Kế Toán Quốc Tế- Nhật Bản- ca 2 thứ 3
Lời Mở Đầu
Trong những năm gần đây, nền kinh tế thế giới đã và đang phát triển theo xu
hướng toàn cầu hóa. Đây là xu hướng phát triển tất yếu của thế giới trong giai đoạn
hiện nay và cả trong tương lai. Hoạt động kinh doanh không chỉ diễn ra trong phạm vi
từng quốc gia mà đã phát triển theo hướng hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Lúc này
các thông tin tài chính phải được ghi nhận trên cùng hệ thống chuẩn mực kế toán
chung, là tiền đề để hệ thống chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS) cũng như hệ thống
chuẩn mực kế toán của từng quốc gia được hình thành. Khi đó mỗi quốc gia sẽ tự xây
dựng một hệ thống kế toán riêng. Sự khác biệt của hệ thống các chuẩn mực kế toán
này xuất phát từ sự khác nhau về văn hoá, pháp luật, chính trị, quá trình hình thành và
phát triển của các hiệp hội nghề nghiệp từ đó dẫn đến các báo cáo tài chính cũng có sự
khác biệt. Và Nhật Bản là một quốc gia có một hệ thống kế toán lâu đời với những nét
nổi bật riêng và đang tiến tới việc đổi mới trong mối quan hệ với IFRS. Trong bài
nghiên cứu dưới đây, nhóm sinh viên chúng em tiến hành tìm hiểu về những đặc điểm
cơ bản trong hệ thống kế toán Nhật Bản, đi sâu phân tích vào những điểm đáng lưu ý
và cuối cùng đưa ra những liên hệ thực tế với Việt Nam.
I. Lịch sử hình thành kế toán Nhật Bản
Nhật Bản là một quốc gia phát triển, có nền kinh tế năng động và nền văn hóa đặc
sắc. Từ một đất nước bị tàn phá nặng nề sau chiến tranh thế giới thứ 2, tài nguyên
thiên nhiên khan hiếm, động đất, sóng thần triền miên, Nhật Bản đã vươn lên mạnh mẽ
trở thành một trong những quốc gia phát triển hàng đầu thế giới. Tất cả những điều đó
được tạo nên bởi môi trường chính trị, kinh tế, văn hóa đặc thù của Nhật Bản. Và
chính môi trường này đã dẫn đến sự hình thành của hệ thống kế toán Nhật Bản hiện
nay.
Trải qua hơn 100 năm, hệ thống kinh tế Nhật Bản đã chuyển từ chếđộ phong kiến
sang chế độ tư bản chủ nghĩa. Trong thời kỳ phong kiến, tồn tại hệ thống kế toán
truyền thống của Nhật Bán.Nhưng đến khi chế độ tư bản hiện đại xuất hiện, phương
pháp và nguyên tắc kế toán của hình thức ghi sổ kép đã được giới thiệu và sử dụng
1
Kế Toán Quốc Tế- Nhật Bản- ca 2 thứ 3
rộng rãi tại đất nước này.Bản chất của phương pháp thứ hai rất giống sổ sách kế toán
của Tây Âu. Phương pháp ghi sổ truyền thống của Nhật Bản không nhất thiết phải ghi
sổ kép trong khi phương pháp ghi sổ hiện đại lại dự trên lịch sử ghi sổ kép.
Sự nghiên cứu lịch sử kế toán Nhật Bản tập trung vào hai sự kiện quan trọng có
tác động mang tính cách mạng trên hệ thống sổ sách kế toán.
Sự kiện đầu tiên diễn ra trong nửa sau của năm 1800, liên quan đến sự thay đổi từ
phương pháp ghi sổ kép trong nhật ký sổ sách kế toán truyền thống sang hiện đại. Sự
kiện thứ hai xảy ra ngay sau khi chiến tranh thế giới thứ hai, liên quan đến một sự thay
đổi hầu như toàn bộ từ định hướng sử dụng quản lý truyền thống của Nhật Bản sang sử
dụng các báo cáo tài chính phổ biến ở nhiều nơi trên thế giới.
Sự thay đổi này cũng đúng với những đổi mới kế toán đã diễn ra ở các nước châu
Âu và Hoa Kỳ. Từ nửa sau của thế kỷ XIX, nền kinh tế của Nhật Bản, cũng như các
phương pháp kế toán, đã bị ảnh hưởng mạnh bởi các lực lượng bên ngoài, đặc biệt là
từ Hoa Kỳ và châu Âu.
Có thể nói hệ thống kế toán Nhật Bản được hình thành và phát triển qua
những mốc thời gian tiêu biểu sau :
• Năm 1948 Luật Kế toán Công chứng(Certificated Public Accountants Law)
•Năm 1949:Chuẩn mực Kế toán tài chính cho các doanh nghiệp kinh doanh đã
được ban hành.Viện Kế toán viên công chứng (JICPA) Nhật Bản đã được thành
lập.
• Năm 1951, Luật kế toán thuế cấp phép được ban hành
• Năm 1960, tạp chí JICPA đã được phát hành bởi Viện kế toán viên Công chứng Nhật Bản
• Năm 1973 Uỷ ban Tiêu chuẩn Kế toán Quốc tế (IASC) được thành lập, trong đó JICPA là một trong
những thành viên sáng lập.
• Năm 1975, Chuẩn mực Kế toán Báo cáo tài chính hợp nhất đã được ban hành
• Năm 1977, Liên đoàn Kế toán Quốc tế (IFAC)được thành lập với JICPA là một thành viên hội đồng
sáng lập.
• Năm 1979 chuẩn mực kế toán cho các giao dịch ngoại tệ đã được ban hành.
• Năm 1987 Đại hội kế toán thế giới lần thứ 13 tổ chức tại Tokyo.
• Năm 1991 chuẩn mực kiểm toán và các quy định có liên quan đã được sửa đổi
2
Kế Toán Quốc Tế- Nhật Bản- ca 2 thứ 3
đáng kể.
• Năm 1999: Luật Thương mại đã được sửa đổi
• Năm 2003, Luật Kế toán viên công chứng đã được sửa đổi.
• Năm 2005,Luật Thương mại với các văn bản liên quan, các quy định khác đã được sửa đổi và tổ chức lại
vào Luật công ty.
• Năm 2006, Luật giao dịch Chứng khoán và các quy định khác của pháp luật có
liên quan đã được sửa đổi và tổ chức lại vào Luật giao dịch các công cụ tài chính.
• Năm 2009 , BAC ban hành “Ý kiến về việc áp dụng các chuẩn mực báo cáo tài
chính quốc tế (IFRS) tại Nhật Bản (Báo cáo tạm thời)”
• Năm 2010, Liên nhóm Ấn-Nhật đã được tạo ra như là một nền tảng chung giữa
hai nước để trao đổi quan điểm về nhiều vấn đề phát sinh từ việc áp dụng hoặc
hội tụ với IFRS
• Năm 2011 Ủy ban châu Âu đã thông qua quyết định công nhận sự tương đương
của các hệ thống giám sát kiểm toán tại 10 quốc gia trong đó có Nhật Bản.
II. Những nhân tố ảnh hưởng đến hệ thống kế toán Nhật Bản
1.Môi trường chính trị và pháp lý – pháp luật
1.1 Luật pháp
Nhật Bản là quốc gia theo hệ thống dân luật, các quy định về kế toán được tích
hợp vào hệ thống pháp luật quốc gia và thường có xu hướng quy định một cách chi tiết
cách thức và quy trình. Do đó, những người làm kế toán ít tác động tới sự phát triển
của kế toán. Kế toán được kiểm soát thông qua luật, Nhà nước tác động và quyết định
hệ thống kế toán chủ yếu thông qua luật thương mại, luật giao dịch chứng khoán và
luật thuế thu nhập doanh nghiệp.
Việc hiện đại hóa đầu tiên của luật pháp Nhật Bản chủ yếu dựa trên hệ thống
pháp luật châu Âu lục địa. Vào lúc bắt đầu của kỷ nguyên Minh Trị, hệ thống, đặc biệt
là châu Âu theo pháp luật dân sự của Đức và Pháp – các mô hình chính cho hệ thống
tư pháp và luật pháp Nhật Bản. Sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai, hệ thống luật pháp
Nhật Bản đã trải qua cuộc cải cách lớn dưới sự hướng dẫn và chỉ đạo của các hội Nghề
Nghiệp. Pháp luật Hoa Kỳ có ảnh hưởng mạnh nhất, thời gian thay thế và lần phủ vào
các quy định hiện hành và cơ cấu. Vì vậy, hệ thống pháp luật Nhật Bản ngày hôm nay
3
Kế Toán Quốc Tế- Nhật Bản- ca 2 thứ 3
chủ yếu là lai của lục địa và cấu trúc pháp lý Anh – Mỹ. Chính vì thế mà hệ thống
pháp luật Nhật Bản quy định chi tiết và cụ thể cho việc ghi chép kế toán cũng như việc
lập BCTC.
1.2 Tác động của Thuê
Một nhân tố trong môi trường pháp lý có tác động rất lớn đến hệ thống kế toán
quốc gia là thuế. Hiến pháp Nhật Bản tuyên bố nguyên tắc “ thuế theo pháp luật”, có
những quy định rõ ràng rằng thuế là phương tiện để chuyển giao một phần tiền bạc của
nhân dân về Nhà nước, là kinh phí mua sắm các dịch vụ công cộng.
Chuẩn mực kế toán Nhật Bản chịu sự chi phối của Nhà nước, kế toán thuế ở Nhật
có nhiều mối liên hệ với kế toán tài chính, gắn kết với hệ thống kế toán chung. Thuế
và kế toán ở Nhật Bản khá tương đồng, lợi nhuận kế toán và thu nhập khá giống nhau.
1.3 Sự gắn kêt về chính trị
Nhật Bản là một trong các nước theo hệ thống quân chủ lập hiến, trong đó thủ
tướng là người nắm quyền cao nhất về các phương tiện quản lý quốc gia và chịu dự
giám sát của hai viện quốc hội cùng toà Hiến pháp có thẩm quyền ngăn chặn các quyết
định vi hiến của chính phủ. Được xây dựng dựa trên hình mẫu của Vương quốc Liên
hiệp Anh và Bắc Ireland và một số nước phương Tây khác sau này. Với đặc điểm
chính trị thống nhất, tập trung cùng hệ thống tổ chức quản lý gia đình ở Nhật Bản như
vậy đã phần nào ảnh hưởng đến hệ thống kế toán Nhật Bản. Đó là việc chi phối, quản
lý kiểm soát của Nhà nước với các chuẩn mực kế toán.
2. Môi trường kinh tế
2.1 Kênh huy động vốn hay nguồn cung cấp tài chính
Nhật Bản là quốc gia có nguồn cung cấp tài chính chủ yếu là Ngân hàng. Ngân
hàng hoàn toàn có khả năng tiếp cận để thu thập hoặc kiểm tra thông tin tài chính của
các doanh nghiệp Nhật Bản. Do đó, Ngân hàng thường không đòi hỏi cao về sự đầy đủ
cũng như tính trung thực, hợp lý của thông tin, yêu cầu thường được đặt ra ở đây là sự
tuân thủ các luật định. Có thể thấy rõ ảnh hưởng của sự thay đổi nguồn cung cấp tài
chính ở Nhật Bản đến hệ thống kế toán. Khi thị trường chứng khoán Nhật Bản phát
triển nhanh chóng, vai trò của Ngân hàng giảm dần thì hệ thống kế toán cũng có những
4
Kế Toán Quốc Tế- Nhật Bản- ca 2 thứ 3
thay đổi nhất định trong việc xích lại gần với việc trình bày trung thực và hợp lý cũng
như cung cấp đầy đủ thông tin.
Trong thập kỷ vừa qua, vẻ ngoài tươi sáng trong các câu chuyện thành công của
các doanh nghiệp Nhật Bản cũng đã bị lu mờ khi thế giới biết tới hàng loạt các
“scandal” kinh tế và các khoản nợ xấu làm Nhật bản điêu đứng trong những năm 90.
Lúc này tốc độ tăng trưởng kinh tế của Nhật Bản đã bị chậm lại chủ yếu do các bong
bóng giá tài sản cuối những năm 1980, và sự sụp đổ của chứng khoán Tokyo năm
1990-1992. Giai đoạn này được gọi là "thập kỷ mất mát" tại Nhật Bản. Hiện nay, Nhật
Bản là nơi có thị trường chứng khoán lớn thứ hai thế giới – thị trường chứng khoán
Tokyo với tổng giá trị vốn hóa thị trường đạt 47,5 tỷ bảng Anh.
2.2 Lạm phát
Lạm phát được xem là một nhân tố trong môi trường kinh tế ảnh hưởng đến hệ
thống kế toán các quốc gia. Đối với các quốc gia đang đối đầu với lạm phát, khái
niệm bảo toàn vốn trở nên quan trọng và một số biện pháp kế toán cần được sử
dụng để loại trừ ảnh hưởng sai lệch của các biến động về giá đến báo cáo tài chính.
Tuy nhiên, Nhật Bản được biết đến là một trong những nước có chỉ số lạm phát
thấp nhất thế giới, do đó kế toán Nhật Bản không điều chỉnh lạm phát.
3. Môi trường văn hóa
Kế toán không thể tách rời văn hóa, việc ghi chép, tính toán và trình bày thông tin
kế toán chịu ảnh hưởng sâu xa của nền văn hóa dân tộc. Sự khác biệt về văn hóa dẫn
đến các hệ thống kế toán khác nhau. Các quốc gia thuộc nền văn hóa Ango Saxon
thường thích sự mềm dẻo, xét đoán kế toán. Ngược lại, các quốc gia Phương Đông
thường phải dựa vào các quy định chặt chẽ.
Nhật Bản là đất nước có lịch sử lâu đời. Văn hóa Nhật Bản đặc trưng bởi tinh thần
võ sĩ đạo, nhấn mạnh sự hòa hợp, tôn trọng thứ bậc, suy nghĩ và làm việc mang tính
tập thể, vì một mục tiêu nhất định. Những đặc trưng văn hóa này đã ảnh hưởng không
nhỏ đến hệ thống kế toán Nhật Bản. Để đánh giá về các khía cạnh văn hóa và từ đó
phân tích mối quan hệ giữa chúng và các giá trị kế toán cần dựa trên thang điểm về
văn hóa của Hofstede và mô hình của Gray.
5
Kế Toán Quốc Tế- Nhật Bản- ca 2 thứ 3
3.1. Chủ nghĩa cá nhân (IDV)
Yếu tố này liên quan đến mức độ mà một xã hội chấp nhận chủ nghĩa cá nhân
hay yêu cầu mọi người phải sống vì tập thể. Nhật Bản có chỉ số về chủ nghĩa cá
nhân là 46, mang đặc điểm của xã hội tập thể. Nhật Bản kiểm soát hệ thống kế toán
bằng luật định Tuy nhiên chỉ số này của Nhật Bản cao hơn những nước Châu Á
khác. Theo lý thuyết của Gray, hệ thống kế toán Nhật Bản có tính chuyên nghiệp
thấp, tính thống nhất, bảo thủ, bảo mật cao.
Thể hiện mối quan hệ giữa các cá nhân với nhau trong một xã hội.Trong khi
chủ nghĩa cá nhân được đề cao ở phương Tây, thì ở Nhật sự tự khẳng định cá nhân
dưới bất kỳ hình thức nào cũng không được khuyến khích. Bản tính của người Nhật
không thích đối kháng, đặc biệt là đối đầu cá nhân. Họ chú tâm gìn giữ sự hòa hợp đến
mức nhiều khi lờ đi sự thật, bởi dưới con mắt người Nhật giữ gìn sự nhất trí, thể diện
và uy tín là vấn đề cốt tử. Chính vì vậy trong xã hội Nhật, có rất ít chỗ cho các ý tưởng
cá nhân, mà thay vào đó chủ nghĩa tập thể được đặt lên hàng đầu. Và đặc điểm này
cũng thể hiện trên BCTC của Nhật với một nét thống nhất theo luật định, tính bảo thủ
cao, tôn trọng kế toán truyền thống, chỉ muốn thay đổi một cách từ từ và rất khó khăn
khi tiếp nhận các chuẩn mực kế toán quốc tế. Ngoài ra giá trị văn hoá tập thể cũng
được thể hiện qua một vài khía cạnh độc đáo của hệ thống doanh nghiệp Nhật Bản như
hình thức sở hữu chéo doanh nghiệp (cross – corporate ownership).
3.2 Khoảng cách quyền lực (PD)
- Thể hiện mức độ xã hội có thể chấp nhận sự bất bình đẳng. Sự phân thứ bậc mang tính
"đẳng cấp". Nhật Bản là một trong những nước có PD cao đồng nghĩa với việc xã hội
chấp nhận sự phân phối không công bằng về quyền lực và mọi người đều hiểu “chỗ
đứng” của mình trong xã hội. Cho đến nay với nhiều thay đổi, nhưng tinh thần đó vẫn
biểu hiện rất mạnh trong các mối quan hệ xã hội và các tổ chức của Nhật Bản thể hiện
tôn ti trật tự: Công ty mẹ và con; hội sở và chi nhánh; quan hệ cấp trên cấp dưới; lớp
trước và lớp sau; khách hàng và người bán hàng. Và kế toán thì được kiểm soát bằng
luật định để đi đến sự thống nhất (thể hiện sự quản lý chặt chẽ của Chính Phủ). Trong
xã hội Nhật Bản nói chung và trong công ty Nhật Bản nói riêng thì hệ thống phân chia
6
Kế Toán Quốc Tế- Nhật Bản- ca 2 thứ 3
cấp bậc, chức vụ, vị trí cực kỳ quan trọng. Xã hội Nhật Bản còn được miêu tả có nền
văn hoá cấp bậc thường là theo hình kim tự tháp.
Nhật Bản là quốc gia có chỉ số về khoảng cách quyền lực khá cao 54 nên thường
hướng về một sự kiểm soát bằng luật định về kế toán để đi đến sự thống nhất. Theo lý
thuyết của Gray, căn cứ vào chỉ số này thì hệ thống kế toán Nhật Bản có tính chuyên
nghiệp thấp, tính thống nhất và tính bảo mật cao.
3.3 Sự né tránh những vấn đề chưa rõ ràng (UAV)
Quốc gia có UAV cao luôn cố gắng tránh xa các tình huống không rõ ràng hết
mức có thể. Xã hội đó được điều chỉnh bởi các quy tắc, trật tự, luật lệ rõ ràng và luôn
tìm kiếm một “sự thật” chung. UAV thấp điểm cho thấy xã hội đó thích hưởng ứng sự
kiện mới và các giá trị khác biệt. Do đó ở Nhật, là một quốc gia có UAV mạnh, người
dân được khuyến khích tự do khám phá “sự thật” và kế toán Nhật Bản cũng có những
nét đặc trưng như:
• Không chấp nhận sự linh hoạt mềm dẻo nên thường bảo thủ trong việc lập
BCTC.
• Giới hạn trong việc khai báo thông tin.
• Đưa ra các quy định thống nhất về kế toán.
Nhật là một quốc gia có sự né tránh các vấn đề không chắc chắn cao với điểm số
92. Điều này có nghĩa là ở Nhật, người ta ít sẵn lòng để đương đầu với rủi ro và an
toàn là một trong những động lực mạnh mẽ. Theo phân tích của Gray thì căn cứ vào
điểm số 92, Nhật Bản là quốc gia có hệ thống kế toán có tính chuyên nghiệp thấp, tính
thống nhất, bảo thủ, bảo mật cao.
3.4 Đặc điểm về giới (MAS)
Tại Nhật Bản có thể vấn đề nữ quyền đã là "chuyện nhỏ" bị lơ là, bỏ sót trong
cuộc cách mạng vĩ đại về chính trị, kinh tế, xã hội là Minh Trị Duy Tân, và tiếp tục bị
lơ là bỏ sót trong cuộc cách mạng không kém vĩ đại về chính trị, kinh tế, kỹ thuật là
quá trình xây dựng thần tốc của nước Nhật sau Thế chiến thứ hai. Nước Nhật đã trở
thành cường quốc kinh tế thứ hai trên thế giới, nhưng tương đối, vị trí của người phụ
nữ trong xã hội Nhật Bản vẫn chưa được cải thiện bao nhiêu. Với chỉ số MAS rất cao
7
Kế Toán Quốc Tế- Nhật Bản- ca 2 thứ 3
là 95, số phụ nữ Nhật là lao động chiếm 70,3%, số người giữ các chức vụ quan trọng
của nhà nước chiếm 62,2%, những người có thu nhập trung bình 51,3%. Theo phân
tích của Hofstede, nếu định mở một văn phòng tại Nhật Bản, bạn chỉ có thể có thành
công lớn nếu chỉ định một nhân viên nam dẫn dắt đội và có lực lượng nam giới áp đảo
trong nhóm. Do vậy, ở Nhật khuyến khích nam giới đưa ra các quyết định về kế toán
trong đó luôn áp đặt luật vào.
3.5 Quan điểm định hướng dài hạn (LTO)
Nhật Bản là nước có LTO cao. Nhật Bản không chỉ là một nước tiên tiến mà
còn có thể coi là một trong những nước đầu tiên quan tâm đến vấn đề bảo vệ và giữ gìn
các di sản văn hóa truyền thống, tôn trọng các giá trị văn hóa.Đối với tài sản văn hóa
truyền thống, Nhật Bản không chỉ dừng lại ở việc “bảo vệ, giữ gìn”. Chính phủ Nhật
Bản rất coi trọng việc phát huy tác dụng thực tế của các tài sản văn hóa, đặc biệt là
trong nhận thức và giáo dục. Chính vì vậy mà hệ thống kế toán của Nhật Bản cũng rất
khắt khe, bảo thủ, thận trọng và tuân thủ nghiêm ngặt các chuẩn mực.
Nhật Bản là quốc gia có định hướng dài hạn với điểm số 80. Xã hội Nhật Bản coi
trọng sự kiên trì, sắp xếp các mối quan hệ theo địa vị và tôn trọng sự sắp xếp này, có ý
thức tiết kiệm. Theo phân tích của Gray, hệ thống Nhật Bản có tính chuyên nghiệp
thấp, tính bảo thủ và bảo mật cao.
III. Thực tiễn hòa hợp và hội tụ của kế toán Nhật Bản với kế toán quốc tế. Vai trò
của Nhật Bản trong quá trình hòa hợp và hội tụ của kế toán quốc tế nói chung
1. Thực tiễn hòa hợp và hội tụ của kế toán Nhật Bản với kế toán quốc tế
1.1 Khái niệm hòa hợp, hội tụ
Hòa hợp trong kế toán là là quá trình làm giảm sự khác biệt trong khi vẫn duy trì
tính linh hoạt cao của kế toán.
Hội tụ là việc áp dụng một hệ thống chuẩn mực chung trên toàn thế giới.
1.2 Nguyên nhân hòa hợp và hội tụ kế toán quốc tế.
Quá trình toàn cầu hóa cùng sự phát triển nhanh chóng của thị trường vốn quốc
tế đòi hỏi nâng cao chất lượng thông tin tài chính đảm bảo lợi ích cho các nhà đầu tư.
Do sự khác nhau về môi trường văn hóa, hệ thống pháp lý, chính trị, quá trình hình
8
Kế Toán Quốc Tế- Nhật Bản- ca 2 thứ 3
thành và phát triển của các hội nghề nghiệp, các quốc gia đều có hệ thống chuẩn mực
riêng. Báo cáo tài chính của các quốc gia khác nhau được thành lập theo chuẩn mực
khác nhau. Từ đó cung cấp các kết quả khác nhau, thậm chí là ngược nhau. Vì thế yêu
cầu phải thiết kế một chuẩn mực kế toán chung luôn được xem là một vấn đề bức thiết
trong bối cảnh thương mại hiện nay.
1.3 Thực tiễn hòa hợp và hội tụ của kế toán Nhật Bản với kế toán quốc tế
Hội tụ là một mục tiêu quan trọng cho tất cả những người tham gia thị trường để
thúc đẩy sự tự tin và hiệu quả tại các thị trường vốn toàn cầu. Trong bối cảnh nền kinh
tế hiện nay, Nhật Bản tiếp tục nỗ lực hướng tới thực hiện mục tiêu này.
Uỷ ban chuẩn mực kế toán Nhật Bản (ASBJ) và IASB cũng đã tin tưởng rằng
việc hướng tới hội tụ với một hệ thống chuẩn mực chất lượng cao sẽ mang lại lợi ích
to lớn cho các thị trường vốn trên thế giới. Do đó, họ đã bắt đầu một dự án liên kết vào
tháng 3/2005 với mục tiêu là đạt được sự hội tụ giữa GAAP Nhật Bản và IFRS. Trong
các cuộc thảo luận, hai bên đã nhận thấy được những khác biệt giữa hai hệ thống
chuẩn mực và đã xây dựng một quá trình hướng tới việc loại trừ những khác biệt
đó.Mục tiêu đến tháng năm 2008 phải loại trừ được những khác biệt và đến ngày
30/6/2011 sẽ đạt được sự hội tụ giữa GAAP Nhật Bản và IFRS.
Tổ chức phát hành chứng khoán Nhật Bản đã đóng một vai trò tích cực trong
thị trường EU. Có khoảng 75 tổ chức phát hành Nhật Bản với cổ phiếu niêm yết và tại
ít nhất 180 công ty phát hành với trái phiếu niêm yết trong EU.
Báo cáo tài chính được lập theo GAAP Nhật Bản và kiểm toán theo GAAS
Nhật Bản đã được chấp nhận rộng rãi bởi các nhà đầu tư tại các thị trường EU cũng
như các nhà đầu tư nước ngoài tại thị trường Nhật Bản. Với những điều này, cả hai thị
trường EU và tổ chức phát hành chứng khoán Nhật Bản sẽ được hưởng lợi từ việc tiếp
tục sử dụng báo cáo tài chính phù hợp GAAP Nhật Bản và được kiểm toán theo quy
định của GAAS Nhật Bản.
Theo kết quả của cải cách trên, GAAP Nhật Bản là một trong những "chuẩn
mực chất lượng cao, được quốc tếchuẩn mực kế toán được công nhận "được đề cập
trong Tuyên bố G8 về “Bồi dưỡng tăng trưởng và thúc đẩy trách nhiệm kinh tế thị
9
Kế Toán Quốc Tế- Nhật Bản- ca 2 thứ 3
trường” vào tháng 6 năm 2003. Bây giờ có rất ít sự khác biệt giữa GAAP và IFRS
Nhật Bản. Báo cáo tài chính do công ty niêm yết theoGAAP Nhật Bản có tính so sánh
cao cho các nhà đầu tư với những người theo IFRS hoặc US GAAP
2. Vai trò của Nhật Bản trong quá trình hòa hợp và hội tụ của kế toán quốc tế
nói chung
2.1 . Vai trò của Nhật Bản trong quá trình hòa hợp và hội tụ của kế toán quốc tế
nói chung.
- Sự hòa hợp và hội tụ nhằm làm giảm sự khác biệt trong khi vẫn duy trì tính linh
hoạt cao của thực tiễn kế toán và áp dụng một hệ thống chuẩn mực kế toán chung trên
toàn thế giới.
Vì vậy nó khó có thể đạt được thông qua sự nỗ lực của một quốc gia riêng rẽ trong
khi đó Nhật Bản là đất nước có nền kinh tế lớn mạnh, sự biến động nền kinh tế Nhật
ảnh hưởng to lớn đến nền kinh tế toàn cầu. Do đó, Nhật có vai trò to lớn đóng góp cho
sự phát triển kinh tế toàn cầu đặc biệt là trong quá trình hoà tụ và hội nhập của kế toán
quốc tế.
- Nhật Bản đã có những động thái tích cực trong hòa hợp và hội tụ kế toán quốc tế,
thúc đẩy quá trình này phát triển rộng rãi hơn với vai trò:
2.1.1. Giúp cho việc soạn thảo các báo cáo tài chính hợp nhất trở nên dễ dàng hơn.
Vì khi các công ty đa quốc gia của Nhật hợp nhất báo cáo tài chính thì có một sự
khó khăn rất lớn đó là sự khác biệt kế toán giữa các công ty trong một tập đoàn. Để lập
báo cáo tài chính hợp nhất, bên cạnh việc công ty mẹ cần chuyển đổi báo cáo tài chính
các hoạt động của mình theo đơn vị tiền tệ kế toán của quốc gia nơi công ty mẹ đóng
trụ sở thì công ty cũng cần chuyển đổi báo cáo tài chinh theo cơ sở kế toán của công ty
mẹ.
2.1.2 . Tiếp cận thị trường vốn quốc tế thuận lợi hơn.
Do sự khác biệt kế toán giữa các quốc gia làm cho Nhật cũng như các các công
ty nói chung khó khăn trong việc tiếp cận thị trường vốn nước ngoài. Nếu một công ty
muốn huy động vốn thông qua bán cổ phiếu hoặc vay ở nước ngoài, nó cần phải trình
bày báo cáo tài chính của mình để tuân thủ theo các chuẩn mực kế toán của quốc gia
10
Kế Toán Quốc Tế- Nhật Bản- ca 2 thứ 3
mà nó cần huy động vốn.
2.1.3. Tăng khả năng so sánh của các báo cáo tài chính.
Khi chưa có sự hòa hợp và hội tụ, các công ty ở các quốc gia khác nhau áp dụng
các chuẩn mực kế toán khác nhau dẫn đến mất đi khả năng có thể so sánh được của
báo cáo tài chính. Việc này ảnh hưởng rất nghiêm trọng đến sự phân tích báo cáo tài
chính của các công ty nước ngoài để công ty Nhật thực hiện các quyết định đầu tư và
cho vay.
2.1.4. Giảm thiểu việc thiếu thông tin kế toán chất lượng cao.
Vì ở một số nước hệ thống chuẩn mực kế toán chưa có chất lượng cao dẫn đến
một số thiệt hại cho nền kinh tế.
2.2. Tác động của các tổ chức đa quốc gia đến quá trình hòa hợp và hội tụ của
Nhật Bản.
Các tổ chức đa quốc gia là lực lượng đại diện để thúc đẩy sự hòa hợp và hội tụ. Nó
tác động đến Nhật Bản trong việc:
-Giảm thiểu sự khác biệt trong hệ thống chuẩn mực kế toán của các quốc gia.
-Tạo ra một hệ thống chuẩn mực kế toán chung có chất lượng cao.
-Thúc đẩy sự phổ biến và áp dụng của hệ thống chuẩn mực kế toán chung.
-Giảm thiểu sự khác biệt trong thực hành nghề nghiệp tại các quốc gia khác nhau.
IV. So sánh chuẩn mực kế toán Nhật Bản với chuẩn mực kế toán quốc tế.
1. Các khoản phải thu
ASBJ
IAS
Chia làm 3 loại: Phải thu thông Khi các khoản phải thu có sự
thường, Phải thu khó đòi, Các giảm sút về giá trị
Đánh giá lại
khoản phải thu của các đối tượng
nợ phải thu
phá sản
Phương pháp Ước tính nợ xấu
11
Kế Toán Quốc Tế- Nhật Bản- ca 2 thứ 3
đánh giá lại
Chiết khấu về hiện tại các luồng
tiền dự tính trong tương lai
2. Hợp đồng xây dựng:
Phạm
vi áp
dụng
ASBJ 17
IAS 11
Các chuẩn mực kế toán áp dụng đối
với:
Những HĐXD có ngày kí kết
hợp đồng và ngày hoàn thiện
rơi vào các kì khác nhau, bao
gồm:
-Hợp đồng xây dựng: Hợp đồng nhà
thầu để mà xem xét được trả cho các
kết quả của công việc và của mà thông
số kỹ thuật cơ bản và các chi tiết của
công trình được xác định theo hướng
dẫn của khách hàng.
-HĐ cung cấp dịch vụ
-Phá dỡ hoặc khôi phục tài sản
và khôi phục lại môi trường.
-Phần mềm sản xuất theo đơn đặt hàng.
Phân
12
Kế Toán Quốc Tế- Nhật Bản- ca 2 thứ 3
loại
hợp
đồng
xây
dựng
Hạch
toán kế
toán
Có 2 phương pháp xác định giá trị hợp
đồng xây dựng:
-Theo tỷ lệ phần trăm hoàn thành công
việc.
Có 2 loại hợp đồng xây dựng:
-HĐ có giá cố định có tính đến
các điều khoản tăng giá.
-Các HĐ cộng thêm chi phí.
-Theo phương pháp hoàn thành hợp
đồng.
Cách hạch toán được trình bày theo
từng phương pháp: Phương pháp tỷ lệ
phần trăm hoàn thành, phương pháp
hoàn thành toàn bộ công trình. Ngoài
ra còn trình bày kế toán cho khoản lỗ
hợp đồng.
Các hạch toán được trình bày
một các tổng quát cho các xác
định doanh thu, chi phí của
13
Kế Toán Quốc Tế- Nhật Bản- ca 2 thứ 3
HĐXD.
Phương pháp tỷ lệ phần trăm hoàn
thành: Tổng doanh thu hợp đồng và
tổng chi phí hợp đồng và tỷ lệ phần
trăm hoàn thành hoạt động xây dựng
vào cuối kỳ báo cáo được dự toán và
báo cáo trong báo cáo thu nhập trong
thời gian hợp lý cho phù hợp.
Doanh thu HĐXD bao gồm:
Phương thức hoàn thành hợp đồng:
Chi phí doanh thu và hợp đồng hợp
đồng sẽ được báo cáo trong báo cáo
thu nhập tại thời điểm giao hàng của
các tài sản ngay sau khi hoàn thành
toàn bộ công trình.
Chi phí HĐXD:
-Tổng giá trị thỏa thuận theo
HĐ ban đầu.
-Những khoản chênh lệch, đòi
bồi thường, tiền thưởng khuyến
khích ở mức giới hạn: có khả
năng thực hiện và có thể tính
toán đáng tin cậy.
-Chi phí hợp đồng trực tiếp (CP
nguyên vật liệu)
-Chi phí hợp đồng chung (CP
bảo hiểm).
-Chi phí mà KH phải trả riêng
cho các điều khoản hợp đồng.
14
Kế Toán Quốc Tế- Nhật Bản- ca 2 thứ 3
Các khoản lỗ có thể xảy ra mà tổng
chi phí hợp đồng sẽ vượt quá tổng
doanh thu hợp đồng và sự mất mát dự
kiến có thể được ước tính một cách
hợp lý, tổn thất dự kiến (lỗ hợp đồng),
khác với số tiền tích lũy lợi nhuận hoặc
lỗ được ghi nhận cho rằng hợp đồng
trong khoảng thời gian trước, thì được
công nhận là một mất mát trong
khoảng thời gian này, trong đó tổn thất
dự kiến sẽ trở thành có thể xảy ra và
một điều khoản cho mất hợp đồng
được công nhận.
Nếu kết quả của hợp đồng xây
dựng được có thể dự tính được
một cách đáng tin cậy thì doanh
thu và chi phí phải được ghi
nhận theo giai đoạn hoàn thành.
Phương pháp để quyết định giai
đoạn hoàn thành:
-Phần chi phí phát sinh so với
tổng chi phí ước tính.
-Khảo sát công trình đã thực
hiện
-Giai đoạn hoàn thiện thực chất.
Công
bố
thông
tin
15
Kế Toán Quốc Tế- Nhật Bản- ca 2 thứ 3
Số tiền dự phòng rủi ro hợp đồng được
tính vào chi phí bán hàng và số dư dự
phòng rủi ro hợp đồng được hạch toán
trách nhiệm như hiện tại trên bảng cân
đối. Trong trường hợp đó cả hàng tồn
kho và dự phòng rủi ro hợp đồng cho
hợp đồng xây dựng tương tự được báo
cáo, chúng có thể được bù đắp để trình
bày trên bảng cân đối.
Các khoản mục cần công bố:
+Chế độ kế toán: Các phương
pháp sử dụng cho việc ghi nhận
doanh thu, cho giai đoạn hoàn
thiện.
+Báo cáo thu nhập: Khối lượng
doanh thu hợp đồng được ghi
nhận.
+ Bảng tống kết tài sản thuyết
minh.
V. Liên hệ với Việt Nam
1. Kinh nghiệm hòa hợp và hội tụ với kế toán quốc tế
1.1 Thực trạng về sự hòa hợp giữa chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS) với
chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS/IFRS)
Khi xây dựng các chuẩn mực kế toán, quan điểm xuyên suốt của Việt Nam là tuân
thủ hệ thống chuẩn mực quốc tế. VAS cơ bản đã được xây dựng dựa trên IAS/IFRS,
theo nguyên tắc vận dụng có chọn lọc thông lệ quốc tế, phù hợp với đặc điểm nền kinh
tế và trình độ quản lý của doanh nghiệp Việt Nam. Do vậy, VAS đã cơ bản tiếp cận
với IAS/IFRS, phản ánh được phần lớn các giao dịch của nền kinh tế thị trường, nâng
cao tính công khai, minh bạch thông tin về BCTC của các doanh nghiệp. Mặc dù vậy,
16
Kế Toán Quốc Tế- Nhật Bản- ca 2 thứ 3
VAS hiện nay vẫn bộc lộ nhiều điểm khác biệt với IAS/IFRS
Gần đây có một số nghiên cứu được tiến hành nhằm xác định mức độ hòa hợp
giữa chuẩn mực kế toán Việt Nam với chuẩn mực kế toán quốc tế. Kết quả của một
nghiên cứu chỉ ra rằng, mức độ hòa hợp của VAS với IAS/IFRS liên quan đến 10
chuẩn mực được chọn nghiên cứu ở mức bình quân là 68%. Theo đó, các chuẩn mực
về doanh thu và chi phí có mức độ hòa hợp cao hơn về các chuẩn mực về tài sản. Mức
độ hòa hợp về đo lường (81,2%) cao hơn nhiều so với mức độ hài hòa về khai báo
thông tin.
Như vậy, mức độ hài hòa giữa VAS và IAS/IFRS thấp hơn so với mục tiêu đề ra
90%, theo phát biểu của ông Bùi Văn Mai – nguyên Vụ trưởng Vụ chế độ kế toán –
Bộ Tài chính trong một phỏng vấn của báo Vnexpress, nghĩa là tồn tại một khoảng
cách đáng kể giữa chuẩn mực kế toán Việt Nam với chuẩn mực kế toán quốc tế. Trong
một chừng mực nào đó, rõ ràng những khác biệt này có ảnh hưởng đến quá trình hội
nhập quốc tế về kế toán của Việt Nam, dù rằng, không phải là không có những nguyên
nhân khách quan của nó.
1.2 Những kinh nghiệm cho Việt Nam trong tiên trình hội tụ kê toán quốc tê
Từ phân tích trên, có thể thấy tiến trình hội tụ kế toán quốc tế là hướng đi tích
cực đáp ứng xu hướng toàn cầu hóa kinh tế nhưng quá trình đó cũng đầy cam go và
phức tạp. Trước tình hình đó, một quốc gia đang phát triển như Việt Nam không thể
đứng ngoài dòng chảy hội nhập quốc tế. Song, Việt Nam cần phải nhận định đúng đắn
tình hình để có những lộ trình thích hợp, đáp ứng phát triển kinh tế.
Có thể thấy, hệ thống kế toán Việt Nam chịu tác động bởi nhiều yếu tố tụ hội từ
môi trường kinh doanh, môi trường pháp lý và môi trường văn hóa. Theo thời gian,
mức độ chi phối, ảnh hưởng của các yếu tố đã dần hình thành hệ thống kế toán Việt
Nam mang bản sắc riêng. Xét ở môi trường kinh doanh, Việt Nam là quốc gia đang
phát triển, chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường
theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Nhìn chung, thị trường tài chính Việt Nam trong
những năm gần đây có những biến chuyển tích cực, đặc biệt là TTCK đã có những tiến
triển nhất định. Mức độ lạm phát trong nền kinh tế được kiểm soát, ổn định không ảnh
17
Kế Toán Quốc Tế- Nhật Bản- ca 2 thứ 3
hưởng đến biến động của nền kinh tế.
Từ thực trạng xu hướng hội tụ kế toán quốc tế kết hợp những đặc điểm cơ bản
trong hệ thống kế toán Việt Nam, cho thấy khó có thể áp dụng toàn bộ IAS/IFRS cho
hệ thống kế toán Việt Nam. Hệ thống IAS/IFRS dường như thích hợp đối với những
quốc gia phát triển nhưng chưa phù hợp trong điều kiện hiện tại của Việt Nam. Do đó,
trong giai đoạn đầu, nên tiếp cận theo xu hướng hoàn hợp theo khu vực mà cụ thể là
khu vực đối với các công ty niêm yết. Đây là hướng đi mà nhiều quốc gia trên thế giới
áp dụng. Theo đó, hệ thống CMKT Việt Nam có thể bao gồm hai phần, một phần dành
cho các công ty niêm yết, phần còn lại cho các công ty không niêm yết. Đối với các
công ty niêm yết, CMKT được thực thi theo các IAS/IFRS. Riêng đối với các công ty
không niêm yết áp dụng các CMKT Việt Nam hiện hành nhưng theo hướng giản lược
những nội dung phức tạp trong chuẩn mực. Điều này thể hiện sự hài hòa, linh hoạt
nhằm tránh những biến động nhưng đảm bảo cho tiến trình phát triển và hội nhập kinh
tế quốc tế.
2. LIÊN HỆ VỚI VIỆT NAM: TÁC ĐỘNG CỦA CÁC NHÂN TỐ (VĂN
HÓA, CHÍNH TRỊ, KINH TẾ) ĐẾN KẾ TOÁN VIỆT NAM.
2.1 Văn hóa
- Khoảng cách quyền lực (PDI):
Việt Nam có khoảng cách quyền lực cao (70) trong khi Nhật thấp hơn và ở mức
(54). Bên cạnh đó, chỉ số về khoảng cách quyền lực cũng khá thống nhất với chỉ số về
chu nghĩa cá nhân. Theo lý thuyết của Gray, căn cứ vào chỉ số này với khoảng cách
quyền lực lớn hệ thống kế toán Việt Nam cũng có tính chuyên nghiệp thấp; tính thống
nhất và tính bảo mật cao.
- Chủ nghĩa cá nhân (IDV)
Chỉ số của Việt Nam (20) tương đương với nhóm thuộc các nước châu Á kém
phát triển và cũng là nhóm thấp nhất trong khi Nhật có chỉ số khá cao (46). Chỉ số này
thể hiện rõ nhất sự khác biệt giữa các nhóm theo phân loại của Gray. Hệ thống kế toán
Việt Nam có tính chuyên nghiệp thấp nhất, tính bảo mật, tính thống nhất và tính bảo
thủ cao nhất.
18
Kế Toán Quốc Tế- Nhật Bản- ca 2 thứ 3
- Đặc điểm về giới tính (MAS):
Việt Nam có điểm số là 40 và do đó là một xã hội có thiên hướng nữ giới còn
Nhật Bản có điểm số khá cao là 95 do đó xã hội có thiên hướng nam tính. Tuy nhiên,
theo như nhận xét của Gray, khuynh hướng văn hóa này không có mối liên hệ chặt chẽ
với các giá trị kế toán, không có sự khác biệt lớn và mang tính điển hình giữa các
nước.
- Sự tránh né các vấn đề không chắc chắn (UAI):
Việt Nam có chỉ số rất thấp (30) trái ngược hoàn toàn với Nhật Bản (92). Theo
Hofstede chỉ số này của Việt Nam chứng tỏ xã hội tương đối mềm dẻo với việc coi
trọng thục tiễn hơn là nguyên tắc và những sai lệch so với chuẩn xã hội dẽ dàng được
tha thứ. Trong những xã hội có chỉ số UAI thấp, mọi người tin rằng không nên có quá
nhiều luật lệ; và nếu các luật lệ này là không rõ ràng, tối nghĩa hoặc không khả thi thì
chúng nên được sửa đổi hoặc xóa bỏ. Các kế hoạch, lịch trình luôn linh hoạt, người ta
sẽ lao động chăm chỉ khi cần thiết chứ không phải vì giá trị hay ý nghĩa của sự cần
mẫn, sự chính xác và đúng giờ không phải là điều đương nhiên.
- Định hướng dài hạn (LTO):
Việt Nam và Nhật Bản đều có tỉ số cao là 80, do đó căn cứ theo mô hình của
Gray; hệ thống kế toán Việt Nam sẽ có xu hướng tính chuyên nghiệp thấp; tính bảo thủ
và bảo mật cao.
2.2 Chính trị
- Hệ thống pháp luật
Việt Nam là nước ảnh hưởng bởi Pháp và hệ thống kế toán Việt Nam hiện hành
nghiêng nhiều hơn về hướng hệ thống kế toán tại các nước dân luật.
- Thuế
Mặc dù khi xây dựng chuẩn mực kế toán Việt Nam số 17 – Thuế thu nhập doanh
nghiệp Việt Nam thể hiện chấp nhận xu hướng thứ hai: sự khác biệt giữa lợi nhuận
tính thuế và kế toán. Chế độ kế toán doanh nghiệp 2014 cũng tiếp cận vấn đề này thuế
theo hướng này. Tuy nhiên trong thực tế các quy định của thuế và kế toán là khá đồng
nhất, và trong thực hành kế toán người ta cũng thường dựa vào các quy định của thuế
19
Kế Toán Quốc Tế- Nhật Bản- ca 2 thứ 3
để làm kế toán nên sự khác biệt giữa lợi nhuận tính thuế và lợi nhuận kế toán không
phát sinh nhiều.
- Sự ràng buộc về chính trị và kinh tế:
Việt Nam thuộc khối xã hội chủ nghĩa nên hệ thống kế toán Việt Nam trong giai
đoạn 1954 – 1990 có ảnh hưởng rất lớn bởi kế toán Liên Xô cũ, Trung Quốc. Trong
giai đoạn cải cách kế toán đầu tiên những năm 1990s, Việt Nam nhận được sự giúp đỡ
rất nhiều từ các chuyên gia Pháp với nỗ lực giúp chúng ta áp dụng hệ thống kế toán
theo mô hình của Pháp. Hệ thống tài khoản kế toán thống nhất là sản phẩm kế thừa của
hệ thống kế toán Xô Viết, nhưng ý tưởng về hệ thống tài khoản kế toán quốc gia thống
nhất đã được thực hiện tại Việt Nam trong thời kỳ Pháp thuộc. Ngoài ra hệ thống kế
toán Việt Nam còn ảnh hưởng bởi EU với các dự án hỗ trợ sự phát triển kế toán Việt
Nam trong những năm cuối 1990s, và ảnh hưởng bởi Mỹ, IFRS trong quá trình xây
dựng và phát triển hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam.
2.3 Kinh tế
- Nguồn tài chính:
Tại các nước mà nguồn tài chính dựa trên quan hệ tín dụng, nơi ngân hàng là
nguồn cung cấp tài chính chủ yếu, kế toán tập trung vào việc bảo vệ các nhà cung cấp
tín dụng thông qua việc đo lường một cách thận trọng lợi nhuận để giảm thiểu việc
chia cổ tức và để lại vốn đủ để bảo vệ những người cho vay. Việt Nam là nước có thị
trường chứng khoán còn khá non trẻ, nguồn tài chính của các doanh nghiệp chủ yếu từ
các ngân hàng và ngân sách nhà nước nên nghiêng về nhóm thứ hai nhiều hơn.
- Lạm phát:
Lạm phát làm méo mó kế toán theo giá gốc bởi vì nó làm cho tài sản và các chi
phí liên quan bị đánh giá thấp, và lợi nhuận bị phóng đại lên. Các nước có mức lạm
phát cao thường yêu cầu các công ty thực hiện sự điều chỉnh sự thay đổi của giá cả
trong các báo cáo.
Để đáp lại với nhiều thời điểm có mức lạm phát rất cao trong quá khứ tại Việt
Nam, nhà nước đã thực hiện sự đánh giá lại tài sản. Tuy nhiên trong thời gian gần đây
có những năm lạm phát cao (năm 2008 khoảng 22%, 2011 là 18,13%) nhưng các
20
- Xem thêm -