Bài tiểu luận:
Tư Tưởng triết học, chính trị, đạo đức của Hồ
Chí Minh
Cấu trúc đề tài :
I.
II.
1.
2.
3.
4.
III.
Mở bài
Nội dung chính
Nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh
Tư tưởng triết học của Hồ Chí Minh
Tư tưởng chính trị của Hồ Chí Minh
Tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh
Kết luận:
I.
Mở bài:
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, dân tộc ta đã sản sinh ra biết
bao tên tuổi vĩ đại, vừa là anh hùng dân tộc, vừa là nhà tư tưởng lớn, nhưng không
ai có được sự nghiệp lẫy lừng như chủ tịch hồ chí minh của chúng ta, không ai có
được tầm vóc thời đại, được loài người tiến bộ ca ngợi và thừa nhận như chủ tịch
Hồ Chí Minh
Địa vị có một không hai trong lịch sử dân tộc của Nguyễn Ái Quốc –
Hồ Chí Minh đã được xác lập và củng cố vững chắc nhờ công lao to lớn và sự
nghiệp vĩ đại mà Người đã cống hiến cho cách mạng Việt Nam. Đã đưa Người lên
địa vị anh hùng giải phóng dân tộc vĩ đại, nhà tư tưởng lỗi lạc, nhà lý luận sáng tạo
của cách mạng việt nam,
Người đã có công lao to lớn đối với cách mạng việt nam , tìm ra con
đường cứu nước đúng đắn, đã truyền bá chủ nghĩa mác lênin vào việt nam, xây
dựng lên một khối đoàn kết dân tộc, Người là người cha thân yêu của cách mạng
việt nam, đã bồi dưỡng cho họ tinh thần quyết chiến, quyết thắng, làm nên những
chiến công hiển hách được cả loài người khâm phục và ca ngợi
Ngày mùng 2/9/1945 Người đọc bản tuyên ngôn độc lập khai sinh ra
nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, nhà nước dân chủ đầu tiên ở Đông Nam Châu
Á, người đặt nền móng cho việc xây dựng một nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, “ của dân, do dân, vì dân”
Tất cả những tư tưởng của Người đã được nhân loại ca ngợi và đánh
giá rất cao, mang một tầm vóc thế giới.Người không để lại các công trình nghiên
cứu rõ ràng về các lĩnh vực nhưng qua những bài báo và những tác phẩm người để
lại, nó chứa đựng những tư tưởng lớn mang tầm vóc thời đại, quan trọng nhất là tư
tưởng của Người về triết học, chính trị, đạo dức.
II.
1.
1.1.
Nội dung chính:
Nguồn gốc hình thành Tư tưởng Hồ Chí Minh
Quá trình hình thành:
Vào những năm giữa thế kỉ XIX, phương thức sản suất tư bản chủ nghĩa đã
thống trị ở Anh, Pháp, Đức và một số nước Tây Âu. Trong xã hội mâu thuẫn cơ
bản giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản ngày càng gay gắt. dẫn đến cuộc đấu
tranh của giai cấp vô sản nhằm xoá bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa đòi hỏi phải có lý
luận tiên phong chỉ đuờng, chủ nghĩa Mác đã ra đời “ tuyên ngôn của Đảng Cộng
Sản” đã khẳng định quy luật tất yếu diệt vong của chủ nghĩa tư bản để nhường
bước cho một xã hội mới, đồng thời chỉ rõ sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản.
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản phát triển sang giai đoạn
chủ nghĩa đế quốc đã hoàn thành căn bản việc phân chia thế giới, nô dịch các dân
tộc thuộc địa, thế giới chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử trọng đại, phản ánh xu thế
biến động đầy kịch tính của xã hội loài người, đa số các quốc gia Phương Đông
các nước lạc hậu ở Châu Phi, Châu Mỹ Latinh đã bị xâm chiếm làm thuộc địa chỉ
một số ít nước là đế quốc Anh, Pháp, Bồ Đào Nha , Tây Ban Nha, Hà Lan, Mỹ ..
nô dịch và bóc lột đa số nhân loại những mâu thuẫn lớn trong thời kỳ này ngày
càng gay gắt: mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản với giai cấp vô sản ở các nước đế
quốc ; mâu thuẫn giữa các dân tộc với bè lũ thực dân; mâu thuẫn giữa quảng đại
quần chúng lao động chủ yếu là nông dân với giai cấp địa chủ phong kiến, trước
hết là với triều đình phong kiến ở các nước thuộc địa ở phương đông; mâu thuẫn
giữa giai cấp công nhân ở các nước thuộc địa với giai cấp tư sản bản xứ và với tư
sản thực dân ; mâu thuẫn giữa các nước đế quốc với nhau vv… những mâu thuẫn
đó tích tụ lại tạo thành thời kì bão táp cách mạng và chiến tranh ở những năm đầu
thế kỉ 20. Mở đầu thời kì bão táp là cách mạng tháng 10 Nga vĩ đại năm 1917,
trước đó phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa diễn ra liên tục và
mạnh mẽ, nhất là ở các nước thuộc địa phương Đông nơi tồn tại hàng nghìn năm
của chế độ phong kiến. Tuy nhiên các phong trào đó đều thất bại vì người lãnh đạo
phần lớn là giai cấp địa chủ phong kiến, số ít là lãnh tụ nông dân và sau đó thuộc
giai cấp tư sản dân tộc; vì mục tiêu phong trào chỉ hướng vào mục tiêu dân tộc, ít
nhắm vào mục tiêu dân chủ và không nhằm mục tiêu giải phong triệt để nhân dân
lao động; do dường lối không đúng lên không thu hút được sức mạnh của cả dân
tộc. Cách mạng tháng mười Nga thành công vì cuộc cách mạng này do giai cấp vô
sản lãnh đạo, đứng đầu đảng cộng sản bôn-sê-vích nga
Và Lênin vĩ đại; vì mục tiêu của đó nhằm giải quyết vấn đề mâu thuẫn
lớn nhấtt của thời đại ở nước Nga đế quốc lúc bấy giờ, giải phóng triệt để giai cấp
những người lao động, đưa nước Nga tiến lên chủ nghĩa xã hội
Sự thất bại của phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và
phụ thuộc, cũng như sự thành công của cách mạng tháng mười Nga đã chỉ ra
rằng : ở những năm đầu thế kỉ 20, chỉ những phong trào cách mạng có mục tiêu
giải quyết đồng thời những mâu thuẫn lớn của thời đại ở nước mình thì mới có thể
đi tới thắng lợi. Một cuộc cách mạng như vậy chỉ có do giai cấp công nhân và
đảng cộng sản ở nước đó đứng ra lãnh đạo và tổ chức dưới ánh sáng của chủ nghĩa
Mác-Lê nin. Cách mạng tháng mười Nga có sứ mệnh vạch ra con đường cách
mạng đúng đắn cho phong trào các mạng thế giới, tuy vậy dưới ánh sáng đó chưa
phải một sớm một chiều mà tới ngay được các nước thuộc địa phương Đông. Điều
này được chủ tịch hồ chí minh giải thích rất rõ ở bài “ mấy ý nghĩ vấn đề thuộc địa
“ của người. như vậy ở các nước này phong trào giải phóng dân tộc hoàn toàn bị
bế tắc về mặt đường lối, bế tắc về người lãnh đạo nó đang chờ một bàn tay chèo
lái
Một mâu thuẫn mới của thời đại xuất hiện, đó là mâu thuẫn giữa các dân
tộc bị áp bức với chủ nghĩa đế quốc thực dân. Chính trong bối cảnh ấy, chủ nghĩa
Mác-Lênin đã xuất hiện tiếp tục phát triển chủ nghĩa Mác, vạch rõ đặc điểm của
chủ nghĩa đế quốc, đề ra lý luận cách mạng vô sản có thể thành công trong một số
nước thậm chí trong một nước. Năm 1917, Lênin đã lãnh đạo cuộc cách mạng
tháng mười Nga thắng lợi, mở ra một thời đại mới trong lịch sử của loài người.
Lúc này, cuộc đấu tranh chống đế quốc ở các nước phương Đông đã diễn ra
mạnh mẽ ở Trung Quốc, Ấn Độ..
Năm 1858, thực dân pháp đưa quân xâm lựơc nước ta, chúng đã áp đặt chế độ
thống trị thuộc địa, biến nước ta từ một nước phong kiến trở thành một nước thuộc
địa nửa phong kiến, chúng đã thi hành các chính sách áp bức bóc lột , đàn áp dã
man nhân dân ta, nhân dân Việt Nam đã kiên quyết đấu tranh tới cùng để giành lại
quyền độc lập tự do cho dân tộc. Từ bắc chí nam trong cả nước dấy lên một làn
sóng cách mạng chống Pháp, nhưng tất cả các cuộc đấu tranh đều bị thất bại, ở
nước ta diễn ra nhiều khuynh hướng cứu nước khác nhau như phong trào Đông
Kinh Nghĩa Thục, khuynh hướng dân chủ tư sản, phong trào tôn giáo cứu thế,
nhưng tất cả đều không đáp ứng được nhiệm vụ của cách mạng việt nam lúc bấy
giờ. Trước sự bế tắc về con đường cứu nước cho dân tộc Hồ Chí Minh đã xuất
hiện, Người đã làm thay đổi vận mệnh của dân tạ việt Nam.
Nguyễn Ái Quốc sinh tại làng sen , Nam Đàn - Nghệ An, mảnh đất có truyền
thống yêu nước chống ngoại xâm từ lâu đời, có truyền thống hiếu học, Người sinh
ra trong một gia đình nhà nho nghèo, yêu nước tiến bộ. Ngay từ lúc còn nhỏ
Người đã được hấp thụ truyền thống yêu nước, nhân ái của dân tộc. Người đã theo
học nho giáo, sau đó bắt đầu tiếp xúc với văn hoá phương Tây trong những ngày
học ở trường Quốc Học Huế.
Những năm tháng sống tại quê nhà và những buổi đi học ở trường Quốc Học
Huế, Người đã tận mắt được chứng kiến các phong trào đấu tranh như: những
cuộc đấu tranh chống cướp đất, chống sưu cao thuế nặng, chống bắt phu, bắt
xâu… và đã hun đúc lên lòng yêu nước và căm thù bọn bán nước và cướp nước,
trong đó có các phong trào nổi bật nhất đã ảnh hưởng đến người như phong trào
Cần Vương chống pháp của Tôn Thất Thuyết, của Phan Đình Phùng bùng lên rồi
bị dập tắt trong bể máu; phong trào Đông Du của cụ Phan Bội Châu, cũng như
phong trào Duy Tân của cụ Phan Chu Trinh đều thất bại: cuộc đấu tranh vũ trang
của Hoàng Hoa Thám ở Yên Thế bị đàn áp… với những sự kiện ấy đã đọng lại
trong Người những ấn tượng sâu sắc, đưa đến những suy nghĩ, phân tích về
nguyên nhân thất bại của các phong trào.
Trứơc sự bế tắc về con đường cứu nứơc cho dân tộc. Nguyễn Tất Thành đã
quyết chí rời Tổ Quốc ra đi tìm con đường cứu nước, cứu dân người không đi theo
con đuờng của các bậc tiền bối, mà lại đi sang các nước phương Tây, sang Pháp đi
đến hang ổ của kể xâm lược để “xem nước pháp và các nước khác làm ăn thế nào
rồi trở về giúp đồng bào ta”. Đây là một điều rất mới, rất quan trọng thể hiện bản
lĩnh độc lập và tư duy sáng tạo của Nguyễn Tất Thành.
Ngày 5/6/1911 trên con tàu “ đô đốc La Touche Treville” người đã rờ khỏi quê
hương thân yêu của mình đi ra nước ngoài với một tấm lòng yêu nước tha thiết,
với hoài bão nhất định phải tìm cho được con đường cứu nước cho dân tộc, với
lòng tin ở đôi bàn tay của mình, người đã bắt tay vào công việc làm phụ bếp trên
tàu với tên là Văn Ba.
Người đã đi qua các châu lục khác nhau như Châu Phi , Châu Mỹ La Tinh,
Châu Âu, từ các nước tư bản phát triển như Anh, Pháp, Mỹ, đến các nước thuộc
địa; Người đã tiếp xúc với mọi tầng lớp trong xã hội, nhất là những người lao
động cùng khổ. Và nhận ra rằng ở các nước thuộc địa cũng như ở Việt Nam đâu
đâu cũng thấy nỗi tủi nhục, khổ cực của nhân dân các dân tộc bị áp bức và sự dã
mam của bọn đế quốc thực dân , đâu đâu cũng thấy nổi lên khát vọng đứng lên tự
giải phóng. Còn ở các nước tư bản chủ nghĩa , tự xưng là tiên tiến văn minh thì
đâu đâu cũng chia làm hai loại người: loại người bóc lột và loại người bị bóc lột.
Trong những năm tháng sống ở Anh, Pháp nhất là khi Người sống ở Pari , Người
đã tham gia thành lập và hoạt động trong các tổ chức của nhưng người Việt Nam
yêu nước, tham gia các hoạt động trong các tổ chức chính trị xã hội, dự các buổi
hội thảo tại các câu lạc bộ của thanh niên , công nhân, trí thức, làm quen với các
nhà văn hoá , các nhà hoạt động chính trị xã hội nổi tiếng ở Pháp lúc bấy giờ. Năm
1911 người tham gia vào Đảng Xã Hội Pháp “ thế hệ lửa đạn” , trong bầu không
khí chống chiến tranh, chống chủ nghĩa đế quốc. Đầu năm 1919 thay mặt những
người Việt Nam yêu nước ở Pháp, Người đã gửi đến hội nghị Véc - Xây bản “ yêu
sách của nhân dân An Nam”
Những điều tai nghe mắt thấy đấy và những hoạt động chính trị, xã hội, trong
những năm đi khắp các nước, đã giúp cho Nguyễn Ái Quốc từ tinh thần yêu nước
gắn một cách tự nhiên với tinh thần quốc tế ; từ tình cảm yêu thương , thông cảm
với những người cùng khổ, ý thức giai cấp từng bước được nảy nở và hình thành.
Đó chính là cơ sở tư tưởng để Người phấn khởi tiếp thu “bản sơ thảo luận cương
về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin và đến đại hội Tua vào năm 1920 thì
Người đã kiên quyết đứng về phía quốc tế cộng sản và tin theo Lênin. Đây là bước
ngoặt , một sự chuyển biến về chất trong tư tưởng và cuộc đời của Người. Nguyễn
Ái Quốc trở thành một trong những người sáng lập đảng cộng sản Pháp, và là
người yêu nước chân chính, người cộng sản Việt Nam đầu tiên.
Năm 1923 người rời Pháp sang Liên Xô tham dự đại hội quốc tế nông
dân, Người học tập và làm việc ở đó một thời gian đến cuối năm 1924, trở về
Quảng Châu Trung Quốc . người đã cho xuất bản các tác phẩm nỗi tiếng “ bản án
chế độ thực dân pháp” viết tác phẩm “đường cách mệnh” năm 1925 người thành
lập ra hội việt nam cách mạng thanh niên ra tờ báo thanh niên làm cơ quan ngôn
luận của hội.
Ngày 3/2/1930 theo chỉ thị của quốc tế cộng sản người đã hợp nhất các tổ
chức cộng sản ở việt Nam để thành lập đảng cộng sản Việt Nam, và hội nghị thành
lập đảng đã thông qua chính cương vắn tắt sách lược vắn tắt do Người soạn thảo,
đuợc coi là cương lĩnh chính trị đầu tiên của đảng như vậy có thể nói với tác phẩm
“ bản án chế độ thực dân pháp”, “đường cách mệnh” và “cương lĩnh đầu tiên của
đảng” , tư tưởng Hồ Chí Minh đã hình thành về cơ bản.
Tuy nhiên tư tưởng của Hồ chí Minh về đường lối cách mạng Việt Nam lúc
này đã bị phê phán là có xu hướng dân tộc, và quốc tế cộng sản đã cử Trần Phú về
nước triệu tập hội nghị ban chấp hành trung ương đảng lần thứ nhất, quyết định
đổi tên đảng cộng sản Việt Nam thành đảng cộng sản Đông Dương. Lúc này người
phải tích cực học tập nghiên cứu hoạt động để bảo vệ quan điểm của mình, Người
đã nỗ lực hết mình để hoạt động bảo vệ quan điểm của mình, bằng sự minh chứng
là người đã cùng nhân dân làm lên cách mạng tháng 8/1945 lập ra nước Việt Nam
dân chủ cộng hoà. Trên đà thắng lợi đó người đã lãnh đạo nhân dân ta chống lại
hai kẻ thù xâm lược đó là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, qua thực tiễn đấu tranh tư
tưởng quan điểm của Người ngày càng thể hiện tính đúng đắn sáng suốt hơn.
Tư tưởng hồ chí minh đã hình thành và phát triển qua một thời kỳ rất dài
trong lịch sử hơn nữa thế kỷ, đã được đảng và nhà nước ta vận dụng trong quá
trình xây dựng đất nước, đảng ta khẳng định rằng “ đảng lấy chủ nghĩa Mác lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam hành động”
1.2 Nguồn gốc của tư tưởng Hồ Chí Minh:
Tư tưởng Hồ Chí Minh bắt nguồn từ các yếu tố như sau:
Từ chủ nghĩa yêu nước Việt Nam . chủ nghĩa yêu nước Việt Nam hun đúc qua
hàng ngàn năm lịch sử đấu tranh kiên cường bất khuất, tự lực, tự cường. Ở những
thời điểm nước mất nhà tan thì trăm họ đều đứng lên, cố kết một lòng giành lại
bằng được quyền độc lập tự do. Chính tinh thần yêu nước thương dân, truyền
thống văn hoá nhân ái, ý chí tự lực tự cường được khơi dậy trrong hoàn cảnh thực
dân Pháp đã đặt ách thống trị lên nhân dân ta, đã thúc đấy Nguyễn Tất Thành ra đi
tìm đường cứu nước . đó cũng chính là tư tưởng, tình cảm chi phối mọi suy nghĩ,
hành động của người trong suốt cả cuộc đời mình; là cơ sở để người đến với chủ
nghĩa Mác - Lênin, vì vậy có thể nói chủ nghĩa yêu nước là một trong những tư
tưởng cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tư tưởng Hồ chí Minh có nguồn gốc từ sự kế thừa có chọn lọc những tinh
hoa triết học và văn hoá phương Đông, phương Tây. Trước khi đến với chủ nghĩa
Mác –Lênin, Người đã nhiều năm theo học Nho giáo, tinh thong “tứ thư” ngũ
kinh” , người đã chuyển qua học chữ quốc ngữ và bắt đầu tiếp xúc với văn hoá
phương tây với tư tưởng tự do bình đẳng bác ái” , người đã tiếp xức với nhiều nhà
tri thức , nhà chính trị nổi tiếng của Pháp và thế giới, từ đó tiếp thu những tư tưởng
dân chủ của thế kỷ ánh sáng và nền “văn hoá phục hưng”, của cuộc cách mạng tư
sản Pháp, cách mạng tư sản Mỹ, nhất là Pháp, những tư tưởng nhân ái trong nền
văn học Pháp, Nga, Anh..
Người tiếp thu nho giáo, những trên cơ sở chọn lọc lấy tinh hoa loại bỏ
những yếu tố thủ cựu tiêu cực của nho giáo, người tiếp thu triết lý của nhà phật,
của Lão giáo,
Những kiến thức phong phú ấy đã làm cho tư tưởng Hồ Chí Minh kết
hợp được truyền thống và hiện đại, tinh hoa văn hoá phương Đông và phương Tây,
cũng như làm cho Người vừa giản dị vừa sâu sắc, vừa dân dã vừa bác học, rất Việt
Nam và rất nhân loại.
Nguồn gốc thứ ba là từ chủ nghĩa Mác – Lênin: người đã đến với chủ
nghĩa Mác - Lênin. Đây là bước ngoặt cơ bản trong quá trình hình thành và phát
triển của tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước đã gắn liền với chủ nghĩa xã
hội, cách mạng giải phóng dân tộc gắn liền với cách mạng vô sản, làm cho tư
tưởng Hồ Chí Minh được định hình, quyết định bản chất của tư tưởng Hồ Chí
Minh là theo hệ tư tưởng của giai cấp vô sản, mang tính cách mạng và khoa học.
Chính thế giới quan và phương pháp luận Mác - Lênin đã giúp Chủ tịch Hồ Chí
Minh tổng kết kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn của mình mà tìm ra con đường
cứu nước ảnh hưởng sâu sắc và quyết định ấy đã thể hiện trong câu nói của Người
“ chủ nghĩa Lênin là cái cẩm nang thần kỳ” lúc đầu chính là chủ nghĩa yêu nước
chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo quốc tế thứ
ba. Từng bước một trong cuộc đấu tranh, vừa nghiên cứu lý luận Mác - Lênin vừa
làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ
nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao
động trên thế giới thoát khỏi ách nô lệ” Người khẳng định “ bây giờ học thuyết
nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách
mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin và chính vì do cố gắng vận dụng những lời dạy của
Lênin một cách sáng tạo, phù hợp với thực tế Việt Nam mà chúng tôi đã chiến đấu
và giành được thắng lợi to lớn… ”.
Đó là nguồn gốc lý luận của tư tưởng Hồ Chí Minh, ngoài ra tư tưởng
Hồ Chí Minh còn bắt nguồn từ thực tiễn
Đó là thực tiễn mà người đã sống và hoạt động , từ một người dân mất
nước, qua tìm hiểu thực tiễn các nước khác nhau ở các châu lục khác nhau, đến
thực tiễn hoạt đông trong các tổ chức xã hội và cộng sản, thực tiễn tổ chức xây
dựng lực lượng cách mạng, xây dựng đảng cách mạng. Thực tiễn hoạt động cách
mạng, lãnh đạo cách mạng, chuẩn bị tổng khới nghĩa, lãnh đạo tổng khởi nghĩa,
giành và giữ chính quyền, vừa kháng chiến lâu dài, vừa xây dựng chế độ mới, con
người mới. Trên cương vị một thanh niên tri thức, một thầy giáo, một công nhân
làm nhiều nghề, một nhà báo, một trong những người sáng lập ra đảng cộng sản
Pháp, một cán bộ của quốc tế cộng sản, trở thành lãnh tụ vĩ đại của dân tộc, lãnh tụ
của đảng và chủ tịch nước trong suốt 24 năm. Thực tiễn ấy là một nguồn gốc, một
cơ sở có ý nghĩa quyết định đối với sự hình thành và phát triển hoàn thiện tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Nhân tố cuối cùng tạo nên tư tưởng Hồ Chí Minh đó là nhân cách của
Người , chính nhân cách đó đã sản sinh ra tưởng đó, bản lĩnh, phẩm chất, tình cảm
tư chất, tích cách, phong cách. Ngay từ thời buổi thiếu thời, Hồ Chí Minh đã tỏ ra
là một người có hoài bão lớn, có bản lĩnh kiên định, giàu tình cảm, nhân ái, yêu
nước, thương dân, tư chất thông minh , tư duy độc lập và sáng tạo, tính ham hiểu
biết và nhạy bén với cái mới là những đức tính của Người . Người là một người
hành động luôn có niền tin ở bản thân, ở bàn tay khối óc của mình, của con người ,
của mọi người. Những phẩm chất ấy càng được rèn luyện phát huy trong suốt cuộc
đời hoạt động của người. Nhờ vậy, giữa thực tiễn phong phú và sinh động, giữa vô
vàn lý thuyết học thuyết khác nhau, giữa biết bao nhiêu tình huống phức
tạp,Người đã tìm hiểu , phân tích, tổng kết, khái quát, tìm ra bản chất , quy luật
hình thành những luận điểm và có những quyết định đúng đắn sáng tạo.
Tóm lại tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa mác lênin, kế
thừa những tinh hoa nhân loại. Là một bước phát triển mới của chủ nghĩa mác
lênin nhằm giải đáp những vấn đề thực tiễn mới do đất nước và thời đại đặt ra.
2. Tư tưởng triết học của Hồ Chí Minh
2.1 Cơ sở hình thành tư tưởng triết học của Hồ Chí
Minh
Chủ tịch hồ chí minh có những tư tưởng triết học phong phú sâu sắc và
độc đáo, được thể hiện trong nhiều bài viết của Người, những tư tưởng triết học
của Hồ Chí Minh có thể được xem xét ở nhiều góc độ khác nhau, nhưng dù ở góc
độ nào chúng ta cũng thấy tư tưởng đó vừa mang sắc thái thâm tuý của triết học
phương Đông, lại vừa có tính khúc triết, duy lý, hiện đại của triết học phương Tây.
Thí dụ về tư tưởng “ không có gì quý hơn độc lập tự do”của chủ tịch Hồ Chí Minh
, người Việt Nam nhận thấy ở đó trình độ khái quát cao của tư tưởng “ một dân tộc
độc lập và một quốc gia có chủ quyền” của tư tưởng truyền thống Việt Nam:
những người cộng sản nhìn thấy ở đó hiện thân của triết học Mác- Lênin. Trong
hàng loạt những tư tưởng triết học của Hồ Chí Minh về con người chúng ta thấy
hiện lên rất rõ những giá trị nhân văn đặc sắc của dân tộc Việt Nam cũng như
những tư tưởng triết học sâu sắc của Khổng Tử, Lão Tử, Mặc Tử, phật giáo , thiên
chúa giáo, triết học khai sang pháp và đặc biệt là tư tưởng nhân đạo cao cả của
triết học Mác – Lênin. Ở tư tưởng “dĩ bát biến, ứng vạn biến”của chủ tịch Hồ
ChíMinh, có cả phép biến dịch của triết học phương Đông lại có cả phép biện
chứng duy vật của triết học Mácxít.. có thể nói nhiều giá trị triết học của nhân loại
trong lịch sử đã được chủ tịch Hồ Chí Minh tổng kết, kế thừa và vận dụng sáng
tạo, và nhờ đó mà nâng chúng lên ở trình độ mới, chẳng những ngang tầm thời đại
mà còn hướng tới tương lai.
Cách đây hơn 70 năm nhà thơ Xô Viết Oxip Manđenxotam đã viết “ từ
Nguyễn Ái Quốc toả ra một nền văn hoá, không phải văn hoá của Châu Âu, mà có
lẽ là nền văn hoá trong tươg lai.. nhiều nhà hoạt động nổi tiếng trong phong trào
cộng sản thế giới , nhiều nhà nghiên cứu lịch sử, xã hội, văn học, triết học,.. đều
đánh giá chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà lý luận vĩ đại, mà tên tuổi sẽ mãi mãi
gắn bó với những hành động cao cả nhất và những ước mơ cao quý nhất của nhân
loại và chân lý của lịch sử vv….
Ở Việt Nam tuy không có hệ thống triết học, nhưng ông cha ta đã có
những khái quát triết lý, mang tính triết học, được thể hiện trong tư tưởng văn hoá
dân gian, thơ văn lý trần, trong các tác phẩm của các nhà tư tưởng, văn hoá nhà
Trần, Chu Văn An , Nguyễn Trãi, , Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Quý Đôn, Phan Bội
Châu,…xuất phát từ nhu cầu đoàn kết dân tộc, thơ văn lý Trần rất chú ý đề cao
tinh thần khoan dung, hoà mục: “ nhật, nguyệt tịnh minh, các hữu sở chiếu”
( mặt trời và mặt trăng đều chiếu sáng, mỗi cái có cách chiếu riêng. Ý nói: mặt trời
chiếu ban ngày, mặt trăng chiếu ban đêm, cả hai đều cần thiết cho cuộc sống của
con người, không nên đề cao cái này mà phủ nhận cái kia)
Nguyễn Trãi viết: “ phúc chu, thuỷ tín dân do thuỷ” (lật thuyền mới biết sức
dân như nước- Quan hải)
Nguyễn Bỉnh Khiêm nhận thức rằng:
Cổ lai, quốc dĩ dân di bản
Đắc quốc ưng tri tại dắc dân – (cảm hứng)
( xưa nay nước lấy dân làm gốc
Được nước nên biết là do được lòng dân)
Còn Phan Bội Châu lại chú ý nhiều đến phạm trù “ thời” trong triết học phương
Đông (thời cơ, thời vận, thời thế). Ông viết : phàm mọi việc trong thiên hạ đều
không đương nỗi chữ thời. Thời chưa đến mà vội là làm trái trời, thời đã đến mà
không làm là khinh trời”. Phải theo thời nhưng không được ỷ lại chờ thời mà phải
biết chủ động tạo nên thời thế, và ông kêu gọi:” sinh thời thế phải xoay nên thời
thế”. Nói cách khác, Phan Bội Châu khẳng định phải biết xử lý đúng đắn mối quan
hệ giữa nhân tố khách quan và nhân tố chủ quan. Chịu ảnh hưởng của quan niệm
này Hồ Chí Minh viết:
Lạc nước hai xe đành bỏ phí
Gặp thời, một tốt cũng thành công
Hồ Chí Minh đã từ những khái quát giàu tính triết lý này của cha ông
rồi sử dụng thế giới quan và phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin để tổng kết,
rút ra phương pháp luận triết học của mình để chỉ đạo việc hoạch định đường lối
chiến lược, sách lược, đưa tới thắng lợi cho cách mạng việt nam.
Đặc điểm lớn trong tư duy của người Việt Nam là tư duy thực tiễn,
luôn luôn xuất phát từ nhu cầu, lợi ích của dân tộc để giải quyết những vấn đề cấp
bách đang đặt ra trong đời sống thực tiễn của đất nước. Vì vậy người Việt xưa ít
bàn đến những vấn đề về vũ trụ quan . Trong lĩnh vực triết học bình diện được
người Việt quan tâm nhiều nhất là nhân sinh quan và đạo đức quan; ngay trong
đạo đưc quan, giữa mặt triết học đạo đức và mặt chuẩn mực đạo đức thì người Việt
Nam vẫn quan tâm hơn nhiều đến phần chuẩn mực đạo đức, phần hành đạo, nhằm
đòi hỏi những ứng xử kịp thời của con người trước mỗi biến cố xã hội và xung đột
đạo đức.
Đặc điểm này để lại dấu ấn sâu sắc trong tư tưởng triết học Hồ Chí
Minh: dị ứng với mọi giáo điều, không sa vào các cuộc tranh luận lý thuyết thuần
tuý, thiên về hành động thực tiễn của con người, mà hành động lại rất cần đến vai
trò của phương pháp luận, của đạo đức – bởi đạo đức xưa nay vẫn được coi là triết
học của thực tiễn.
Thứ hai tư tưởng Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng nhất định của tinh hoa triết học
phương Đông như nho giáo, phật giáo, lão giáo và phương Tây chủ yếu là triết học
Mác –Lênin. Các yếu tố biện chứng trong triết học phương Đông được Hồ Chí
Minh học tập người đã viết.
Sự vật vần xoay vần đã định sẵn
Hết mưa là nắng lên thôi…
Hết khổ là vui vốn lẽ đời
Ngoài ra tư tưởng “ thiên nhân hợp nhất “, tam tài thống nhất cũng đuợc Hồ Chí
Minh nhắc tới khi bàn về mối quan hệ thiên thời địa lợi nhân hoà.
Triết học phương Đông cũng đưa ra thuyết ngũ hành (5 nhân tố)nhưng
không coi yếu tố nào là nguyên bản, mà có sự chuyển hoá theo quan hệ, ở quan hệ
này là thuỷ, ở quan hệ khác là thổ, v.v.. triết học phương Tây coi trọng nguyên tử
luận, triết học phương Đông coi trọng quan hệ luận , quan hệ con người với tự
nhiên : nhấn mạnh hài hoà, cộng sinh; quan hệ con người với con người: nhấn
mạnh đạo đức , phép ứng xử, chủ trương “ dĩ dức trị quốc”. Ta hiểu vì sao triết học
phương Đông chú ý bàn nhiều hơn đén nhân sinh quan, đạo đức quan so với triết
học phương Tây. Đó cũng là mặt chủ đạo trong tưu tưởng triết học Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh đã được tiếp xúc với nhiều nhà triết học khai sáng pháp
thế kỉ XVIII qua đó Người chịu ảnh hưởng từ các tư tưởng chính trị tiến bộ của họ
về quyền con người và quyền công dân, tư tưởng dân chủ, khẩu hiệu tự do bình
đẳng bắc ái .vv.
Người đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và hệ thống triết học Mác - Lênin
đã đem lại cho Hồ Chí Minh phương pháp luận đề nhận thức và giải quyết đúng
đắn các mối quan hệ phức tạp trong cách mạng Việt Nam : dân tộc và giai cấp, dân
tộc và thời đại, vật chất và tinh thần, khách quan và chủ quan, vv..
Hồ Chí Minh luôn luôn nhấn mạnh “ thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là
một nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin”. Lý luận chỉ được coi là đúng
đắn khi nó phù hợp với thực tiễn, giải quyết được những vấn đề thực tiễn đặt ra.
Như vậy tư tưởng triết học Hồ Chí minh bắt nguồn từ những tiền đề tư tưởng triết
lý của dân tộc, của phương Đông và được thăng hoa lên dưới ánh sáng của triết
học Mác -Lênin, rất Mácxit mà vẫn mang bản sắc riêng của Hồ Chí Minh
II.2 Nội dung cơ bản trong tư tưởng triết học của Hồ
Chí Minh
Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh gồm có 3 nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất về thế giới quan: thế giới quan Hồ Chí Minh là thế giới quan duy
vật khoa học, được xây dựng trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin
Thế giới quan đó giúp cho Nười nhận thức, đánh giá đúng tình hình để đề ra
chiến lược sách lược cho cách mạng Việt Nam từng giai đoạn.
Hồ Chí Minh luôn luôn khẳng đinh vai trò quyết định của sức sản suất, của
cơ sở kinh tế đối với sự chuyển biến từ chế độ này sang chế độ khác.
Sự phát triển cả xã hội xét cho đến cùng là do nhân tố vật chất quyết định. Con
người muốn tồn tại trước hết phải có ăn có mặc, ở, đi lại… do đó đời sống vật chất
quyết định đời sống tinh thần, trong đó sức sản xuất là yếu tố năng động nhất
Triết học ở phương Đông cũng nói nhiều về sự biến dịch, chuyển hoá của
âm dương, tuần hoàn,.. nhưng vẫn dừng lại ở suy nghiệm trừu tượng mà chưa lý
giải được yếu tố vật chất nào là nguyên nhân và điều kiện tạo ra sự biến đổi đó
Năm 1950 trong một bài giảng tại lớp huấn luyện trung ương Hồ Chí Minh đã
nói lịch sử của xã hội là lịch sự của sự phát triển trong cách sinh sản tức phương
thức sản xuất .. sự thay đổi luôn luôn bắt đầu từ sự phát triển của sức sản xuất thay
đổi, sức sinh sản thay đổi, quan hệ sinh sản tức quan hệ sản xuất giữa người với
người cũng do đó mà thay đổi. Sức sinh sản như thế nào thì quan hệ sinh sản phải
như thế ấy.
Như vậy Hồ Chí Minh đã chỉ rõ vai trò quyết định của sức sản xuất vật chất
đối với sự phát triển của xã hội, đối với sự chuyển biến từ một chế độ này sang
chế độ khác
Sau năm 1954, khi miền bắc bước vào thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội,
Hồ Chí Minh đã chỉ rõ : “đặc điểm to nhất của ta trong thời kì quá độ là từ nước
nông nghiệp lạc hậu, tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai
đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa”. Đó là cách diễn đạt sự lựa chọn ccủa nước ta về
con đường phát triển bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, một sự lựa chọ vừa mang
tính tất yêu về chính trị, vừa có khả năng thực hiện.
Tuy nhiên theo Người, đối với cách mạng xã hội chủ nghĩa thì việc giành
được chính quyền mới chỉ bắt đầu, chúng ta phải biết sử dụng chính quyền cách
mạng và sức mạnh làm chủ nhân dân, tận dụng điều kiện quốc tế thuận lợi để xây
dựng cơ sở kinh tế của chế độ mới, thúc đẩy sự chính muồi tất yếu của kinh tế.
Vì vậy Người chỉ rõ : nhiệm vụ quan trọng bậc nhất của chúng ta hiện
nay là phát triển sản xuất để nang cao đời sống vật chất và văn hoá tinh thần của
nhân dân. Muốn có chủ nghĩa xã hội thì không có cách nào khác là phải dốc lực
lượng của mọi người ra để sản xuất. Sản xuất là mặt trận chính của chúng ta hiện
nay… Tất cả chúng ta, ở bất kỳ cấp nào, nghành nào đều cũng phải góp sức làm
cho sản xuất phát triển.
Là người duy vật Mácxit, từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã nói rõ vai trò của
điều kiện vật chất đối với văn hoá đạo đức, bàn về mối quan hệ giữa văn hoá với
kinh tế, Người chỉ rõ văn hoá là kiến trúc thượng tầng, những cơ sở hạ hạ tầng có
kiến thiết rồi, văn hoá mới được kiến thiết được và đủ điều kiện phát triển được “
muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển kinh tế văn hoá.
Tuy nhiên Hồ Chí Minh không chỉ nhấn mạnh một chiều sự phụ thuộc
của văn hoá vào kinh tế mà còn chỉ rõ vai trò sức mạnh to lớn của văn hoá nói
riêng, của các hình thái tinh thần khác ảnh hưởng trở lại đối với kinh tế
Hồ Chí Minh luôn Luôn chú ý phát huy vai trò của nhân tộc chủ quan trong
con người, của ý thức, của lý luận… để vượt lên hoàn cảnh, cải tạo hoàn cảnh
Hồ Chí Minh quan niệm đời sống vật chất quyết định đời sống tinh thần, mặt
khác người cũng rất coi trọng vai trò tác động trở lại của tinh thần, tư tưởng , đạo
đức… đối với xã hội, lịch sử thông qua hoạt động thực tiễn của con người , đặc
biệt là lúc mà điều kiện vật chất còn thiếu thốn, ở những thời điểm có tính bước
ngoặt của lịch sự, con người thực hiện các hoạt động của mình thông qua ý thức,
nếu biết gia tăng sức mạnh của ý thức, của tinh thần sẽ nhân lên sức mạnh của
hoạt động thực tiễn của con người.
Vì vậy Người hết sức chú trọng khơi dậy sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước
và chủ nghĩa anh hùng cách mạng, sức mạnh củalý tuởng chính trị, của văn hoákhoa học – kỹ thuật đặc biệt là sức mạnh của đạo đức, của ý chí cách mạng.
Qua đó ta có thể thấy Người là Một nhà Mácxít cực uyển chuyển, đã kết hợp
nhuần nhuyễn động lực vật chất với đông lực tinh thần để phát huy sức mạnh của
toàn dân tộc chiến thắng kẻ thù.
Thứ hai là Phương pháp biện chứng Hồ Chí Minh là sự vận dụng thuần thục
phương pháp biện chứng duy vật macxít.
Hồ Chí Minh không có tác phẩm riêng bàn về phương pháp.
Nhưng trong thực tế lãnh đạo và chỉ đạo cách mạng Việt Nam, Người đã vận dụng
sáng tạo và nhuần nhuyễn các nguyên lý của phép biện chứng duy vật Macxít kết
hợp với các yếu tố biện chứng của triết học phương Đông qua đó tạo nên một hệ
thống phương pháp riêng của mình, rất Macxít mà cũng rất Hồ Chí Minh, không
trộn lẫn được. Vì vậy, có thể nói, có phương pháp biện chứng của Hồ Chí Minh,
phương pháp đó vẫn là phương pháp biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin nhưng
đã được vận dụng và chuyển hoá vào thực tiễn cách mạng Việt Nam để xử lý
thành công những vấn đề do thực tiễn cách mạng Việt Nam đặt ra, nó in đậm màu
sắc Việt Nam - Hồ Chí Minh và bằng cái riêng đã làm phong phú thêm cái
chung.Vậy nội dung và đặc điểm của phương pháp biện chứng Hồ Chí Minh là gì?
Đó là Biện chứng trong xử lý mối quan hệ giữa thực tiễn và lý luận, giữa cái
riêng và cái chung
Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý, đó là quan điểm cốt lõi nhất của
nhận thức luận Macxít và cũng là nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật.
Theo quan điểm của C.Mác: "ở mỗi dân tộc, lý luận bao giờ cũng chỉ được thực
hiện theo mức độ mà nó là sự thực hiện những nhu cầu của dân tộc ấy". Nói cách
khác, lý luận chỉ được coi là đúng đắn khi nó đáp ứng được nhu cầu thực tiễn của
mỗi dân tộc. Hồ Chí Minh cũng quan niệm: "Lý luận là đem thực tế trong lịch sử,
trong kinh nghiệm, trong các cuộc tranh đấu, xem xét so sánh thật kỹ lưỡnng, rõ
ràng, làm thành kết luận. Rồi lại đem nó chứng minh với thực tế, đó là lý luận
chân chính". Theo quan niệm đó, Hồ Chí Minh luôn luôn lấy thực tiễn, lấy sự
kiện của đời sống dân tộc và thời đại làm định hướng cho tư duy và hành động, lấy
mục tiêu độc lập và phát triển của dân tộc làm căn cứ để xem xét lý luận, để lựa
chọn con đường và bước đi cho cách mạng Việt Nam, nhờ đó mà tránh được giáo
điều, rập khuôn (do chỉ biết lặp lại cái chung), đồng thời cũng tránh để không rơi
vào cơ hội, xét lại (do quá nhấn mạnh cái riêng, cái đặc thù).
Đi theo chủ nghĩa Mác - Lênin, tìm thấy con đường giải phóng dân tộc
theo con đường cách mạng vô sản, nhưng Hồ Chí Minh biết rút ra từ học thuyết
cách mạng và khoa học rộng lớn này những vấn đề cần thiết cho giai đoạn trước
mắt của cách mạng Việt Nam, đề ra đường lối đúng đắn cho cách mạng Việt Nam:
từ giải phóng dân tộc đến giải phóng giai cấp và giải phóng con người, tức là từ
độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Tiếp theo, trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, nhờ
đứng vững trên quan điểm thực tiễn và đường lối độc lập tự chủ, một mặt, chúng
ta vẫn tranh thủ viện trợ kinh tế và quân sự của các nước XHCN anh em, mặt
khác, chúng ta lại đánh theo đường lối và cách đánh Việt Nam, phù hợp với chiến
trường Việt Nam, vì vậy ta đã giành được thắng lợi vẻ vang: giải phóng miền
Nam, thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên CHXH. Khi miền Bắc từ một nền
kinh tế nông nghiệp lạc hậu, tiền tư bản bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH, Hồ
Chí Minh đặt vấn đề: "Chúng ta phải đùng những phương pháp gì, hình thức gì, đi
theo tốc độ nào để tiến lên CNXH" và Người nhắc nhở: "Tuy chúng ta đã có
những kinh nghiệm dồi đào của các nước anh em, nhưng chúng ta cũng không thể
áp dụng những kinh nghiệm ấy một cách máy móc, bởi vì nước ta có những đặc
điểm riêng của ta". Đó là biện chứng Hồ Chí Minh trong xử lý mối quan hệ giữa
thực tiễn và lý luận, giữa cái riêng và cái chung.
Biện chứng trong xử lý mối quan hệ giữa mâu thuẫn và thống nhất của các
mặt đối lập.
Theo quan điểm Macxít, quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là
quy luật cơ bản nhất của phép biện chứng duy vật, bởi mâu thuẫn là hiện tượng
phổ biến của mọi sự vật, hiện tượng và đấu tranh để đi tới chuyển hoá giữa các
mặt đối lập của mâu thuẫn là nguồn gốc của vận động và phát triển. Hồ Chí Minh
cũng thừa nhận tính phổ biến của mâu thuẫn. Người viết: "Cái gì cũng có mâu
thuẫn, vì cái gì cũng có biến âm, dương, có sinh có tử, có quá khứ, có tương lai, có
cũ, có mới. Đó là những mâu thuẫn sẵn có trong mọi sự vật".
Mâu thuẫn có nhiều loại với bản chất khác nhau: có mâu thuẫn bên trong và bên
ngoài, cơ bản và không cơ bản, chủ yếu và thứ yếu, đối kháng và không đối
kháng. Vì vậy, phân tích mâu thuẫn là điều kiện để nhận thức đúng sự vật. Hồ Chí
Minh chính là một bậc thầy trong nhận thức, phát hiện và xử lý mâu thuẫn. Trong
đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp có nhận thức, phát hiện đúng mâu thuẫn
mới xác định rõ kẻ thù và bạn đồng minh, mới đề ra được chiến lược, sách lược,
bước đi đúng đắn cho mỗi giai đoạn của cách mạng.
Vận dụng phép biện chứng duy vật vào phân tích xã hội thuộc địa, nửa phong
kiến Việt Nam đầu thế kỷ XX, Hồ Chí Minh đã phát hiện ra hai mâu thuẫn cơ bản:
một là, mâu thuẫn vốn có của xã hội phong kiến là mâu thuẫn giữa nông dân và
địa chủ phong kiến và hai là, mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với bọn
thực dân xâm lược Pháp, từ đó Hồ Chí Minh xác định nhân dân Việt Nam có hai
kẻ thù chính là đế quốc và phong kiên tay sai, cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân ở Việt Nam có hai nhiệm vụ cơ bản là chống đế quốc giành lại độc lập cho
dân tộc và chống phong kiên đem lại ruộng đất cho dân cày.
Tuy xác định xã hội thực dân nửa phong kiến Việt Nam có hai mâu thuẫn cơ
bản, nhưng trong việc xử lý mâu thuẫn, Hồ Chí Minh không coi hai mâu thuẫn đó
ngang nhau, phải tiến hành song song, đồng thời. Theo Hồ Chí Minh, trong xã hội
thuộc địa nửa phong kiến, mâu thuẫn nổi lên gay gắt nhất, trở thành mâu thuẫn
chủ yếu là mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với đế quốc và bọn tay sai,
có giải quyết được vấn đề dân tộc mới giải quyết được vấn đề dân chủ. Vì vậy,
ngay trong Chính cương vắn tắt (1930), Hồ Chí Minh cũng chỉ nêu chủ trương
"thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công, chia cho dân cày nghèo"
mà chưa nêu khẩu hiệu "người cày có ruộng". Hội nghị Trung ương 8 (tháng
5/1941) dưới sự chủ trì của Hồ Chí Minh, cũng chủ trương tạm gác khẩu hiệu
ruộng đất, chỉ tịch thu ruộng đất của đế quốc, Việt gian, đề thêm khẩu hiệu "giảm
tô, giảm tức", chia lại ruộng công,...
Làm.như vậy, theo Hội nghị phân tích, nếu không đánh đuổi được Pháp - Nhật,
nếu dân tộc còn phải chịu mãi kiếp ngựa trâu thì vấn đề ruộng đất cũng không sao
giải quyết được. Cuộc Cách mạng tháng 8/1945 đã lôi cuốn hàng chục triệu nông
dân, dù chưa được chia lại ruộng đất của địa chủ vẫn hăng hái tiến bước cùng giai
cấp công nhân làm nên cuộc cách mạng long trời lở đất, giành lại nền độc lập cho
dân tộc. Thắng lợi đó là sự thể hiện phép biện chứng của Hồ Chí Minh trong xử lý
mối quan hệ giữa mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn chủ yếu trong cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân ở Việt Nam.
Hồ Chí Minh cũng là bậc thầy về xử lý mâu thuẫn địch - ta, nêu tấm
gương về nghệ thuật vận dụng mâu thuẫn, khai thác mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ
thù. Theo quyết định của Đồng minh tại Hội nghị Pốtxđam (tháng 7/1945), gần 20
vạn quân Tưởng đổ vào Bắc Đông Dương (từ vĩ tuyến 16 trở ra) và hàng vạn quân
Anh - Ấn Độ đổ vào Nam Đông Dương với danh nghĩa giải giáp quân đội Nhật.
Núp dưới bóng quân đội Anh, thực dân Pháp cũng đem quân trở lại nước ta. Nếu
kể cả quân đội Nhật tuy đã đầu hàng nhưng chưa bị tước vũ khí, thì vào lúc đó, có
gần nửa triệu quân nước ngoài đóng trên đất nước ta. Cùng một lúc phải đối phó
với nhiều kẻ thù, tình thế cách mạng Việt Nam như đang "nghìn cân treo sợi tóc".
Để bảo vệ thành quả cách mạng, Hồ Chí Minh chủ trương phải phân hoá kẻ thù,
bằng cách khai thác mâu thuẫn trong hàng ngũ của chúng.
Quân đội Tưởng vào miền Bắc có ba thế lực: cánh Lư Hán thuộc Đệ nhất chiến
khu Vân Nam, cánh Tiêu Văn thuộc Đệ tứ chiến khu Quảng Tây, cánh Chu Phúc
Thành thuộc quân khu Trung ương Trùng Khánh. Chúng giống nhau về mục tiêu
"diệt cộng, cầm Hồ" để dựng lên chính phủ tay sai, phục vụ cho mưu đồ lâu dài
của chúng, nhưng mâu thuẫn với nhau về lợi ích cá nhân. Biết Lư Hán vốn có tư
thù sâu sắc với Tưởng Giới Thạch và cả với Pháp (vì đã bị Pháp tịch thu mấy
chuyến hàng lớn trên tuyến đường sắt Hải Phòng Côn Minh), Hồ Chí Minh đã chủ
động tới thăm chúng nhằm tranh thủ Lư Hán, đồng thời, nhượng bộ cho vợ chồng
Tiêu Văn một số đặc quyền kinh tế để cô lập cánh Chu Phúc Thành... Nhờ đó,
chúng ta buộc họ phải thay đổi thái độ đối với Chính phủ Hồ Chí Minh, đã sử
dụng được lực lượng quân đội Tưởng làm bình phong, ngăn chặn quân đội Pháp
đang lăm le ra miền Bắc.
Trong hàng ngũ tướng lĩnh quân đội Pháp cũng chia thành hai phe: cánh
diều hâu chủ chiến, đứng đầu là Cao ủy Đông Dương Đácgiăngliơ (D'argenlieu),
cánh tương đối hiểu biết, muốn hoà hoãn, tiêu biểu là đại tướng Lơcléc (Leclerc),
tổng chỉ huy quân đội viễn chinh. Hồ Chí Minh đã viết thư gửi Lơcléc: "Ngài là
một đại quân nhân và là một nhà ái quốc. Ngài đã chiến thắng và chiến thắng anh
dũng kẻ xâm lăng nước ngài... Lừng danh với những chiến công, ngài lại đi đánh
một dân tộc chỉ muốn độc lập, thống nhất quốc gia và một nước chỉ muốn hợp tác
như anh em với nước ngài sao?".
Lòng tự trọng bị tổn thương, ít lâu sau Lơcléc từ chức Tổng chỉ huy, xin
chuyển về Pháp, mở đầu cho sự liên tục thay đổi Tổng chỉ huy quân đội Pháp ở
Đông Dương.
Đánh giá sách lược của Hồ Chí Minh Trong giai đoạn này, đồng chí Lê
Duẩn đã viết: "Những biện pháp cực kỳ sáng suốt đã ghi vào lịch sử cách mạng
nước ta như một mẫu mực tuyệt vời của sách lược Lêninnít về lợi dụng mâu thuẫn
trong hàng ngũ kẻ địch và về sự nhân nhượng có nguyên tắc". Nhắc lại những năm
tháng đó, đồng chí Phạm Văn Đồng cũng viết: "Nếu bấy giờ không có Hồ Chí
Minh thì khó lường hết cái gì có thể xảy ra".
Đối với mâu thuẫn địch - ta, chỉ có một cách xử lý duy nhất là "Hễ còn một
tên xâm lược trên đất nước ta, thì ta phải kiên quyết đánh đuổi nó đi". Còn với
mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, xuất phát từ quan điểm "Hễ là người Việt Nam
thì ai cũng có lòng yêu nước, ghét giặc", Hồ Chí Minh chủ trương đoàn kết mọi
lực lượng "miễn là không phản lại quyền lợi dân chúng, không là Việt gian, thân
Pháp, thân Nhật, có lòng trung thành với Tổ quốc”, "Không được phép bỏ một lực
lượng nào sẵn sàng phục vụ quốc gia".
Phương pháp đại đoàn kết Hồ Chí Minh là lấy cái chung, cái tương đồng để
khắc phục cái riêng, cái dị biệt, lấy nhân ái, khoan đung để cảm hoá, lấy nhân
nhượng, thoả hiệp lẫn nhau để giải quyết bất đồng, "biến đại sự thành tiểu sự, biến
tiểu sự thành vô sự". Người phê phán một số cán bộ chỉ biết "chia rẽ, bênh vực lớp
này chống lại lớp khác, không biết làm cho các tầng lớp nhân nhượng lẫn nhau,
hoà thuận với nhau... quên rằng lúc này ta phải toàn dân đoàn kết, không chia già
trẻ, giàu nghèo để giữ nền độc lập, chống kẻ thù chung".
Như vậy, trong mâu thuẫn nội bộ nhân dân (mâu thuẫn không đối kháng), có
mặt thuận và mặt nghịch, bên cạnh mặt mâu thuẫn còn có mặt thống nhất, để tồn
tại trong sự thống nhất, phải biết lấy thuận chế nghịch, lấy cái chung, cái đồng
thuận để khắc phục cái riêng, cái dị biệt. Đó là biện chứng trong cách xử lý của Hồ
Chí Minh về mối quan hệ giũa mâu thuẫn và thống nhất các mặt đôi lập.
Biện chứng giữa cái "bất biến" và cái “vạn biến".
Đây là một tư tưởng biện chứng hết sức sâu sắc của triết học phương Đông,
xuất phát từ quan niệm vạn vật sinh hoá đều do điều lý (quy luật) chi phối, nếu
nắm được điều lý của vũ trụ thì có thể điều khiển được mọi biến hoá của trời đất
(hiện tượng), nghĩa là có thể lấy cái bất biến chế ngự được cái vạn biến, lấy tĩnh
chế động, lấy nhu thắng cương...
Phép biện chứng duy vật Macxít cũng đã đề cập đến các cặp mâu thuẫn và
thống nhất, vận động và đứng im, nhưng mối quan hệ giữa bất biến và vạn biến
trong phép biện chứng của Hồ Chí Minh có nguồn gốc chủ yếu từ trong triết học
phương Đông và Việt Nam. Xưa Lý Thánh Tông, khi đi lo việc biên cương ở
phương Nam, có dặn lại nhiếp chính Ỷ Lan một câu: "Vạn biến như lôi, nhất tâm
thiền định", ý nói cứ lấy nhất tâm bất biến (là một lòng lo giữ việc nước) thì có thể
đối phó với vạn biến (dù có dữ dội như sấm sét).
Vậy ta hiểu "dĩ bất biến ứng vạn biến" mà Hồ Chí Minh nói đến là gì? Theo
cách nói của triết học, có thể hiểu "bất biến" là quy luật, vì chỉ có quy luật (tự
nhiên, xã hội, tư duy) là tồn tại lâu đài, là hầu như bất biến, còn "vạn biến" là hiện
tượng, là sự biểu hiện đa dạng của quy luật, cho nên có thể đưa vào quy luật mà lý
giải hiện tượng hay ngược lại, từ phân tích vô vàn hiện tượng có thể tìm ra quy
luật tương ứng. Phép biện chứng duy vật thường chú trọng nhiều hơn về trình bày
sự phát triển biện chứng của sự vật, coi mâu thuẫn, vận động là tuyệt đối, thống
nhất, đứng im là tương đối. Trong thực tế vận dụng, đôi khi chúng ta lại có phần
coi nhẹ, thậm chí bỏ qua cái "bất biến" (tức là cái thống nhất, đứng im vốn là điều
kiện tồn tại của sự vật).
Trong vũ trụ và trong cuộc sống xã hội vốn tồn tại phạm trù "bất biến". Hoá
học được xây dựng trên cơ sở định luật bảo toàn trọng lượng. Công thức có thể
biến hoá, nhưng trị số thì không đổi. Năng lượng học dựa trên định luật bảo toàn
năng lượng. Toán học có những hằng số, hằng đẳng thức không đổi. Về mặt xã
hội, các chế độ xã hội đều có nhiều thay đổi, nhưng trong xã hội nào người ta cũng
vẫn cần đến ăn, mặc, ở... tức là vẫn phải có sản xuất và phân phối, nghĩa là sự
khác nhau, như C.Mác nói, chỉ là về cách thức sản xuất và cách thức phân phối,
còn bản thân sản xuất và phân phối thì xã hội nào cũng vẫn phải có. Cũng có thể
gọi đó là các hằng số xã hội. Hồ Chí Minh tiếp thu phép biện chứng Macxít, đồng
thời cũng chịu ảnh hưởng của tư duy biện chứng phương Đông. Người thường bắt
đầu từ cái bất biến để đi tới cái khả biến của xã hội và con người. Thí dụ, Người
nói: "Tuy phong tục mỗi dân mỗi khác, nhưng có một điều thì dân nào cũng giống
nhau ấy là dân nào cũng ưa sự lành, ghét sự dữ”. Khi nghe một vị ủy viên Ban vận
động đời sống mới nói cần định ra một cái hướng mới cho cuộc vận động, vì khẩu
hiệu "cần, kiệm, liêm, chính" xem ra vừa không đủ, vừa cổ... thì Hồ Chí Minh ngắt
lời: "Cổ, lạ quá, thế cơm các cụ ăn ngày xưa, bây giờ mình ăn cũng cổ à?". Theo
Người, ăn cơm, uống nước, hít thở khí trời... không bao giờ cũ, xưa nay và sau này
đều phải làm. Cần, kiệm, liêm, chính cũng vậy.
Trước khi sang Pháp đàm phán, Người chỉ dặn lại cụ Huỳnh có một câu:
"Mong cụ ở nhà: dĩ bất biến, ứng vạn biến". Ta hiểu đó là Người nói đến mối quan
hệ giữa mục tiêu và phương pháp, nguyên tắc và sách lược. Mục tiêu của chúng ta
là độc lập, thống nhất của Tổ quốc, tự do hạnh phúc của nhân dân, đó là điều bất
biến còn phương pháp - sách lược có thể tuỳ tình hình mà biến hoá đa dạng, thay
đổi linh hoạt, nhưng không được xa rời cái bất biến. Người nói: "Mục đích bất di
bất dịch của ta vẫn là hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ. Nguyên tắc của ta thì
phải vững chắc, nhưng sách lược của ta thì linh hoạt".
Hồ Chí Minh đã vận dụng phương pháp biện chứng này một cách rất hiệu
quả trong chỉ đạo cách mạng, đưa tới những thắng lợi to lớn chưa từng có trong
lịch sử dân tộc. Đúng như một nhà báo Pháp đã nhận xét: "Chính sự kết hợp mà
không ai bắt chước nổi giữa tính mềm dẻo với tính cương nghị, giữa tính linh hoạt
về chính trị với tính cứng rắn về nguyên tắc, giữa việc vận dụng truyền thống yêu
nước với sự phân tích macxít đã tạo nên tính chất độc đáo của ông Hồ Chí Minh".
Cũng xuất phát từ phép biện chứng Đông - Tây kết hợp này, chúng ta thấy
Hồ Chí Minh đã giải quyết rất thành công, vừa khoa học, vừa nhuần nhuyễn các
mối quan hệ biện chứng giữa truyền thống và hiện đại, kế thừa và đổi mới, dân tộc
và giai cấp, nội lực và ngoại lực, lực - thế, thời…
Tóm lại, tư tưởng triết học Hồ Chí Minh được thể hiện một phần quan trọng
trong phương pháp biện chứng Hồ Chí Minh. Về bản chất, đó là phương pháp biện
chứng duy vật Macxít được vận dụng vào hoàn cảnh Việt Nam, có sự kết hợp với
tư duy biện chứng phương Đông, in đậm dấu ấn phương Đông và Việt Nam, nổi
bật lên trong đó là sự kết hợp tính cương nghị về nguyên tắc với tính mềm dẻo,
linh hoạt về sách lược, lấy cái đại đồng để khắc phục cái tiểu dị, đi từ dân tộc đến
giai cấp, nhằm mục tiêu đại đoàn kết dân tộc, phân hoá và cô lập kẻ thù chính,
giành thắng lợi cho độc lập dân tộc để từng bước đi lên CNXH. Phương pháp biện
chứng Hồ Chí Minh cũng do đó mà có vai trò rất to lớn đối với công cuộc đổi mới
của chúng ta, đặc biệt trong bối cảnh quốc tế đang chuyển biến nhanh chóng và
phức tạp hiện nay.
Thứ ba là Tư tưởng về con người, bộ phận cơ bản của tư tưởng triết học
Hồ Chí Minh
Thấm nhuần quan điểm cải tạo thế giới của triết học Mác, vấn đề được Hồ
Chí Minh đặc biệt quan tâm là vấn đề con người và sự nghiệp giải phóng con
người. Con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là con người chung
chung, trừu tượng, phi lịch sử, mà là con người hiện thực, cụ thể, sinh động, trước
hết là nhân dân lao động và quần chúng bị áp bức ở khắp mọi nơi, không phân biệt
dân tộc và màu da. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người có thể tóm tắt lại trong ba
nội dung cơ bản:
Con người là vốn quý nhất, là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng:
Theo Hồ Chí Minh, lịch sử là do quần chúng nhân dân sáng tạo ra, chứ không
phải do vài ba cá nhân anh hùng nào, vì vậy chúng ta phải yêu dân, quý dân, trọng
dân, vì "có dân là có tất cả". Người nói: "Trong bầu trời không gì quý bằng nhân
dân. Trong thế giới, không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân". Do
đó, "trong xã hội không có gì tất đẹp, vẻ vang bằng phục vụ cho lợi ích của nhân
dân".Từ đó, ta thấy nổi lên ở Hồ Chí Minh một tấm lòng yêu thương vô hạn đối
với con người, một niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh và phẩm giá con người, một
ý chí kiên quyết đấu tranh để giải phóng con người khỏi áp bức, bất công, đói
nghèo, lạc hậu. Cũng có thể coi đó là những nội dung cơ bản của chủ nghĩa nhân
văn Hồ Chí Minh.
Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người hoàn toàn xa lạ với các quan điểm xem
con người như là công cụ, như là phương tiện. Mọi chính sách tăng trưởng kinh tế,
phát triển văn hoá của Hồ Chí Minh đều hướng tới con người. Người nói: "Phải
đem hết sức dân, tài dân, của dân để làm lợi cho dân", "dựa vào lực lượng của dân,
tinh thần của dân để gây hạnh phúc cho dân", "chủ nghĩa xã hội là nhằm nâng cao
đời sống vật chất và văn hoá của nhân dân và do nhân dân tự xây đựng lấy". Qua
đó, có thể thấy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, con người - mục tiêu và con người động lực là thống nhất, vì dân và do dân là thống nhất. Để phát huy vai trò động
lực của con người, Hồ Chí Minh đã đề cập đến một hệ thống nội dung và biện
pháp (vật chất và tinh thần) nhằm tác động vào cái động cơ thúc đẩy tính tích cực
hoạt động của con người đồng thời, cũng chỉ ra những nội dung và biện pháp làm
triệt tiêu các trở lực nhằm thúc đẩy sự phát triển theo hướng tiến bộ.
Trong hệ thống các động lực chính trị - tinh thần, Hồ Chí Minh chú trọng trước
hết đến giáo dục chủ nghĩa yêu nước, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, đạo đức cách
mạng... đồng thời không coi nhẹ vai trò tác động của các nhân tố tinh thần khác,
như văn hoá, khoa học, pháp luật... đặc biệt, Người chú trọng phát huy quyền làm
chủ của nhân dân, coi "thực hành dân chủ là cái chìa khoá vạn năng có thể giải
quyết mọi khó khăn". Là nhà duy vật Macxít, Hồ Chí Minh hiểu hành động của
con người luôn gắn liền với nhu cầu và lợi ích của họ, vì vậy, đi đôi với các biện
pháp chính trị - tinh thần, Hồ Chí Minh không coi nhẹ hay bỏ qua các động lực vật
chất, khéo léo kết hợp các loại động lực với nhau, tạo sức mạnh tổng hợp, thúc đẩy
tính năng động cách mạng của con người. Người tôn trọng và khuyến khích lợi ích
cá nhân chính đáng của người lao động, chủ trương kết hợp hài hoà ba lợi ích, sao
cho "Nhà nước, hợp tác xã và xã viên cùng có lợi".
Nhưng muốn khai thông động lực thì phải khắc phục trở lực kìm hãm sự phát
triển của con người, trong đó "căn bệnh mẹ" cực kỳ nguy hiểm là chủ nghĩa cá
nhân phải được phê phán mạnh mẽ, kiên quyết tẩy trừ
Tư tưởng về chiến lược "trăm năm trồng người"
Từ quan điểm về con người đến quan điểm về chiến lược "trồng người" là
một bước phát triển hợp logic của tư tưởng triết học Hồ Chí Minh. Để thực hiện
chiến lược kinh tế - xã hội thì chiến lược con người phải đi trước một bước. Từ rất
sớm, Người đã nêu ra một luận điểm nổi tiếng: "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội
thì trước hết cần có những con người XHCN". Do đó, "vì lợi ích mười năm thì
phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người". "Bồi dưỡng thế hệ cách
mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết" (Di chúc). Quan
điểm "trồng người" của Hồ Chí Minh rất toàn diện và phong phú, ở mỗi thời kỳ
cách mạng, Người nêu ra những yêu cầu khác nhau. Bước vào thời kỳ xây dựng
chủ nghĩa xã hội, Người nhấn mạnh đến các yêu cầu sau đây:
Có đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, không tham ô,
lãng phí, quan liêu, có ý thức làm chủ và tinh thần tập thể. Có ý chí học hỏi, không
ngừng vươn lên làm chủ những thành tựu văn hoá, khoa học - kỹ thuật, những
hiểu biết mới của thời đại. Có tinh thần tìm tòi, nghiên cứu, sáng tạo, nhạy bén với
cái mới, biết vận dụng nó vào thực tế công tác để nâng cao năng suất, chất lượng,
hiệu quả. Tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và chiến lược trồng người là một
hệ thống chặt chẽ, phong phú, vừa khoa học, vừa cách mạng, là một bộ phận hợp
thành của tư tưởng triết học Hồ Chí Minh, một đóng góp quan trọng vào việc làm
phong phú triết học về con người của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Từ thực tiễn đấu tranh cách mạng cứu dân, cứu nước, tìm một con đường phát
triển mới để canh tân đất nước, Hồ Chí Minh đã tìm đến nhiều học thuyết Đông Tây, trên hết là chủ nghĩa Mác - Lênin, đã học hỏi, tiếp thu, dung hợp, tích hợp,
hình thành cho mình một thế giới quan duy vật và phương pháp biện chứng
Macxít, tạo nền tảng triết học để xây đựng lý luận, đường lối và phương pháp cho
cách mạng Việt Nam. Triết học Hồ Chí Minh là triết học thực tiễn, biện chứng Hồ
Chí Minh là biện chứng thực hành, nó được thể hiện và xuyên thấm trong toàn bộ
cuộc đời, sự nghiệp và trước tác của Hồ Chí Minh. Từ những hoạt động thực tiễn
phong phú ấy của Người, phân tích, hệ thống hoá, có thể rút ra tư tưởng và
phương pháp triết học của Hồ Chí Minh. Đó là một việc làm công phu và lâu dài.
Mấy nội dung cơ bản trong tư tưởng triết học Hồ Chí Minh được trình bày trên
đây mới chỉ là những khái quát bước đầu, chắc chắn cần được bổ sung và hoàn
chỉnh cùng với những thành tựu mới trên con đường lâu dài nghiên cứu tư tưởng
triết học Hồ Chí Minh.
3. Tư tưởng chính trị của Hồ Chí Minh
Đô ôc lâ ôp dân tô ôc gắn liền chủ nghĩa xã hô ôi là đóng góp to lớn của Chủ tịch Hồ
Chí Minh vào kho tàng lý luâ ôn của chủ nghĩa Mác-Lênin
Đô ôc lâ ôp – tự do là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của dân tô ôc
“Không có gì quý hơn độc lập tự do” là điểm xuất phát và là nô iô dung lớn
nhất của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Từ 1919, trong “Bản yêu sách tám điểm” gửi đến Hô ôi nghị Véc-xây, Hồ
Chí Minh cũng chính là người Viê ôt Nam đầu tiên đã thống nhất hai nô ôi dung Đô ôc
lâ pô dân tô ôc và Tự do của nhân dân trong lịch sử Viê ôt Nam.
Người đã khẳng định: Cách mạng ở thuộc địa không chỉ trông chờ vào kết
quả của cách mạng vô sản ở chính quốc mà phải tiến hành song song với cách
mạng ở chính quốc, hơn nữa nó cần phải chủ động, sáng tạo và có thể giành thắng
lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc. Bằng thắng lợi của mình nó có thể đóng
góp vào sự nghiệp giải phóng anh em vô sản ở phương Tây. Đây không chỉ là một
luận điểm sáng tạo mà còn là sự phát triển lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin về cách
mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Từ “Tuyên ngôn đô ôc lâ ôp của nước Viê ôt Nam Dân chủ Cô ông hòa” đến các
lời kêu gọi sau đó, nhất là các lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, “Không có gì
quý hơn đô ôc lâ pô tự do” là chân lý sáng ngời thời đại do Người vạch ra mãi soi
sáng cho cách mạng Viê ôt Nam và cách mạng nhân loại.
Đôcô lâ ôp dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là nô ôi dung cốt lõi, bao
trùm và xuyên suốt của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Nếu trong “Bản yêu sách tám điểm” gửi đến Hô ôi nghị Véc-xây là sự thống
nhất giữa đô ôc lâ pô dân tô ôc với tự do của nhân dân, thì trong “Đường Kách mê nô h”
và trong “Cương lĩnh đầu tiên của Đảng” là sự thống nhất giữa đô ôc lâ ôp dân tô ôc
với CNXH. Thì từ “Tuyên ngôn đô ôc lâ pô của nước Viê ôt Nam Dân chủ Cô nô g hòa”
đến các “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” sau này, trong tư tưởng Hồ Chí Minh
đã được bổ sung thêm quyết tâm cao nhất của dân tô ôc nhằm giữ vững mục tiêu
cao cả Đô ôc lâ pô dân tô ôc gắn liền với CNXH ở Viê ôt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường quá đô ô lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam chính là chủ nghĩa Mác-Lênin đã Viê ôt Nam hóa bởi Hồ
Chí Minh.
Tư tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội của Người là tổng
hợp những quan điểm chiến lược có ý nghĩa chỉ đạo lớn về chính trị và lý luận, về
- Xem thêm -