩm thực Xứ Nghệ là về với cội nguồn xa xưa với nét bình dị. Với những món ăn
hết sức quen thuộc đó là nét đặc trưng ở vùng quê này.Những món ăn ấy thể hiện cuộc
sống thanh bình gần gũi với tự nhiên của người Xứ Nghệ. Đó cũng chính là tính cách cần
cù chịu gian khổ để vươn lên trên cuộc sống còn nhiều khó khăn. Như vậy khi viết về vấn
đề này như một lời giới thiệu về mảnh đất dấu yêu với nhiều nét văn hoá đặc trưng.
4. Đối tượng phạm vi nghiên cứu
Ở bài viết này tôi xin lấy chủ đề đặc trưng văn hóa ẩm thực Xứ Nghệ tìm hiểu về
nét đặc trưng của ẩm thực Nghệ An , với phần tìm hiểu về món ăn đặc sản nơi đây và các
công đoạn chế biến. Do dung lượng bài viết và kiến thức có hạn nên chỉ dẫn ra một số
món tiêu biểu.
5.Ý nghĩa đề tài
Qua đề tài này chúng tôi muốn nêu bật được món ăn quen thuộc mang tính đặc
trưng nhưng hết sức giản dị của người dân nơi đây, với món ấy thể hiện bản chất hết sức
cần cù chịu khó của con người nơi đây. Đó chính là nét văn hoá hết sức đặc trưng mà chỉ
có ở Xứ Nghệ mà thôi. Với đề tài này cũng như một lời gọi mời những ai chưa đến đất
Nghệ để thưởng thức món ăn này thì hãy về đây, về bên đất Nghệ An thân thiện chắc hẳn
bạn sẽ hài lòng và sẽ để lại cho bạn nhiều suy nghĩ về mảnh đất nghèo khó nhưng thân
thiện và thanh bình này.
6.Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiên được bài viết này tôi đã sử dụng nhiều phương pháp khác nhau cụ thể:
Phương pháp thống kê phân loại.
Phương pháp phân tích
Phương pháp điền
Phương pháp tổng hợp các tài liệu.
Ngoài những phương pháp trên thì còn sử dụng một só phương pháp khác để phục
vụ cho bài viết này đạt kết quả tốt.
7. Cấu trúc bài viết
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận thì bài viết này xin tập trung vào hai chương chính:
Chương 1: Khái quát mảnh đất Nghệ An
Chương 2: Đặc trưng Văn hóa ẩm thực Xứ Nghệ
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1 : CÁC VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. Khái niệm văn hóa
Văn hóa là bao gồm tất cả những sản phẩm của con người, và như vậy, văn hóa bao
gồm cả hai khía cạnh: khía canh phi vật chất của xã hội như ngôn ngữ, tư tưởng, giá trị và
các khía cạnh vật chất như nhà cửa, quần áo, các phương tiện, v.v... Cả hai khía cạnh cần
thiết để làm ra sản phẩm và đó là một phần của văn hóa.
Có nhiều định nghĩa khác nhau về văn hóa, mỗi định nghĩa phản ánh một cách nhìn
nhận và đánh giá khác nhau. Ngay từ năm 1952, hai nhà nhân loại học Mỹ là Alfred
Kroeber và Clyde Kluckhohn đã từng thống kê có tới 164 định nghĩa khác nhau về văn
hóa trong các công trình nổi tiếng thế giới. Văn hóa được đề cập đến trong nhiều lĩnh vực
nghiên cứu như dân tộc học, nhân loại học (theo cách gọi của Mỹ hoặc dân tộc học hiện
đại theo cách gọi của châu Âu) dân gian học, địa văn hóa học, văn hóa học, xã hội
học,...và trong mỗi lĩnh vực nghiên cứu đó định nghĩa về văn hóa cũng khác nhau. Các
định nghĩa về văn hóa nhiều và cách tiếp cận khác nhau đến nỗi ngay cả cách phân loại
các định nghĩa về văn hóa cũng có nhiều. Một trong những cách đó phân loại các định
nghĩa về văn hóa thành những dạng chủ yếu sau đây
Về mặt thuật ngữ khoa học: Văn hóa được bắt nguồn từ chữ Latinh "Cultus" mà
nghĩa gốc là gieo trồng, được dùng theo nghĩa Cultus Agri là "gieo trồng ruộng đất" và
Cultus Animi là "gieo trồng tinh thần" tức là "sự giáo dục bồi dưỡng tâm hồn con người".
Theo nhà triết học Anh Thomas Hobbes (1588-1679): "Lao động giành cho đất gọi là sự
gieo trồng và sự dạy dỗ trẻ em gọi là gieo trồng tinh thần".
Các định nghĩa miêu tả: định nghĩa văn hóa theo những gì mà văn hóa bao hàm,
chẳng hạn nhà nhân loại học người Anh Edward Burnett Tylor (1832 - 1917) đã định
nghĩa văn hóa như sau: văn hóa hay văn minh hiểu theo nghĩa rộng trong dân tộc học là
một tổng thể phức hợp gồm kiến thức, đức tin, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục,
và bất cứ những khả năng, tập quán nào mà con người thu nhận được với tư cách là một
thành viên của xã hội
Các định nghĩa lịch sử: nhấn mạnh các quá trình kế thừa xã hội, truyền thống dựa
trên quan điểm về tính ổn định của văn hóa. Một trong những định nghĩa đó là của
Edward Sapir (1884 - 1939), nhà nhân loại học, ngôn ngữ học người Mỹ: văn hóa chính
là bản thân con người, cho dù là những người hoang dã nhất sống trong một xã hội tiêu
biểu cho một hệ thống phức hợp của tập quán, cách ứng xử và quan điểm được bảo tồn
theo truyền thống
Các định nghĩa chuẩn mực: nhấn mạnh đến các quan niệm về giá trị, chẳng hạn
William Isaac Thomas (1863 - 1947), nhà xã hội học người Mỹ coi văn hóa là các giá trị
vật chất và xã hội của bất kỳ nhóm người nào (các thiết chế, tập tục, phản ứng cư xử,...)
Các định nghĩa tâm lý học: nhấn mạnh vào quá trình thích nghi với môi trường, quá
trình học hỏi, hình thành thói quen, lối ứng xử của con người. Một trong những cách định
nghĩa như vậy của William Graham Sumner (1840 - 1910), viện sỹ Mỹ, giáo sư Đại học
Yale và Albert Galloway Keller, học trò và cộng sự của ông là: Tổng thể những thích
nghi của con người với các điều kiện sinh sống của họ chính là văn hóa, hay văn
minh...Những sự thích nghi này được bảo đảm bằng con đường kết hợp những thủ thuật
như biến đổi, chọn lọc và truyền đạt bằng kế thừa.
Các định nghĩa cấu trúc: chú trọng khía cạnh tổ chức cấu trúc của văn hóa, ví dụ
Ralph Linton (1893 - 1953), nhà nhân loại học người Mỹ định nghĩa: a.Văn hóa suy cho
cùng là các phản ứng lặp lại ít nhiều có tổ chức của các thành viên xã hội; b. Văn hóa là
sự kết hợp giữa lối ứng xử mà các thành tố của nó được các thành viên của xã hội đó tán
thành và truyền lại nhờ kế thừa.
Các định nghĩa nguồn gốc: định nghĩa văn hóa từ góc độ nguồn gốc của nó, ví dụ
định nghĩa của Pitirim Alexandrovich Sorokin (1889 - 1968), nhà xã hội học người Mỹ
gốc Nga, người sáng lập khoa Xã hội học của Đại học Harvard: Với nghĩa rộng nhất, văn
hóa chỉ tổng thể những gì được tạo ra, hay được cải biến bởi hoạt động có ý thức hay vô
thức của hai hay nhiều cá nhân tương tác với nhau và tác động đến lối ứng xử của nhau.
Năm 2002, UNESCO đã đưa ra định nghĩa về văn hóa như sau: Văn hóa nên được
đề cập đến như là một tập hợp của những đặc trưng về tâm hồn, vật chất, tri thức và xúc
cảm của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội và nó chứa đựng, ngoài văn học và
nghệ thuật, cả cách sống, phương thức chung sống, hệ thống giá trị, truyền thống và đức
tin.
Tóm lại, Văn hóa là sản phẩm của loài người, văn hóa được tạo ra và phát triển
trong quan hệ qua lại giữa con người và xã hội. Song, chính văn hóa lại tham gia vào việc
tạo nên con người, và duy trì sự bền vững và trật tự xã hội. Văn hóa được truyền từ thế hệ
này sang thế hệ khác thông qua quá trình xã hội hóa. Văn hóa được tái tạo và phát triển
trong quá trình hành động và tương tác xã hội của con người. Văn hóa là trình độ phát
triển của con người và của xã hội được biểu hiện trong các kiểu và hình thức tổ chức đời
sống và hành động của con người cũng như trong giá trị vật chất và tinh thần mà do con
người tạo ra.
1.2. Khái niệm văn hóa ẩm thực
Ẩm thực Việt Nam là cách gọi chung của phương thức chế biến món ăn, chế biến
gia vị những thói quen ăn uống trên đất Việt nam. Phần văn hóa trong ăn uống thể hiện
phẩm giá của con người, trình đọ văn hóa trong mỗi con người. Ăn uống của mỗi Dan tộc
thể hiện giá trị chân - thiện – mĩ.
Từ cách đánh giá trên ta có thể đưa ra khái niệm chung nhất: văn hóa ẩm thực là
món ăn thức uống , cách thức ăn uống phong tục ăn uống đặc trưng của từng địa phương
từng dân tộc truyền lại từ lâu đời. Nó phản ánh tính cách , phản ánh tình nghĩa lối sống ,
triết lý nhân sinh, trình độ văn hóa của chủ thể ẩm thưc mang đậm bản sắc và tạo nên sắc
thái riêng biệt từng địa phương từng dân tộc.
Có thể hiểu văn hóa ẩm thực là phong tục thể thức ăn uống từ nghìn xưa để lại mạng
đậm sắc thái tạo nên nét riêng biệt của nước đó.
1.3. Khái niệm bản sắc văn hóa
Bản sắc văn hóa là gì? Đó là tổng thể các giá trị đặc trưng bản chất của văn hóa dân
tộc, được hình thành, tồn tại và phát triển suốt quá trình lịch sử lâu dài của đất nước, các
giá trị đặc trưng ấy ở "tầng nền" mang tính bền vững, trường tồn, trừu tượng và tiềm ẩn.
Do vậy, muốn nhận biết nó, phải thông qua vô vàn các sắc thái văn hóa, với tư cách là sự
biểu hiện của bản sắc văn hóa ấy. Nếu bản sắc văn hóa là cái gì trừu tượng, tiềm ẩn, bền
vững, thì các sắc thái biểu hiện của nó thường tương đối cụ thể, bộc lộ và khả biến hơn.
Từ quan niệm chung như vậy, chúng ta có thể xem xét các sắc thái văn hóa vô cùng
phong phú và đa dạng của bản sắc văn hóa Việt Nam, như là chủ nghĩa yêu nước, tính
cộng đồng, tinh thần cởi mở, dễ hòa hợp, thích ứng trong giao lưu văn hóạ.., tính duy tình
(tình thương) trong các cư xử xã hội, tính thích ứng và hài hòa trong ứng với tự xử nhiên.
CHƯƠNG 2: KHÁI QUÁT NGHỆ AN – ĐẤT VÀ NGƯỜI
2.1. Khái quát mảnh đất Nghệ An
2.1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên
Nghệ An là tỉnh có diện tích lớn nhất nước ta, chiếm khoảng 5% diện tích cả nước.
Nghệ An nằm ở vùng Bắc Trung bộ nước Việt Nam, có tọa độ địa lý từ 18 o33' đến 20o00'
vĩ độ Bắc và từ 103o52' đến 105o48' kinh độ Đông.Phía Bắc giáp tỉnh Thanh Hoá, Nam
giáp tỉnh Hà Tĩnh, Tây giáp nước bạn Lào, Đông giáp với biển Đông.
Địa hình Nghệ An gồm có núi, đồi, thung lũng. Độ dốc thoải dần từ đông bắc xuống
tây nam. Hệ thống sông ngòi của tỉnh dày đặc, có bờ biển dài 82 km. Giao thông đuờng
bộ, đường sắt, đường thuỷ và đường không đều thuận lợi: có quốc lộ 1A và tuyến đường
sắt Bắc Nam chạy qua tỉnh dài 94km, có cảng biển Cửa Lò, sân bay Vinh.
Tỉnh Nghệ An nằm ở Đông Bắc dãy Trường Sơn, địa hình đa dạng, phức tạp và bị chia
cắt bởi các hệ thống đồi núi, sông suối hướng nghiêng từ Tây - Bắc xuống Đông - Nam.
Đỉnh núi cao nhất là đỉnh Pulaileng (2.711m) ở huyện Kỳ Sơn, thấp nhất là vùng đồng
bằng huyện Quỳnh Lưu, Diễn Châu, Yên Thành có nơi chỉ cao đến 0,2 m so với mặt
nước biển (đó là xã Quỳnh Thanh huyện Quỳnh Lưu).Đồi núi chiếm 83% diện tích đất tự
nhiên của toàn tỉnh. Tổng chiều dài sông suối trên địa bàn tỉnh là 9.828 km, mật độ trung
bình là 0,7 km/km2. Sông lớn nhất là sông Cả (sông Lam) bắt nguồn từ huyện Mường Pẹc
tỉnh Xieng Khoảng (Lào), có chiều dài là 532 km..Bờ biển dài 82 km, có 6 cửa lạch thuận
lợi cho việc vận tải biển, phát triển cảng biển: cảng biển Cửa Lò.
2.1.2. Đặc điểm lịch sử văn hoá – xã hội
Nghệ An là mảnh đất được khai phá lâu đời. Từ thời Hùng Vương và An Dương
Vương tỉnh Nghệ An bao gồm toàn bộ Hoài hoan và khu vực Bắc Bộ cửu Đức . Trong
suốt 1000 năm bắc thuộc, Nghệ An nhiều lần được đổi tên nhiều lần.
Thời tiền lê đâ là vùng đất thuộc châu hoan, châu diễn. Đến triều Lí – Trần thay tên
hoan châu với tên gọi xứ Nghệ An. Năm 1469, Lê Thánh Tông thống nhất bản đồ hành
chính của cả nước.
Nghệ An in đậm dấu ấn văn hoá lịch sử của đất nước trong suốt quá trình dựng nước
và giữ nước. Người dân Xứ Nghệ tuy nghèo nhưng nổi tiếng tinh thần hiếu học cũng như
thái độ lạc quan , tin tưởng vào cuộc sống. Vùng đất còn nhiều khó khăn, Thiên nhiên
khắc nghiệt đã phần nào tạo cho con người đức tính cần cù chịu khó, dũng cảm và kiên
nghị. Và mảnh đất này là quê hương của nhiều anh hùng dân tộc , tiêu biểu cho tinh thần
yêu nước sâu sắc.
Nghệ An cũng là địa danh cũng mang nhiều nét đặc sắc của dòng văn học dân gian
với các thể loại như: hò, vè, ca dao, đặc biệt là các làn điệu dân ca như hát ví dặm, hát
phường vải, ...các tác phẩm dân gian này được hun đúc, lưu truyền qua bao thế hệ và tạo
bản sắc riêng của văn hoá Xứ Nghệ.
Nghệ An rất giàu truyền thống trong các cuộc đấu tranh chống ngoại xâm. Điển
hình là nhiều cuộc khởi nghĩa đã diễn ra ở mảnh đất này, như phong trào 1930-1931, là
dấu mốc sáng chói về tinh thần yêu nước. Truyền thống yêu nước chống ngoại xâm của
Xứ Nghệ còn minh chứng qua hàng loạt các di tích lịch sử còn để lại. Những di tích lịch
sử đó là bảo tàng giáo dục cho thế hệ trẻ nối tiếp tinh thần cha ông xưa.
2.2. Một số nét bản sắc con người Xứ Nghệ
Nghệ An không chỉ được biết đến là nơi đất cằn sỏi đá, khí hậu khắc nghiệt, cuộc
sống khó khăn,mà nơi đây còn được mệnh danh là địa linh nhân kiệt. Nơi đây đã sản sinh
ra cho dân tộc việt nam những nhân tài kiệt xuất những con nguời được lưu danh muôn
thủơ. Hoàn cảnh thiên nhiên, hoàn cảnh xã hội đã tạo cho con người xứ nghệ có những
điểm khác biệt so với các địa phương khác trong nước. Mọi người biết đến xứ nghệ như
một vùng văn hóa có những đặc trưng riêng, mang đậm tính chất nghệ để phân biệt với
vùng văn hóa khác. Mảnh đất và con người xô viết dường như mang đậm dấu ấn thiên
nhiên quê hương mình, tạo nên những nét bản sắc độc đáo của vùng quê này.
Nghệ An được xem là mảnh đất phên dậu của đất nước, con người nơi đây luôn có
một tấm lòng son sắc với quê hương và dân tộc. Từ ngàn xưa xứ nghệ đã nổi danh là
mảnh đất kiên cường anh dũng. Con người xứ nghệ sẵn sàng xả thân vì nghĩa lớn, vì quê
hương đất nước. Đền Cuông còn đó vẫn đứng sừng sững dưới núi Mộ Dạ như một minh
chứng lịch sử. Hơn một nghìn năm bắc thuộc dưới cai trị của phong kiến phương bắc thì
cũng từng đấy thời gian cùng với dân tộc con người xứ nghệ luôn một lòng đấu tranh
dành độc lập cho tổ quốc. Từ các cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng ( 40-43), Lý
Bôn(542) nhân dân nghệ tĩnh một lòng hưởng ứng, tham gia đấu tranh góp phần tạo nên
những chiến thắng vẻ vang trong lịch sử dân tộc. Điển hình là cuộc khởi nghĩa của Vua
Mai Thúc Loan chống nhà đường. Với ý chí căm thù giặc sâu sắc Mai Thúc Loan đã phất
cờ khởi nghĩa giải phóng được một vùng đất rộng lớn từ Hà Tĩnh cho đến Thanh Hóa.
Sinh ra và lớn lên từ mảnh đất nghệ tĩnh nghèo khổ ông vua đen đã làm rạng rỡ mảnh đất
này.
Cùng với dân tộc trong các cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm, nhân dân xứ
nghệ luôn đóng góp cho tổ quốc những người con ưu tú, lịch sử dân tộc đã ghi danh cha
con Đặng Tất,Đặng Dung, anh em Nguyễn xí…Với thế mạnh đất rộng người đông, con
người nơi đây lại có một tấm lòng yêu nước nồng nàn vì thế mảnh đất này được chọn làm
bàn đạp cho những trận đánh lớn có tính chất quyết định. Từ Lê Lợi cho đến Nguyễn Huệ
đều xem mảnh đất này là điểm trọng yếu và con người nơi đây là những anh hùng.
Phượng Hoàng Trung Đô gắn liền với vị Vua tài ba Quang Trung. Chúng ta không thể
quên được phong trào xô viết năm nào, đó là chiến thắng mang đậm dấu ấn và vai trò
lãnh đạo của Đảng, là tiền đề ngòi nổ cho mọi phong trao cho đấu tranh sau này. Tiếp
bước tinh thần yêu nước của cha anh xứ nghệ chàng trai trẻ Nguyễn Tất Thành đã ra đi
tìm đường cứu nước, và chính người đã trở thành vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc, chính
người đã làm rạng rỡ non sông đất nước ta. Hồ Chí Minh là sự kết tinh của bản chất con
người xứ nghệ với đức tính yêu nước hiếu học, thông minh, cần cù là con người quyết
đoán. Nhắc đến Người là nhắc đến niềm tự hào của xứ nghệ nói riêng và dân tộc việt nam
nói chung.
Cùng với tinh thần yêu nước sâu sắc con người nghệ an đươc biết đến bởi sự hiếu
học, tôn sư trọng đạo. Nói đến nghệ an là nói đến ông đồ xứ nghệ đây cũng là niềm tự
hào của vùng đất này. Xứ nghệ là nơi đóng góp cho đất nước nhiều nhân tài trên nhiều
lĩnh vực qua các thời kỳ lịch sử. Người mở đầu cho nền khoa bảng nghệ tĩnh là Bạc Liêu
quê làng nguyễn xá. Tiếp nối tinh thần đó con người xứ nghệ luôn có gắng vươn lên vượt
qua mọi thử thách để đến với vinh quang. Những cái tên như Nguyễn Công Trứ, Phan
Bội Châu… Họ không chỉ làm rạng rỡ xứ sở mà tên tuổi họ còn lưu danh muôn đời. Ở
mảnh đất này đã xuất hiện các dòng họ, các địa danh nổi tiếng gắn liền với học hành và
đỗ đạt như : Thanh Chương, Đô Lương hay quỳnh Lưu… đó là những mảnh đất sẽ gắn
mãi với lịch sử dân tộc. Truyền thống hiếu học tôn sư trọng đạo của đất nghệ là một nét
bản sắc đáng quý được nuôi dưỡng và phát huy qua nhiều thế hệ. Gian khổ không là gì
đối với ông đồ xứ nghệ họ luôn làm tất cả để phục vụ nhân dân bảo vệ tổ quốc. công
danh của ông đồ nghệ luôn đi liền với khí tiết và cách sống trong sạch. Danh lợi đối với
họ chỉ là một thứ phù phiếm không phải mục đích sống, đó cũng chính là cái sống khác
người ở vùng đất này.
Trong cuộc sống với điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt đất đai cằn cỗi, cuộc sống
sinh hoạt của con người nơi đây không đầy đủ sung túc. Cái ăn cái mặc luôn là vấn đề
toan tính hằng ngày. Trong điều kiện như vậy, người dân đã hình thành nên những tính
cách đặc trưng, họ chịu khó chịu khổ bền bỉ trong lao động sản xuất, cần cù và tiết kiệm
trong sinh hoạt, anh dũng trong chiến đấu, nhân hậu trong đối xử với mọi người.
Người xứ nghệ có thể ngang tàn cứng nhắc nhưng không khô khan, họ luôn biết
chung lưng đấu cật giúp đỡ lẫn nhau trong gian khổ, biết xả thân vì nghĩa lớn vì quê
hương đất nước, tình làng nghĩa xóm luôn được giữ gìn. Họ thương yêu đoàn kết, thống
nhất ý chí và nghị lực đã gắn kết những con người nơi đây thành một khối thống nhất tạo
nên sức mạnh để vượt qua tất cả khó khăn, nghèo khổ. Tinh thần yêu nước, hiếu học, gắn
bó là đặc trưng của con người xứ nghệ. Về xứ nghệ ta luôn nghe những câu ca vọng mãi:
Con ơi mẹ dạy câu này
Chăm lo đèn sách cho tày áo cơm
Làm người đói sạch rách thơm
Công danh là nợ nước non phải đền.
CHƯƠNG 3: ĐẶC TRƯNG VĂN HÓA NGHỆ AN QUA MÓN ĂN
3.1. Vài nét về ẩm thực xứ Nghệ
Miền đất núi Hồng, sông Lam từ lâu đã nổi tiếng là vùng đất đầy khắc nghiệt vì vậy
con người ở đây đã sớm tạo cho mình bản lĩnh và tính cách riêng. Trong văn hoá ẩm thực
cũng có những đặc trưng riêng mang đậm phong cách của con người xứ Nghệ.
Nếu như người Hà Thành hào hoa nổi tiếng sành ăn với các món ngon đặc sản thì người
miền Trung chất phác, cần cù lại nổi tiếng bởi chính những món ăn dân dã hàng ngày. Đó
là đĩa mắm, chén cà, là bèn môn (dọc mùng), rau vác... những loại rau, củ, vật phẩm hết
sức bình thường, nơi nào cũng có nhưng ở miền Trung mà tiêu biểu là Nghệ An lại nổi
lên như một đặc trưng, để rồi ai đã từng đến đây, gắn bó với mảnh đất và con người nơi
đây mới cảm nhận được nét đặc sắc trong ẩm thực của người dân xứ Nghệ.
Không hoa văn, màu mè, cầu kỳ trong chế biến các món ăn mà chủ yếu chân chất,
như chính những người dân cần cù, lam lũ nơi đây. Vậy mà cũng đi vào thơ ca để rồi mấy
ai có thể quên Long Xuyên chén mắm, Nghệ An đĩa cà, Bánh đúc trấy tro, bán bò không
kịp (ăn bánh đúc trấy tro ngon đến nỗi phải bán bò để trả nhà hàng). Măng chua nước
chát, Khoai lang chạc, nước chè trâm, Cá đồng nấu khế, cá bể nấu dưa, Cá bống kho tiêu,
cá thiều kho mỡ…Gia giảm trong các món ăn mà người Nghệ An sử dụng cũng hết sức
giản dị và dễ kiếm, không phải là sự tổng hợp nhiều nhiên liệu, nhiều gia vị phức tạp.
Trong cách chế biến này phần nào đã thể hiện rõ đặc trưng miền đất và con người xứ
Nghệ mộc mạc, bình dân trong ăn uống. Những món nổi tiếng nhất ở xứ Nghệ lại là
những món bình dị nhất như nhút Thanh Chương, tương Nam Đàn. Nhút thực ra là món
dưa muối chua mà vật liệu chính là mít non và xơ mít những thứ tưởng như không ăn
được nhưng người Nghệ An đã biết tận dụng và chế biến nó thành một món ăn thay rau
chấm với tương tự làm rất thú vị mà chỉ riêng xứ Nghệ mới có. Đúng là ẩm thực xứ Nghệ
là ẩm thực của những người bình dân, chất phác, cần cù một nắng hai sương quen với
những nhọc nhằn vất vả có thế mới thấy được hết ý vị trong các món ăn.
Tuy nhiên ở vùng đất này không phải không có những món ăn cao cấp dành riêng
trong những ngày lễ tết như giò hoa, chả lụa, bánh trong, bánh lọc...Ở những món này
người xứ Nghệ cũng biết chọn những thức ăn kết hợp với nhau tạo nên những món ngon,
giàu giá trị dinh dưỡng lại hiếm hoi như gạo tám xoan, gan cá bống....nhưng ngay cả
trong những món ăn cao cấp này cũng vẫn bộc lộ cái chân chất, thô sơ của miền quê xứ
Nghệ. Đó vẫn là sự giản dị ở cách chế biến, ở nguyên liệu dễ tìm, ở cách trình bày mộc
mạc không cầu kỳ hoa văn, mỹ thuật đó chính là đặc trưng là nét nổi bật nhất của con
người cũng như ẩm thực xứ Nghệ.
3.2. Nguyên liệu và cách chế biến món cháo lươn ở Xứ Nghệ
Xứ Nghệ nổi tiếng với nhiều đặc sản đặc trưng cho một vùng đất gió Lào cát trắng
nhọc nhằn như nhút Thanh Chương, tương Nam Đàn, khoai Thanh Chương, nước mắm
Diễn Châu, cam Vinh… Tuy nhiên, một đặc sản không thể bỏ qua được đối với khách
gần xa đến với xứ Nghệ là món cháo lươn, để rồi ai đi cũng lưu luyến hoài về cái hương
vị thơm ngon đậm đà ấy.
Xứ Nghệ vốn nổi tiếng là vùng đất lươn với loại lươn đồng mình thon, thịt chắc,
“hai vành” vàng bụng đen hơn hẳn lươn ở xứ khác. Lươn đã được chế biến khéo léo dưới
những bàn tay tài hoa của người đầu bếp để thành bát cháo lươn đặc biệt mà “ không nơi
mô có được”. Nguyên liệu chế biến lươn gồm có:
-
lươn đồng
-
1 chén gạo tẻ loại ngon
-
1 củ nghệ lớn
-
Hành tăm
-
Hành lá, rau răm.
-
Các loại gia vị khác
Đầu tiên là làm sạch lươn bằng tro, dùng tro vuốt dọc thân lươn vài lần để làm sạch
nhớt, sau đó ngâm với nước tro pha loãng khoảng 5 phút, sau đó rửa lại bằng nước sạch.
Lươn ở đây không mổ bằng dao mà dùng cật tre để rọc thịt lươn. Khâu chế biến
tưởng chừng như đơn giản mà rất kỳ công. Thịt lươn bao giờ cũng đi liền với lươn là
nghệ. Màu vàng tươi của nghệ không chỉ đem lại cho thịt lươn vẻ hấp dẫn đặc biệt mà
hương vị của nghệ còn làm cho thịt lươn thêm đậm đà, thơm, ngọt. Nghệ đã góp phần
xua tan đi cái vị tanh cố hữu của lươn. Thịt lươn sau khi luộc chín được xào với nghệ, ớt
băm nhỏ, hành phi, hạt tiêu và nhất là không thể thiếu được những cọng hành tăm chỉ
mọc ở vùng Nghệ An, Hà Tĩnh. Cũng như nghệ, thứ hành tăm lá nhỏ xíu chỉ có ở vùng
đất xứ Nghệ này không chỉ “làm đẹp” cho bát cháo sánh ngọt với màu xanh rất ngon mắt
mà còn tạo cho cháo lươn Nghệ An có hương vị đặc biệt riêng bởi vị ngọt thơm, cay
nồng rất đặc trưng. Miếng thịt lươn được lọc to bản, vuông vức, khi xào xong vẫn mềm,
ngọt, thấm đẫm vị thơm cay của hành, ớt, tiêu, óng ánh sắc vàng của nghệ, điểm màu
xanh của lá hành tăm, lá răm, chỉ nhìn thôi cũng đủ thấy hấp dẫn. Hành tăm-thứ gia vị
đặc biệt của cháo lươn xứ Nghệ
Cháo cũng được nấu rất kỳ công, và đặc biệt. Người ta đạp đạp hoặc băm nhuyễn
xương sống của con lươn, nấu lấy nước súp, rồi lọc bỏ xương vụn đi, sau đó mới đem
ninh cháo. Nhờ có nước ngọt nấu từ chính xương sống của con lươn nên cháo lươn Nghệ
An có vị ngọt rất riêng: đậm nhưng lại rất thanh, không thấy vị béo của mỡ, khác hẳn với
vị ngọt của cháo nấu từ thịt gà hay xương lợn. Gạo để nấu cháo cũng được chọn kỹ
lưỡng. Loại gạo tẻ nào ngon nhất mới được người Nghệ An chọn để nấu cháo lươn. Sự
kỳ công của công đoạn ninh cháo thể hiện ở chỗ gạo phải được rắc từ từ để cháo không
vón cục và người nấu tuyệt đối không được dùng đũ để cháo không bị nát hay bị nồng.
Đặc biệt hơn nữa, người xứ Nghệ để nguyên hạt gạo mà ninh cháo chứ không giã nhỏ
hay xay gạo thành bột. Cháo ninh thật kỹ, hạt gạo nở bung mà không nát, cháo sánh đều,
không đặc cũng không loãng. Loại gạo tẻ nào ngon nhất mới được người Nghệ An chọn
để nấu cháo lươn
Khi ăn, người ta múc cháo ra bát, xúc một ít thịt lươn xào thơm phức, thêm một
chút nước sốt vàng ngậy, một chút hành, răm và những mảnh hạt tiêu bắc li ti nhỏ mịn.
Cháo lươn Nghệ An ăn với bánh mỳ rán giòn vàng ươm hay bánh mướt lạ miệng.
Món cháo lươn xứ Nghệ dù rất giản dị, chân phương bởi được nấu từ những sản
vật gần gũi của đồng đất Nghệ An nhưng trở thành nét văn hoá đặc trưng cho vùng đất
này, thành niềm nhớ, niềm thương của những người con xứ Nghệ khi xa quê để rồi mỗi
khi trở về chưa thưởng thức được bát cháo lươn nóng hổi đậm đà với miếng bánh mỳ
giòn tan là chưa trọn vẹn nỗi nhớ quê đau đáu. Và cháo lươn cũng để lại ấn tượng khó
phai của người khách có dịp ghé qua miền Nghệ An nắng gió mà khi trở lại phải tìm ăn
cháo lươn cho bằng được mà thôi.
3.3. Đặc trưng văn hóa Nghệ An qua cháo lươn.
Xứ Nghệ vốn nổi tiếng với nhiều đặc sản được rất nhiều người ưa thích như cà
pháo Nghi Lộc, nước mắn Diễn Châu, cam Xạ Đoài, “nhút Thanh Chương, tương Nam
Đàn”.... và tất nhiên không thể không nhắc đến món cháo lươn, một đặc sản và là niềm tự
hào của người dân xứ Nghệ.
Người Nghệ xưa vốn là những tâm hồn dung dị, giản đơn song những gì họ đã
dựng xây không hề nhỏ bé chút nào,Ngày nay, người ta vẫn còn tương truyền về một câu
chuyện "cá gỗ" nhưng nó không còn mang nghĩa châm biếm mà đơn giản chỉ như một
câu chuyện hài với nhiều hàm ý súc tích. Đó cũng chính là thành quả của sự sáng tạo
không ngừng. Món ăn Nghệ đã được biết đến và bứoc đầu khẳng định được thương hiệu
riên.Người dân Nghệ đã đưa được nét văn hóa của quê nhà tới khoe sắc với các vùng
miền khá. Đặc biệt điển hình cho văn hóa vùng đất này là món cháo lươn. Nó là nơi hội
tụ của nhiều ý nét đẹp truyền thống làng quê Việt Nam.
Để nấu được một nồi cháo lươn đậm đà thơm ngon là cả một kì công của người
vào bếp. Đầu tiên là khâu chọn lươn, để cháo ngon và không bị ngầy, lươn được chọn
phải là loại lươn đồng, thịt lươn săn chắc, có hai sọc vàng ở bụng, đen ở lưng. Những con
lươn này được người dân bản xứ đánh bắt ngoài đồng bằng trúm, một công cụ bắt lươn
của người dân địa phương.
Món cháo lươn xứ Nghệ dù rất giản dị, chân phương bởi được nấu từ những sản
vật gần gũi của đồng đất Nghệ An nhưng trở thành nét văn hoá đặc trưng cho vùng đất
này, thành niềm nhớ, niềm thương của những người con xứ Nghệ khi xa quê. Và cháo
lươn cũng để lại ấn tượng khó phai của người khách có dịp ghé qua miền Nghệ An nắng
gió mà khi trở lại phải tìm ăn cháo lươn cho bằng được mà thôi
Ăn bát cháo nóng, mồ hôi lấm tấm trên trán, dù giữa mùa hè cũng nên dùng một
bát nước chè xanh nóng để tráng miệng mới cảm nhận được cái thú vị, cái đặc sắc của
món cháo lươn. Bát chè tươi khéo hãm, mầu nước trong xanh, đậm đà mà không quá
chát, mùa đông có thể đập thêm vài lát gừng cho thêm ấm bụng, cũng là một nét đáng
yêu vẫn hay được nhắc đến trong những đồ ăn, uống của người xứ Nghệ, giản dị như vậy
thôi nhưng mang bản sắc của một vùng quê nổi tiếng.
Không biết từ bao giờ một món ăn “chân quê” bỗng trở thành một nét văn hóa ẩm
thực xứ Nghệ, có sức hút, sức vẫy gọi với những người con xa xứ, cả với những khách
phương xa đã một lần được thưởng thức thì mãi không quên.
3.4. Sự khác biệt của món cháo lươn Xứ Nghệ với các vùng miền khác
Có thể dù đi đâu làm gì đi chưng nữa thì khi mỗi lần chúng ta ăn bát cháo lươn
quê nhà và bát cháo nơi đất khách ta cũng dễ dàng nhận ra được sự khác biệt ở trong đó.
Ai đã từng đặt chân đến Nghệ An, mảnh đất đầy gió Lào và cát trắng, từng được
thưởng thức bát cháo lươn nóng hổi trong đêm đông giá rét có lẽ sẽ không quên được
hương vị đặc trưng của món này. Một nhà văn quê gốc Bắc nhận xét rằng: “Nấu được
một nồi cháo lươn mang đúng hương vị, màu sắc đặc trưng của xứ Nghệ là cả một nghệ
thuật”.
Những miếng thịt lươn được chẻ hai, chẻ ba trông như hoa nở giữa bát cháo đặc
sánh. Hành phi, hành hoa hay chút rau răm được rắc trên bề mặt càng làm kích thích vị
giác. Để thêm phần đậm đà, bạn có thể vắt thêm chanh, nêm một chút nước mắm, tiêu
hay đơn giản là cho một xíu nghệ.
Cháo lươn Nghệ An không xào thịt lươn đến săn khô như cháo lươn ở Hà Nội.
Miếng lươn để nguyên, mềm, ngọt, thấm đậm vị thơm cay của hành, ớt, tiêu, óng ánh
sắc vàng của nghệ, điểm màu xanh xanh của hành. Xương sống lươn được giã giập rồi
lọc lấy nước để ninh cháo. Gạo nấu cháo phải là loại ngon, pha thêm nếp để cháo sánh
hơn. Khi nấu phải ninh thật kỹ để hạt gạo nở bung, nhưng không đặc, cũng không được
loãng quá.
Khác với cháo lươn khoai môn thường thấy trong vài khu phố người Hoa ở Sài
Gòn, có vị khoai môn đậm và sền sệt thì cháo lươn Nghệ An lại dậy mùi nghệ, hành, ăn
vào thấy no lâu mà vẫn nhẹ bụng. Có lẽ chính vì đặc trưng này mà cháo lươn đã để lại
nỗi nhớ quay quắt trong lòng những người con xứ Nghệ khi xa quê.
3.5. Văn hóa ẩm thực Xứ Nghệ và việc bảo tồn phát huy giá trị truyền thống.
Người Việt vốn là những con người cần mẫn sáng tạo và thế giới ẩm thực của họ
được đánh giá như một bức tranh muôn màu muôn vẻ.Chúng ta đã thật tự hào với những
thương hiệu như: Nước mắm Việt, Phở Hà Nội, Bánh chưng bánh dày, rượu cuốc
lủi....Và một điều thật đặc biệt, đó là ở mỗi vùng miền đều xây dựng riêng cho mình một
phong cách, một tập quán ăn uống khác nhau.
Nằm ở khu vực miền Trung, Nghệ an được biết tới là một mảnh đất hiếu học và
giàu truyền thống văn hoá.Ẩm thực Nghệ không có điều kiện để phát triển rực rỡ như Hà
Thành, Cố đô Huế hay khu vực Nam bộ, song trong cái sự khiêm tốn ấy vẫn tóat lên
những vẻ đẹp thật đáng tự hào.
Với vị trí địa đầu khu vực miền Trung, Nghệ An là mảnh đất gió Lào cát trắng. có
S 16.487km2 và dân số khỏang 3triệu người, địa hình đa dạng phong phú, đồi núi chiếm
83% diện tích lãnh thổ.Đây là vùng đất cổ,các nhà khoa học đã tìm thấy nhiều dấu vết cư
trú của người cổ đại đồ đá cũ cách đây hàng vạn năm như khu vực hang Thẩm Ồm -Quỳ
Châu,nền văn minh Đông Sơn tại Làng Vạc -Nghĩa đàn.Trải qua nhiều giai đọan phát
triển, vùng đất Nghệ đã từng bước khẳng định được nền văn hóa rực rỡ của mình trong
đó có yếu tố ẩm thực.
Đối với người dân xứ Nghệ , quan niệm ăn uống tỏ ra cần kiệm , dung dị.Sự khắc
nghiệt của thời tiết ,thiên tai đe dọa, đất đai cằn cỗi, mùa màng bấp bênh,tất cả những rủi
ro đó đều làm cho người nông dân trở nên tằn tiện chắt bóp. Chính vì vậy ở đây vẫn
tương truyền về tích " Cơm cá gỗ, hoặc truyền miệng nhau bằng những lời nói lạc
quan"Thịt cá là hương hoa, tương cà là gia bản".Tưởng chừng mảnh đất gió lào cát trắng
sẽ thật khó để xây dựng một nền văn hóa ẩm thực khoe sắc đến thế, nhưng vượt lên tất,
cả con người nơi đây, thiên nhiên nơi đây vẫn sản sinh ra những đặc sản nổi tiếng góp
phần phong phú cho nền ẩm thực nước nhà.
Đặc sản Nghệ cũng cũng là nét văn hóa phản ánh đời sống, sinh họat của con
nguời nơi đây, không hào hoa như đất BẮc kỳ, không cầu kỳ như cố đô Huế và cũng
không được phóng khóang như mảnh đất Nam Bộ giàu tài nguyên.Món ăn Nghệ hình
thành từ sự khó khăn, gian khổ, từ những sản vật vươn lên khỏi cái khắc nghiệt của tự
nhiên như: Nhút Thanh Chương, tương Nam đàn, cam Xã Đoài, Chim cu gáy...
Người xa quê mỗi lần mường tượng lại những tháng ngày thơ bé hẳn không thể
quên được hình ảnh một chiếc chõng tre, ấm chè xanh nóng hổi, bà con chòm xóm sau
một ngày lao động mệt nhọc quây quần bên nhau nói chuyện tỉ tê.Một nét đẹp dung dị
nhưng có lẽ đã trở thành văn hóa làng quê Nghệ. Chè xanh vốn là sản phẩm của trồng
trọt, là thành quả của người nông dân.Không chỉ ở thôn quê Nghệ Tĩnh mới phổ biến
thức uống này, đâu đâu trên mọi miền quê Việt, bát chè xanh bốc khói vẫn luôn là hình
ảnh in đậm trong tâm trí mỗi người khi nghĩ về quê hương.Và còn đâu đó sau lũy tre
làng, hình ảnh người bà, người mẹ rạng ngời đi chợ về,ẩn trong những mớ rau con tép là
một vài thức quà co trẻ nhỏ, khi thì cái bánh đúc, lúc là cặp bánh đa, bánh gói hay một
vài quả na, quả ổi....quà quê Nghệ đơn giản có vậy.
Ngày nay, ẩm thực Nghệ đã trở nên đa màu sắc, bên cạnh những món ăn đạm bạc
dân đã được điểm tô bởi nhiều thức quà và đặc sản khác. Nếu một ai đó một lần ghé
thăm thành Vinh vào buổi sáng sẽ thấy ngạc nhiên khi bắt gặp hình ảnh một vài quán
quà sáng, người chen chúc nhau từ già trẻ gái trai chỉ để thưởng thức một bát cháo lươn.
Nó còn là sự háo hức của du khách mỗi khi hành hương về xứ Nghệ.Món ăn này cũng
chính như những con người Nghệ vậy,vừa mềm mại vừa nồng nà cay xé, nỗi bật khẩu vị
người miền Trung.Người viễn xứ mỗi khi tới thưởng thức đều phải nhờ cô bán hàng bớt
chút nước cay,thế nhưng vẫn đủ để vừa ăn vừa xúyt xoa, cay tóat cả mồ hôi nhưng vẫn
háo hức,vẫn tò mò.
Người Nghệ xưa vốn là những tâm hồn dung dị, giản đơn song những gì họ đã
dựng xây không hề nhỏ bé chút nào,Ngày nay, người ta vẫn còn tương truyền về một câu
chuyện "cá gỗ" nhưng nó không còn mang nghĩa châm biếm mà đơn giản chỉ như một
câu chuyện hài với nhiều hàm ý súc tích.Đó cũng chính là thành quả của sự sáng tạo
không ngừng.Món ăn Nghệ đã được biết đến và bứoc đầu khẳng định được thương hiệu
riên.Người dân Nghệ đã đưa được nét văn hóa của quê nhà tới khoe sắc với các vùng
miền khác.... Xứ Nghệ của chúng tôi là thế đấy, như bài hát đã nói rằng:" Nước chè xanh
xứ Nghệ càng chát lại càng ngon,..Người xứ Nghệ quen lâu những đã quen thì sâu
nặng,..."
KẾT LUẬN
Nghệ Tĩnh là mảnh đất có sự hình thành và phát triển lâu dài mấy nghìn năm.
Cuộc sống xã hội nông nghiệp cùng với quá trình đấu tranh bảo vệ đất nước, người dân
xứ Nghệ sáng tạo ra nhiều món ăn gắng liền với hoàn cảnh và diều kiện tự nhiên ở mảnh
đất này. Những món ăn tưởng chừng như quê mùa ấy đã trở thành đặc mang đậm nét đẹp
- Xem thêm -