Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Nông - Lâm - Ngư Lâm nghiệp Báo cáo về đa dạng sinh học ở vườn quốc gia bến en...

Tài liệu Báo cáo về đa dạng sinh học ở vườn quốc gia bến en

.PDF
30
938
90

Mô tả:

LỜI NÓI ĐẦU Vườn Quốc gia Bến En cách Thành phố Thanh Hóa 46km về phía Tây Nam, thuộc địa phận xã Hải Vân, huyện Như Thanh, Thanh Hóa. Đây là một vùng rừng núi, sông hồ rộng khoảng hơn 16.000ha còn mang vẻ hoang dã với hệ động thực vật đa dạng và phong phú. Có nhiều loại động thực vật quý hiếm như: Voi, Gấu, Hổ, Vọoc má trắng, Lim, Lát hoa, Chò chỉ ... có cây Lim xanh đã tồn tại cả ngàn năm tuổi. Bến En còn có cả hơn 4.000ha mặt hồ với 21 hòn đảo lớn nhỏ tạo nên cảnh quan thiên nhiên vô cùng quyến rũ. Dãy núi đá Hải Vân có nhiều hang động đẹp như hang Ngọc, động suối tiên... lôi cuốn du khách ưa khám phá và mạo hiểm. Báo cáo về đa dạng sinh học ở Vườn Quốc gia Bến En sau đây được xây dựng trên cơ sở các kiến thức chuyên môn và tham khảo từ nhiều nguồn tài liệu. Báo cáo tập trung chủ yếu đánh giá về đa dạng sinh học và thực trạng công tác bảo tồn đa dạng sinh học ở Vườn Quốc gia Bến En. Báo cáo được trình bày với 3 phần chính: I. Giới thiệu về Vườn Quốc gia Bến En II. Hiện trạng đa dạng sinh học tại Vườn Quốc gia Bến En III. Đánh giá công tác bảo tồn đa dạng sinh học tại Vườn Quốc gia Bến En TÁC GIẢ 4 I. GIỚI THIỆU VỀ VƯỜN QUỐC GIA BẾN EN 1. Giới thiệu chung - Tên Vườn Quốc gia: Vườn Quốc gia Bến En - Quyết định thành lập: Quyết định số 33-CT của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) ngày 27/01/1992. - Toạ độ địa lý: 19 độ 31' đến 19 độ 43' vĩ độ Bắc và 105 độ 25' đến 105 độ 43 kinh độ Đông. - Quy mô diện tích: 16.634ha; Vùng đệm: 31.172ha với chức năng làm giảm sức ép của cộng đồng lên Vườn Quốc gia. - Mục tiêu, nhiệm vụ: Bảo tồn hệ sinh thái núi đất nhiệt đới ẩm thường xanh và nửa lá dụng (đặc trưng kiểu rừng Lim - Săng lẻ); Bảo tồn các loài thú quý hiếm (Voi, Khỉ vàng, Sóc bay, Hổ, Báo,...); Phục vụ nghiên cứu khoa học, nghiên cứu thực nghiệm, bảo tồn nguồn gen; Tuyên truyền giáo dục bảo vệ thiên nhiên, môi trường. Phát triển du lịch sinh thái. - Cơ quan/cấp quản lý: Trực thuộc Uỷ ban Nhân dân Tỉnh Thanh Hoá 2. Lich ̣ sử hin ̀ h thành Năm 1979, công triǹ h xây dựng đâ ̣p sông Mực đươ ̣c hoàn thành ta ̣o nên quang cảnh hồ nhân ta ̣o, khu hê ̣ đô ̣ng thực vâ ̣t xung quanh hồ sau đó đươ ̣c quan tâm bảo vê ̣. Năm 1986, khu vực này đươ ̣c thiế t kế thành lâ ̣p khu bảo tồ n thiên nhiên với tên go ̣i là Bế n En có diê ̣n tić h 12.000ha (Bô ̣ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, 1997). Theo Quyế t đinh ̣ số 194/CT ngày 09/08/1986 của Thủ tướng Chính phủ, mu ̣c đích thành lâ ̣p khu bảo tồ n để bảo vê ̣ "Voi hoang da,̃ Nai và rừng đầ u nguồ n sông Mực" (Cao Văn Sung, 1995). Tuy nhiên maĩ đế n năm 1992, khu vực mới thực sự đươ ̣c quản lý bảo vê ̣ khi Vườn Quốc gia Bế n En chiń h thức thành lâ ̣p và luâ ̣n chứng kinh tế kỹ thuâ ̣t đươ ̣c phề duyê ̣t theo Quyế t đinh ̣ số 33/CT của Chủ tich ̣ Hô ̣i đồ ng Bô ̣ trưởng ngày 27/01/1992 với diê ̣n tích 16,634ha và vùng đê ̣m gầ n 30.000ha. Trước năm 1992, Bế n En trực thuô ̣c hai Lâm trường Sông Chanh và Như Xuân (Ban Quản lý Vườn Quốc gia Bế n En, 2003). Hiê ̣n nay, diê ̣n tích của hai xã Bình Lương và Xuân Thái (1295ha) nằ m trong Vườn Quốc gia Bế n En đã đươ ̣c chuyể n thành vùng đê ̣m chuyể n giao cho UBND Tỉnh Thanh Hoá quản lý theo công văn số 99/CP-NN của Thủ tướng Chin ́ h phủ ngày 22/01/2002. Sau khi chuyể n giao, diê ̣n tić h Vườn Quốc gia Bế n En còn la ̣i 15.339ha, diê ̣n tić h vùng đê ̣m tăng lên 31.054ha (Ban Quản lý Vườn Quốc gia Bế n En, 2003). Năm 1995 đã có đề xuấ t mở rô ̣ng pha ̣m vi Vườn Quốc gia tới khu vực giáp gianh với Tỉnh Nghê ̣ An, khi đó Diê ̣n tích của Vườn Quốc gia sẽ tăng lên 38.153ha (Anon, 1995). Bản đề xuấ t đã đươ ̣c UBND Tỉnh Thanh Hoá trình Bô ̣ Lâm nghiê ̣p cũ phê duyê ̣t ngày 19/06/1995 (Ha Dinh Duc et al. 2000). Ngoài ra còn có mô ̣t số đề xuấ t 5 đã đươ ̣c đề câ ̣p trong "Kế hoa ̣ch hành đô ̣ng Đa da ̣ng sinh ho ̣c Viê ̣t Nam" mở rô ̣ng Vườn Quốc gia Bế n En lên 50.000ha (Chính phủ, 1994). Hiê ̣n ta ̣i chưa có bấ t kỳ đề xuấ t nào nêu trên đươ ̣c Bô ̣ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phê duyê ̣t. Bế n En có trong danh lu ̣c các khu rừng đă ̣c du ̣ng Viê ̣t Nam đế n năm 2010 đươ ̣c xây dựng bởi Cu ̣c kiể m lâm - Bô ̣ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Cu ̣c Kiể m lâm, 2003) với diê ̣n tić h 16.634ha (Cu ̣c Kiể m lâm, 2003), danh lu ̣c này hiê ̣n vẫn chưa đươ ̣c Chính phủ phê duyê ̣t. Diê ̣n tích của Vườn Quốc gia trong danh lu ̣c này không phản ánh sự thay đổ i ranh giới trong thời gian gầ n đây. 3. Điạ hin ̀ h và thuỷ văn Vườn Quốc gia Bế n En nằ m trên điạ bàn hai huyê ̣n Như Thanh và Như Xuân, Tin ̉ h Thanh Hoá. Vườn Quố c Gia Bế n En thuô ̣c vùng đồ i thấ p xung quanh hồ nước nhân ta ̣o. Đô ̣ cao dao đô ̣ng từ 20 đế n 497m, hầ u hế t điạ hin ̀ h dưới 200m. Hồ ở đô ̣ cao 50m so với mă ̣t nước biể n, có diê ̣n tić h 2.281ha. Điạ chấ t khu vực đă ̣c trưng bởi đá trầ m tích, đă ̣c biế t là đá than bùn. Có mô ̣t diê ̣n tích nhỏ núi đá vôi, vùng có diê ̣n tích lớn núi đá vôi thuô ̣c vùng đê ̣m phía Đông Bắ c ranh giới vườn. Trong vùng lõi của vườn có hê ̣ thuỷ lớn là Sông Mực, trong phương án mở rô ̣ng vườn sẽ có thêm hê ̣ thuỷ Sông Chàng (Tordoff et al. 2000). 4. Đa da ̣ng sinh ho ̣c Vườn Quố c gia Bế n En có mức đô ̣ đa da ̣ng sinh ho ̣c vào loa ̣i trung bin ̀ h. Vườn quố c gia hiê ̣n đang bảo vê ̣ mô ̣t phầ n hê ̣ sinh thái vùng rừng thường xanh núi thấ p ở Bắ c Trung Bô ̣. Tuy nhiên hê ̣ sinh thái rừng này đã bi ̣tác đô ̣ng ma ̣nh trước đây do khai thác, nên rừng hiê ̣n ta ̣i là rừng thứ sinh, cây gỗ đường kính nhỏ và phầ n lớn là tre nứa. Tuy nhiên từ khi ngừng khai thác, chấ t lươ ̣ng rừng đã đang đươ ̣c phu ̣c hồ i (Tordoff et al. 2000). Mă ̣c dù các hê ̣ sinh thái rừng đã và đang bi ̣ tác đô ̣ng ma ̣nh nhưng khu hê ̣ đô ̣ng thực vâ ̣t Vườn Quốc gia Bế n En vẫn khá đa da ̣ng và phong phú. Ta ̣i Bế n En ghi nhâ ̣n số lươ ̣ng đáng kể các loài thực vâ ̣t đang bi ̣đe do ̣a trên toàn cầ u, đáng chú ý nhấ t trong số này là loài Lim xanh Erythrophleum fordii, đây là loài đã từng là đố i tươ ̣ng khai thác chính của các lâm trường trước năm 1992, hiê ̣n nay Lim xanh vẫn đang đố i tươ ̣ng khai thác với qui mô nhỏ bởi các lâm trường cũng như đang bi ̣ các đố i tươ ̣ng lâm tă ̣c khai thác trô ̣m. Bên ca ̣nh đó, mô ̣t số loài đô ̣ng vâ ̣t có giá tri ̣bảo tồ n ở mức đô ̣ toàn cầ u cũng đã đươ ̣c ghi nhâ ̣n ta ̣i Vườn Quốc gia như Vươ ̣n má trắ ng Hylobates leucogenys, Lửng chóc Chrotogale owstoni, Báo lửa Catopuma temminckii (Tordoff et al. 2000). Tuy nhiên, số lươ ̣ng cá thể của hầ u hế t các quầ n thể thú lớn ta ̣i Bế n En là rấ t thấ p, đây là hâ ̣u quả của tiǹ h tra ̣ng săn bắ n quá mức, mô ̣t số loài đã bi ̣ khai thác ca ̣n kiê ̣t (Tordoff et al. 2000). 6 Trước đây, Voi Châu Á Elephas maximus đươ ̣c ghi nhâ ̣n thường xuyên ta ̣i Vườn Quốc gia, gầ n đây mă ̣c dù đã có mô ̣t số báo cáo đề câ ̣p đế n loài này ta ̣i khu vực (Tordoff et al. 1997, Ha Dinh Duc ed. 2000) nhưng thực tế vẫn chưa có bấ t kỳ ghi nhâ ̣n chiń h thức về sự hiê ̣n diê ̣n của loài này trong Vườn Quốc gia từ năm 1993 (Tordoff et al. 1997). Năm 2000, A. W. Tordoff đã có kế t luâ ̣n loài này có thể không còn tồ n ta ̣i trong khu vực vùng lõi của Vườn Quốc gia và chỉ có khả năng còn mô ̣t quầ n thể rấ t nhỏ phân bố giới ha ̣n trong khu vực vùng đê ̣m ở phía tây của vùng lõi. 5. Các vấ n đề bảo tồ n Khai thác gỗ ở khu vực vườn kéo dài cho đế n năm 1992, không có nơi nào rừng chưa bi ̣ tác đô ̣ng. Hơn 3.600 người hiê ̣n đang sinh số ng bên trong Vườn Quốc gia và gầ n 30.000 người số ng ta ̣i vùng đê ̣m (Ban Quản lý Vườn Quốc gia Bế n En, 2003) tiế p tu ̣c là mố i đe do ̣a ảnh hưởng tới môi trường tự nhiên Vườn Quốc gia. Sự khai thác trái phép tài nguyên rừng của người dân ở đây và ở những nơi khác tới Vườn đang làm châ ̣m quá trình tái sinh phu ̣c hồ i rừng. Tuy nhiên, trong những năm gầ n đây, tình tra ̣ng khai thác gỗ trái phép cũng như các tác đô ̣ng khác của con người vào Vườn Quốc gia đã giảm đáng kể (Ban Quản lý Vườn Quốc gia Bế n En, 2003). Sự tồ n ta ̣i lâu dài của các loài thú lớn và trung bin ̀ h ở vườn đang bi ̣ đe do ̣a do diê ̣n tić h vùng lõi có thể quá nhỏ đố i với quầ n thể của các loài này. Bởi vâ ̣y viê ̣c đề xuấ t mở rô ̣ng vườn tới ranh giới Tin ̉ h Nghê ̣ An đươ ̣c chấ p nhâ ̣n là hế t sức quan tro ̣ng. Rấ t tiế c là dân cư đã di chuyể n tới vùng đề xuấ t mở rô ̣ng, phá rừng làm nương rẫy và trồ ng mía. Nế u hiê ̣n tươ ̣ng phá rừng không đươ ̣c kiể m soát ngay, sẽ dẫn đế n sự cô lâ ̣p giữa rừng ở vùng lõi với các vùng xung quanh và giảm tầ m quan tro ̣ng về bảo tồ n của vườn quố c gia (Tordoff et al. 2000). Ban Quản lý vườn dự đinh ̣ di chuyể n 4.000 người ra ngoài vùng lõi của vườn. Cho đế n nay kế hoa ̣ch này vẫn không thực hiê ̣n đươ ̣c do không có kinh phí và người dân không ủng hô ̣. Vì ho ̣ hiể u rằ ng kế hoa ̣ch di chuyể n tới vùng đê ̣m đươ ̣c thực hiê ̣n, trong tương lai sự khai thác sử du ̣ng tài nguyên rừng của ho ̣ sẽ bi ̣ ha ̣n chế và ít có cơ may quay trở la ̣i (Tordoff et al. 2000). Tordoff et al (2000) kiế n nghi ̣ rằ ng cầ n phải có nghiên cứu kỹ trước khi đi đế n quyế t đinh ̣ di chuyể n các cô ̣ng đồ ng trong vùng lõi của vườn. Nế u có thể phải tổ chức di chuyể n càng sớm càng tố t. Nế u để ho ̣ ở la ̣i phải khuyế n khić h ho ̣ tham gia vào chương trình lâm nghiê ̣p xã hô ̣i và các kế hoa ̣ch khác nhằ m nâng cao thu nhâ ̣p và giảm sự phu ̣ thuô ̣c vào tài nguyên rừng. 6. Các giá tri kha ̣ ́c Vườn Quố c gia đang bảo vê ̣ rừng đầ u nguồ n Sông Mực, hồ Sông Mực là nguồ n cung cấ p nước tưới tiêu cho sản xuấ t nông nghiê ̣p của toàn bô ̣ các xã vùng ha ̣ lưu. Sau khi xây dựng đâ ̣p và hình thành hồ , đơn vi ̣ thuỷ sản hình thành để quản lý hồ và thuỷ sản. Trong các năm từ 1983 đế n 1987, sản lươ ̣ng cá đánh bắ t tăng lên từ 14 đế n 30 tấn 7 nhưng năm 1989 giảm xuố ng còn 7 tấ n. Năm 1993, đơn vi ̣ thuỷ sản ngừng hoa ̣t đô ̣ng. Người dân điạ phương tiế p tu ̣c đánh cá ở trên hồ và các hê ̣ thuỷ liên quan đế n hồ , mă ̣c dù các hoa ̣t đô ̣ng này đã vi pha ̣m tới các quy chế quản lý của Vườn Quố c gia (Tordoff et al. 2000). Trong những năm gầ n đây, với viê ̣c tăng cường thể chế trong công tác quản lý, bảo vê ̣ của Vườn Quốc gia, sản lươ ̣ng cá trong hồ đã tăng đáng kể (Ban Quản lý Vườn Quốc gia Bế n En, 2003). Hầ u hế t các hô ̣ gia đình trong vùng lõi và vùng đê ̣m của vườn đã khai thác các sản phẩ m của rừng ở các mức đô ̣ khác nhau. Nhiề u sản phẩ m của rừng, như tre nứa, song mây ở khu vực khá phong phú điề u đó thể hiê ̣n rừng tự nhiên đã bi ̣thay thế . Tuy nhiên, sự khai thác quá mức mô ̣t số tài nguyên trong những năm trước đây, như gỗ, các loài thú lớn đó là nguyên nhân chin ́ h làm chúng trở nên hiế m trong khu vực (Tordoff et al. 2000). Vườn Quố c Gia Bế n En có tiề m năng du lich ̣ cao, dich ̣ vu ̣ này đã đang hấ p dẫn nhiề u du khách trong nước. Vườn có phong cảnh đe ̣p, đường đi la ̣i thuâ ̣n tiê ̣n. Vườn có nhà khách và khách du lich ̣ có thể du ngoa ̣n bằ ng thuyề n trên hồ . Dich ̣ vu ̣ du lich ̣ có tiề m năng mang la ̣i diê ̣n ma ̣o mới cho vườn và thu nhâ ̣p cho công tác quản lý (Tordoff et al. 2000). 8 II. HIỆN TRẠNG ĐA DẠNG SINH HỌC TẠI VƯỜN QUỐC GIA BẾN EN 1. Đa dạng hệ sinh thái Vườn Quốc gia Bến En thuộc hệ sinh thái rừng núi đất nhiệt đới ẩm. Đây là trung tâm phân bổ của giống Lim xanh, đặc hữu nổi tiếng ở Việt Nam, có cây tuổi thọ đến vài trăm năm với đường kính gần 3m. Ngoài ra còn có các loài cây gỗ quý hiếm như chò chỉ, vù hương, sến mật, vàng tâm, lim, xẹt, lát hoa, trai lý... và những nhóm cây thân mềm như song, mây, giang, tre, họ cây có dầu như trẩu, sến, màng tang... Đặc biệt phong phú là có trên 300 loài cây dược liệu. Rừng Bến En là nơi ẩn náu rất thuận lợi cho nhiều nhóm côn trùng, các loài chim, các loài gặm nhấm, móng guốc và các loài thú ăn thịt phát triển, sinh sôi. Qua nhiều đợt khảo sát, điều tra cho thấy Vườn Quốc gia Bến En có 50 bộ, 177 họ, 216 giống và hơn 1.000 loài động vật, trong đó có 91 loài thú, 201 loài chim, 54 loài bò sát, 31 loài ếch nhái, 68 loài cá, 499 loài côn trùng. Có nhiều loài động vật quý hiếm nằm trong sách đỏ như voi, bò tót, gấu ngựa, báo lửa, khỉ mặt đỏ, vượn bạc má, rùa vàng... Vườn Quốc gia Bến En có hồ sông Mực rộng 4.000ha, sâu hàng chục mét, là thủy vực của bốn con suối lớn trong vùng. Hồ sông Mực còn chia ra làm hai hồ, hồ Thượng rộng hơn 3.000ha và hồ Hạ rộng chừng 800ha. Trên mặt hồ có 24 hòn đảo lớn, nhỏ tạo nên một bức tranh sơn thủy hữu tình, lại có thêm nhiều hang động kỳ ảo chẳng khác nào chốn bồng lai tiên cảnh. Bên cạnh đó, vườn còn xây dựng hệ thống cây xanh tại khu hành chính với hàng trăm loài khác nhau, góp phần tôn tạo cảnh quan và môi trường trong sạch. Vườn Quốc gia Bến En có hệ thống vùng đệm nằm trên địa bàn 11 xã thuộc hai huyện Như Xuân và Như Thanh với số dân 16.000 người bao gồm 4 dân tộc Mường, Kinh, Thái, Thổ. Đây là nguồn nhân lực quan trọng tại chỗ góp phần vào công tác bảo vệ, xây dựng và phát triển vốn rừng, thực hiện biện pháp nông - lâm kết hợp, bảo đảm đời sống ổn định của người dân và sự phát triển của rừng ở vùng trung tâm. 2. Đa dạng loài động thực vật 2.1. Đa dạng loài thực vật Thực vật rừng quốc gia Bến En thuộc hệ sinh thái rừng nhiệt đới, nguồn gen chính mà vườn đang chú ý bảo tồn là các loại cây thuộc kiểu rừng thường xanh chiếm ưu thế như: Lim xanh, săng le, lát hoa, táu mật, gội nếp, trai lý, bản xe…với 1.357 loài, 902 chi, 196 họ của 6 ngành thực vật bậc cao, trong đó có 34 loài thực vật quý hiếm, đặc biệt là cây Lim xanh (Ery thsophloeum fordii) thuộc loài cây chiếm ưu thế. Với hệ sinh thái đặc biệt, Vườn Quốc gia Bến En là nơi có số lượng thực vật sống quần cư thuộc diện phong phú bậc nhất Việt Nam. Ở đây có các loài cây gỗ quý hiếm như chò chỉ, vù hương, sến mật, vàng tâm, lim, lát hoa, trai lý; những nhóm cây 9 thân mềm như song, mây, giang, tre; họ cây có dầu như trẩu, sến, màng tang... Phong phú là có trên 300 loài cây dược liệu. Các loại cây làm thuốc điển hình là Mã tiền, Sa nhân, Sến, Trẩu, Màng lay, Hương bài, Thu hải đường, Lim xanh, Vù hương... Theo Trung tâm dữ liệu thực vật Việt Nam, bước đầu nghiên cứu đã ghi nhận cấu trúc tổ thành hệ thực vật Bến En khá đa dạng bao gồm 749 loài thuộc 138 họ và 459 chi của 5 ngành Thông Đất, Khuyết lá Thông, Dương xỉ, Ngành Hạt Trần và ngành Hạt kín. Bước đầu nghiên cứu cấu trúc tố thành loài trong hệ thực vật Vườn Quốc gia Bến En, các nhà khoa học đã thu thập và hiệu chỉnh bản danh lục mới theo cách sắp xếp của Brummitt (1992): - Cấu trúc tổ thành hệ thực vật Bến En khá đa dạng bao gồm 749 loài thuộc 138 họ và 459 chi của 5 ngành Thông Đất, Khuyết lá Thông, Dương xỉ, Ngành Hạt Trần và ngành Hạt kín. - Sự phân bố giữa các taxon không đều nhau Ngành Hạt Kín chiếm ưu thế với 679 loài chiếm 90,7% tổng số loài toàn hệ, Tiếp đến là Dương xỉ với 54 loài chiếm 7, 28% các ngành còn lại chiếm tỉ lệ rất thấp. Riêng ngành Hạt Kín thì lớp Hai lá mầm chiếm ưu thế với 575 loài chiếm 84,68% tổng số loài của cả ngành. - Các chỉ số trong hệ thực vật Vườn Quốc gia Bến En gồm: chỉ số họ là 5,43, chỉ số chi là 1,63 và trung bình mỗi họ có 3,33 chi thấp hơn so với Bạch Mã, Pù Mát, Cúc Phương và Sa Pa. - Trong 138 họ thực vật của hệ có 10 họ đa dạng nhất chiếm 212 loài (28.84%) và 125 chi (27.23%). Ví dụ: Euphorbiaceae, Fabaceae, Rubiaceae,... đặc biệt một số họ trong 10 họ đa dạng nhất Việt Nam lại không có trong hệ. - Các chi đa dạng nhất của hệ phải kể đến: Mallotus, Desmosdium, Castanopsis, Ficus, Ardisia, Hydeotis... chiếm 67 loài (8.95%%) tổng số loài của khu hệ. - Vườn Quốc gia Bến En có 12 loài cần được bảo vệ thuộc sách đỏ Việt Nam, chiếm tỉ lệ 1.60%. Đặc biệt, Vườn Quốc gia Bến En là trung tâm phân bố của giống Lim xanh, đặc hữu nổi tiếng ở Việt Nam, có cây tuổi thọ đến vài trăm năm với đường kính gần 3m. Là 1 trong nhóm gỗ "tứ thiết", Lim xanh có tên khoa học là Erythrophloeum fordii oliv thuộc họ Vang. Với chất lượng gỗ tốt nhất, Thanh Hóa được gọi là "quê hương" của Lim xanh, khu vực phân bố tự nhiên tập trung ở các xã Yên Cát, Xuân Khang, Cát Vân của huyện Như Xuân... Ngoài ra, Lim xanh còn phân bố ở các huyện Cẩm Thủy, Ngọc Lặc, Bá Thước, Thạch Thành và một số địa phương khác. Lim xanh được dùng phổ biến trong xây dựng nhà cửa, cầu cống, đóng đồ gia dụng, khả năng chịu lực lớn, độ bền cao, được nhiều người ưa chuộng. Lim xanh Thanh Hóa từng được Chính phủ lựa chọn để xẻ tà - vẹt khôi phục lại tuyến đường sắt Bắc -Nam những năm đầu thập 10 kỷ 60 của thế kỷ trước. Lim xanh Như Xuân cũng chính là loại gỗ được chọn để xây dựng Bảo tàng Hồ Chí Minh cũng như có mặt trong nhiều công trình xây dựng quan trọng khác của cả nước và trong Tỉnh. 2.2. Đa dạng loài động vật Hệ động vật ở Vườn Quốc gia Bến En cũng rất đa dạng. Đây là nơi ẩn náu rất thuận lợi cho nhiều nhóm côn trùng, các loài chim, các loài gặm nhấm, móng guốc và các loài thú ăn thịt phát triển, sinh sôi. Theo số liệu điều tra năm 1998 cho thấy, Vườn Quốc gia Bến En có 375 loài động vật thuộc 112 họ, 36 bộ, 5 lớp. Thú có 66 loài, 25 họ, 9 bộ (29 loài có trong Sách đỏ Việt Nam), trong đó có nhiều loài thú quý hiếm như voi (5 - 7 con), bò tót, hổ (3 - 5 con), vượn đen má trắng. - Chim có 195 loài, 53 họ, 18 bộ (9 loài có trong Sách đỏ Việt Nam). - Bò sát có 39 loài, 14 họ, 2 bộ (15 loài có trong Sách đỏ Việt Nam). - Lưỡng cư có 29 loài, 6 họ, Ì bộ (4 loài có trong Sách đỏ Việt Nam). - Cá có 49 loài, 14 họ, 6 bộ (4 loài có trong Sách đỏ Việt Nam). Kết quả nhiều đợt khảo sát, điều tra cho thấy, động vật Vườn Quốc gia Bến En có 50 bộ, 177 họ, 216 giống và hơn 1.000 loài động vật, trong đó có 91 loài thú, 201 loài chim, 54 loài bò sát, 31 loài ếch nhái, 68 loài cá, 499 loài côn trùng. Có nhiều loài động vật quý hiếm nằm trong sách đỏ như voi, bò tót, gấu ngựa, báo lửa, khỉ mặt đỏ, vượn bạc má, rùa vàng... 3. Đa dạng gen Vườn Quốc gia Bến En được đánh giá có sự đa dạng gen thực vật điển hình. Nguồn gen chính mà vườn đang chú ý bảo tồn là nguồn gen các loại cây thuộc kiểu rừng thường xanh chiếm ưu thế như: Lim xanh, Săng lẻ, Lát hoa, Táu mật, Gội nếp, Trai lý, Bản xe... với 1.357 loài, 902 chi, 196 họ của 6 ngành thực vật bậc cao, trong đó có 34 loài thực vật quý hiếm, đặc biệt là cây Lim xanh (Ery thsophloeum fordii) thuộc loài cây chiếm ưu thế. Vài năm gần đây, với những đề tài nghiên cứu khoa học như: "Bảo tồn nguồn gen một số loài cây quý hiếm ở Vườn quốc gia Bến En", "Nghiên cứu quá trình phục hồi rừng sau nương rẫy ở Vườn quốc gia Bến En"... Vườn đã thu hút hàng trăm nhà nghiên cứu, nhà khoa học về động vật, thực vật trong nước và quốc tế đến tham quan, nghiên cứu. 11 III. ĐÁNH GIÁ CÔNG TÁC BẢO TỒN ĐA DẠNG SINH HỌC TẠI VƯỜN QUỐC GIA BẾN EN 1. Thực trạng về công tác bảo tồn đa dạng sinh học Với diện tích 15.334 ha rừng và đất lâm nghiệp, trải dài trên địa bàn hai huyện Như Xuân và Như Thanh. Nhờ đẩy mạnh công tác nghiên cứu và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất nên Vườn Quốc gia Bến En đã xây dựng và phát triển thành công hệ sinh thái đa dạng của rừng nhiệt đới, phục vụ yêu cầu bảo tồn nguồn tài nguyên quý của thiên nhiên và phát triển du lịch sinh thái. Năm 2005, vườn đã khoanh nuôi, phục hồi được 2.006ha rừng tự nhiên; khoanh nuôi kết hợp tác động kỹ thuật cao 96ha, chăm sóc rừng trồng phục hồi sinh thái 60 ha, xây dựng và chăm sóc vườn thực vật 29ha, điều tra, phân loại thực vật 30ha với 984 loài cây, điều tra, khảo sát làm lại luận cứ khoa học xây dựng khu sinh quyển thế giới của tỉnh Thanh Hóa. Ngoài ra, cán bộ kỹ thuật của vườn còn theo dõi các thông số kỹ thuật về diễn biến của các loài cây bản địa quý hiếm, thực nghiệm xử lý giống, gieo ươm, gây trồng một số loài cây mới để bảo tồn quỹ gien thực vật. Xây dựng quy trình kỹ thuật ứng dụng gây trồng rộng rãi các loài cây quý như: đinh hương, giổi, Lim xanh, vang nhuộm, rau sắng, vù hương, trai lý... Vườn Quốc gia Bến En hiện là nơi lưu giữ diện tích và số lượng Lim xanh lớn nhất cả tỉnh, với diện tích khoảng 1.000ha. Nơi có mật độ Lim xanh dày nhất tại Vườn Quốc gia Bến En là khu vực Điện Ngọc. Lim xanh ở Vườn Quốc gia Bến En có độ tuổi từ 25 đến 30 năm, đường kính dao động từ 20 đến 25cm và hoàn toàn là lim tái sinh. Trên lý thuyết, với độ tuổi còn "non" như vậy, chất lượng gỗ Lim xanh không cao. Tuy nhiên, vì lợi nhuận và nhu cầu "miếng cơm manh áo", rừng Lim xanh ở Vườn Quốc gia Bến En vẫn bị các đối tượng xâm hại. Đối tượng khai thác chủ yếu là ở các xã Bình Lương, Xuân Thái. Điển hình là năm 2008 các đối tượng đã lợi dụng sơ hở của cán bộ quản lý, khai thác trộm 78 cây lim tại rừng lim khu vực Điện Ngọc. Cách thức khai thác trộm phổ biến là sử dụng loại cưa xăng. Với công cụ này, các đối tượng chỉ cần khoảng 1 tiếng đồng hồ để hạ 1 cây lim. Không chỉ thế, nhiều đối tượng còn sử dụng biện pháp cưa mớm, sau đó chờ những ngày mưa, bão, gió quật đổ cây rồi lợi dụng sơ hở của lực lượng tuần tra, bảo vệ để cắt khúc, đưa đi. Vườn Quốc gia Bến En đã triển khai nhiều biện pháp để quản lý, bảo vệ như khoanh vùng, giao trách nhiệm cho cán bộ trực tiếp quản lý đến từng tiểu khu. Thậm chí thành lập các chốt gác ngay giữa rừng, cắt cử cán bộ thay phiên nhau trực. Tuy nhiên, cuộc chiến giữ rừng, giữ Lim xanh vẫn giằng co, dai dẳng. Đối tượng khai thác trộm chủ yếu là dân bản địa, thông thuộc đường rừng như lòng bàn tay. Cán bộ kiểm lâm có phát hiện được đối tượng khai thác trộm, thì cũng khó đuổi bắt được. Rừng bị 12 xâm hại, cán bộ làm nhiệm vụ thì phải chịu kỷ luật. Sử dụng biện pháp cứng rắn là bắn đối tượng thì cán bộ phải bồi thường. Vì vậy, lực lượng kiểm lâm đã dùng đến biện pháp làm bẫy dây để vây bắt đối tượng. Tuy nhiên, hầu hết các đối tượng là các con nghiện, khi áp dụng các biện pháp xử phạt hành chính thì nhà lại quá nghèo, không biết lấy gì để nộp phạt. Càng khó khăn hơn nữa, khi tại vùng lõi của Vườn Quốc gia Bến En có tới 318 hộ dân với gần 2.000 nhân khẩu sinh sống. Đời sống của bộ phận dân cư này hết sức khó khăn, thường chui nhủi khai thác gỗ trộm để bán lấy tiền sinh sống. Cán bộ Vườn Quốc gia và các cơ quan chức năng tổ chức tuyên truyền, vận động ý thức quản lý, bảo vệ rừng thì bà con... lý luận: Sống giữa rừng, không khai thác gỗ, săn thú thì chúng tôi lấy gì mà ăn. Bên cạnh công tác bảo vệ, Vườn Quốc gia Bến En đã triển khai biện pháp bảo tồn. Công tác bảo tồn Lim xanh hiện nay ở Vườn Quốc gia Bến En chủ yếu là bảo tồn chuyển vị, phải du nhập giống và trồng mới. Nhưng do thời gian kiến thiết của Lim xanh lâu, phải từ 100 năm trở lên, do đó trên diện tích đất 2 ven Vườn Quốc gia Bến En, nhân dân chủ yếu trồng các loài cây lâm nghiệp ngắn ngày, phổ biến nhất là keo. Trong 2 năm gần đây, thông qua Dự án 661, Vườn Quốc gia Bến En đã trồng mới 80 ha lim với mật độ 500 cây/ha từ nguồn giống lim bản địa. Hiện nay toàn bộ diện tích lim này đang sinh trưởng và phát triển tốt. Tuy nhiên, đây cũng chỉ là những giải pháp tạm thời. 2. Những thuận lợi và khó khăn trong công tác bảo tồn đa dạng sinh học 2.1. Những thuận lợi Được sự quan tâm của các cấp chính quyền, các tổ chức trong nước và Quốc tế, Vườn Quốc gia Bến En đã thu hút được nhiều dự án đầu tư nhằm tăng cường chất lượng của công tác bảo tồn đa dạng sinh học ở khu vực này: - Từ tháng 7 đế n tháng 9 năm 1997 và từ tháng 10 đế n tháng 12 năm 1998, Tổ chức khám phá môi trường Viê ̣t Nam và Viê ̣n Sinh thái và Tài Nguyên Sinh vâ ̣t (IEBR) đã điề u tra Đa da ̣ng sinh ho ̣c ở Vườn Quố c gia Bế n En (Tordoff et al. 1997, 2000). - Từ năm 1998 đến năm 2000, Hô ̣i bảo tồ n sinh thái Nhâ ̣t Bản và Trường Đa ̣i ho ̣c Tổ ng hơ ̣p Hà Nô ̣i đã tiế n hành thực hiê ̣n dự án bảo tồ n đô ̣ng vâ ̣t hoang dã ở vườn Quố c gia Bế n En, dự án đã đánh giá các giá tri ̣ Đa da ̣ng sinh ho ̣c và xây dựng chiế n lươ ̣ng bảo tồ n cho Vườn Quốc gia (Hà Đin ̀ h Đức, 2000). - Năm 1999, Chương triǹ h điề u tra Hổ Đông Dương cũng đã đươ ̣c tiế n hành bởi các nhà khoa ho ̣c Viê ̣n Sinh thái và Tài nguyên Sinh vâ ̣t và Cu ̣c Kiể m lâm ta ̣i Vườn Quốc gia Bế n En (Trầ n Quố c Bảo, 1999). 13 - Hiện nay, dự án "bảo vệ đa dạng sinh học của hệ sinh thái núi đất đai thấp khu vực Bắc Trung bộ ở Vườn Quốc gia Bến En" đến tháng 3/2011. Đây là dự án do Quỹ Bảo tồn Việt Nam hỗ trợ với tổng kinh phí gần 1 tỷ đồng, trong đó nguồn vốn đối ứng của địa phương là 113,9 triệu đồng. Thực hiện dự án này nhằm nâng cao năng lực quản lý cho cán bộ Ban Quản lý Vườn Quốc gia Bến En và cán bộ địa phương, đồng thời thúc đẩy các mối quan hệ giữa Ban Quản lý và các cộng đồng địa phương thông qua việc quy hoạch sử dụng tài nguyên một cách bền vững tại 1 thôn trong khu bảo vệ nghiêm ngặt và 2 thôn trong khu phục hồi sinh thái Vườn Quốc gia. Hoạt động chính của dự án là xây dựng năng lực quản lý và xây dựng cơ chế chia sẻ lợi ích, trong đó tập trung xây dựng năng lực quản lý cho Ban Quản lý, cán bộ địa phương và cộng đồng để nâng cao năng lực quản lý bảo vệ rừng. 2.2. Những khó khăn Trong công tác bảo tồn đa dạng sinh học tại Vườn Quốc gia Bến En hiện tại còn một số khó khăn còn tồn tại như sau: - Vườn Quốc gia Bến En hiện nay có sự không ổn định ranh giới, tách nhập nhiều lần đã gây nhiều khó khăn cho công tác hoạch định. - Vấn đề nan giải số một của vườn hiện nay là bài toán về lãnh thổ. Vườn tiếp giáp với hai huyện Như Thanh và Như Xuân gồm 13 xã với 240 lối đi lớn nhỏ vào rừng. Số dân vùng lõi, vùng đệm thuộc đất vườn quản lý có 278 hộ với 1.296 nhân khẩu. Phần đông số hộ này còn nghèo và hầu hết là người dân tộc thiểu số, nhiều hộ đang được Nhà nước hỗ trợ tiền làm nhà, nhu cầu xây dựng cần nhiều gỗ nên rừng tiếp tục bị sức ép: "Làm sao đây để rừng an toàn ban ngày và "yên ngủ" ban đêm?". Sự phức tạp của quản lý khu vực này thể hiện là: Năm 2009, vườn đã lập biên bản xử lý 50 vụ vi phạm quản lý, bảo vệ rừng, trong đó 21 vụ có chủ, 29 vụ vô chủ. Số lâm sản bị tịch thu gồm 34.352m3 gỗ tròn, 2,125m3 gỗ xẻ cùng nhiều tang vật như xe máy, súng săn... Trong con số trên, có năm vụ lâm tặc chống trả người thi hành công vụ, hai vụ đặc biệt nghiêm trọng. Một vụ đối tượng đập phá tài sản Nhà nước, một vụ đánh cán bộ kiểm lâm trọng thương tại xã Xuân Phúc (huyện Như Thanh). Ngoài ra, tình trạng săn bắt động vật hoang dã, khai thác lâm sản ngoài gỗ như: hoàng đằng, lá khôi tím, dây quạnh, thạch xương bồ, thiên niên kiện... đang gây sự suy giảm đa dạng sinh học cho vườn. - Việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất, nhượng quyền sở hữu đất rừng còn nhiều khiếm khuyết. Tại huyện Như Thanh diện tích đất lâm nghiệp đã chuyển sang trồng dứa, cà phê nay dự án, doanh nghiệp đổ bể, vùng nguyên liệu dứa đầu tư bằng vốn vay ngân hàng phá đi đã khó, trồng lại rừng không phải dễ vì nợ cũ còn đó, tổ 14 chức tín dụng giữ chặt "giấy chứng nhận quyền sử dụng đất" để làm tin. Nhân dân nhiều địa phương trong tỉnh còn sử dụng đất lâm nghiệp để trồng mía nguyên liệu, trồng sắn cung ứng cho các nhà máy, cơ sở chế biến, gieo trồng các loài cây nông nghiệp trên đất dốc. Việc làm đó khiến cho một diện tích lớn đất rừng bị mất đi, kèm theo đó là diện tích rừng bị thu hẹp. - Chính sách hưởng lợi theo Quyết định 178/QĐ-TTg còn thấp, chưa tạo động lực phát triển vốn rừng và đủ sức hấp dẫn hộ nhận đất, nhận rừng yên tâm gắn bó với nghề rừng. Hằng năm, hộ tham gia quản lý bảo vệ rừng chỉ được hưởng 2% tổng sản lượng lâm sản theo chu kỳ khai thác. Sau khi trừ chi phí thiết kế, tổ chức khai thác, thuế tài nguyên và các chi phí khác, hộ tham gia bảo vệ, phát triển vốn rừng thực nhận 30.000 đồng/1m3 gỗ khai thác tận thu tận dụng. Điều đó khiến cho người dân không chú tâm vào việc bảo vệ rừng mà khai thác rừng để thu lợi nhiều hơn. - Tình trạng chặt phá rừng, "rút ruột" gỗ quý còn diễn ra, đặc biệt các đối tượng chặt phá rừng hoạt động có tính toán, có tổ chức và khá liều lĩnh. Mặc dù có hẳn một Ban Quản lý với 75 nhân viên, gồm 5 phòng ban chức năng để bảo vệ, quản lý phát triển rừng và hệ sinh thái nhưng những năm gần đây, đặc biệt là cuối năm 2007 đến nay, hệ sinh thái của Vườn bị xâm phạm nghiêm trọng, hàng trăm cây lim xanh và nhiều loại gỗ quý khác bị chặt phá, làm thiệt hại nghiêm trọng tài sản quốc gia, gây bức xúc trong dư luận nhân dân. 3. Những kiến nghị và đề xuất - Phải sớm ổn định quy hoạch về lãnh thổ của Vườn Quốc gia, tạo điều kiện cho công tác hoạch định công tác bảo tồn đa dạng sinh học ở Vườn Quốc gia được tổ chức tốt. - Nghiêm trị các hành vi chặt phá rừng làm ảnh hưởng đến đa dạng sinh học của Vườn, truyền truyền công tác bảo vệ rừng, bảo vệ Vườn cho mọi người dân sinh sống quanh khu vực Vườn Quốc gia... - Kiểm tra, rà soát công tác chuyển đổi mục đích sử dụng đất, nhượng quyền sở hữu đất rừng nhằm bảo vệ tốt nguồn đất rừng cũng như phục vụ cho công tác bảo vệ rừng, bảo vệ sự đa dạng sinh học của Vườn. - Nâng cao chính sách hưởng lợi theo Quyết định 178/QĐ-TTg, tạo động lực phát triển vốn rừng và hấp dẫn các hộ dân nhận đất, nhận rừng yên tâm gắn bó với nghề rừng, người dân chú tâm vào việc bảo vệ rừng nhiều hơn. - Ban Quản lý Vườn Quốc gia cần phải phối hợp chặt chẽ với lực lượng kiểm lâm, các cơ quan chức năng tập trung ngăn chặn tình trạng chặt phá rừng, "rút ruột" gỗ quý còn đang diễn ra. UBND Tỉnh Thanh Hóa cũng cần có các biện pháp mạnh dựa trên chế tàu pháp luật để trừng phạt, răn đe đối với các hành vi gây ảnh hưởng đến sự đa dạng sinh học của Vườn Quốc gia. 15 IV. KẾT LUẬN Vườn Quố c gia Bế n En có mức đô ̣ đa da ̣ng sinh ho ̣c vào loa ̣i trung bin ̀ h. Vườn quố c gia hiê ̣n đang bảo vê ̣ mô ̣t phầ n hê ̣ sinh thái vùng rừng thường xanh núi thấ p ở Bắ c Trung Bô ̣. Hê ̣ sinh thái rừng này đã bi ̣ tác đô ̣ng ma ̣nh trước đây do khai thác, nên rừng hiê ̣n ta ̣i là rừng thứ sinh, cây gỗ đường kính nhỏ và phầ n lớn là tre nứa. Tuy nhiên từ khi ngừng khai thác, chấ t lươ ̣ng rừng đã đang đươ ̣c phu ̣c hồ i. Khu hê ̣ đô ̣ng thực vâ ̣t Vườn Quốc gia Bế n En vẫn khá đa da ̣ng và phong phú. Ta ̣i Bế n En ghi nhâ ̣n số lươ ̣ng đáng kể các loài thực vâ ̣t đang bi ̣ đe do ̣a trên toàn cầ u, đáng chú ý nhấ t trong số này là loài Lim xanh Erythrophleum fordii. Mô ̣t số loài đô ̣ng vâ ̣t có giá tri ̣ bảo tồ n ở mức đô ̣ toàn cầ u đã đươ ̣c ghi nhâ ̣n ta ̣i Vườn Quốc gia như Vươ ̣n má trắ ng Hylobates leucogenys, Lửng chóc Chrotogale owstoni, Báo lửa Catopuma temminckii (Tordoff et al. 2000). Tuy nhiên, số lươ ̣ng cá thể của hầ u hế t các quầ n thể thú lớn ta ̣i Bế n En là rấ t thấ p, đây là hâ ̣u quả của tình tra ̣ng săn bắ n quá mức, mô ̣t số loài đã bi ̣khai thác ca ̣n kiê ̣t. Sự khai thác trái phép tài nguyên rừng của người dân ở đây và ở những nơi khác tới Vườn đang làm châ ̣m quá trin ̀ h tái sinh phu ̣c hồ i rừng. Tuy nhiên, trong những năm gầ n đây, tiǹ h tra ̣ng khai thác gỗ trái phép cũng như các tác đô ̣ng khác của con người vào Vườn Quốc gia đã giảm đáng kể . Vấn đề nan giải số một của vườn hiện nay là bài toán về lãnh thổ, vấn đề không ổn định về ranh giới. Ngoài ra, hiện tại Vườn Quốc gia Bến En còn phải đối mặt với tình trạng chặt phá rừng, nạn "rút ruột" gỗ quý. Do vậy cần thiết và cấp bách phải có các giải pháp cụ thể để bảo vệ đa dạng sinh học của Vườn. 16 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giới thiệu Vườn Quốc gia Bến En. Ban Quản lý Vườn Quốc gia Bến En - Thanh Hóa. 2. Thông tin đa dạng hệ thực vật Vườn Quốc gia Bến En, tỉnh Thanh Hóa. Trung tâm dữ liệu thực vật Việt Nam. 3. "For the sustainable management of protected areas in Vietnam, case study of Ben En National Park at Thanh Hoa province". Hanoi: Hanoi Science University and Ecosystem Conservation Society of Japan. In Vietnamese. Ha Dinh Duc ed. (2000). 4. Vườn Quốc gia Bến En đang bị tàn phá. Báo Tổ quốc điện tử. 5. Lim xanh Bến En và vấn đề bảo vệ, bảo tồn. Báo Thanh Hóa điện tử. 6. Đánh giá tính đa dạng hệ thực vật bậc cao có mạch trên núi đá vôi Vườn Quốc gia Bến En - Thanh Hóa. Đỗ Ngọc Đài, Lê Thị Hương, Phạm Hồng Ban. Đại học Vinh. 7. Đa dạng yếu tố địa lý hệ thực vật Vườn Quốc gia Bến En Nguyễn Anh Tài, Phan Trọng Đức. Trung tâm cơ sở dữ liệu thực vật Việt Nam. 17 DANH MỤC ẢNH Hoàng hôn trên hồ Bến En Vườn Quốc gia Bến En tạo điều kiện thuận lợi cho các loài chim về cư trù theo mùa 18 19 20 Vườn Quốc gia Bến En có một hệ động vật phát triển phong phú và đa dạng Tham quan du lịch bằng thuyền trên hồ Bến En 21 Đánh bắt tôm trên lòng hồ bằng hình thức đánh bắt cổ truyền vừa bảo vệ môi trường vừa đảm bảo sự phát triển cho các loài thủy sản trong lòng hồ Cuộc sống sinh hoạt thường nhật của cư dân sống ven hồ rất hòa đồng và gần gũi với thiên nhiên 22 Vườn Quốc gia Bến En là trung tâm phân bố của giống lim xanh đặc hữu nổi tiếng ở Việt Nam Du khách trong và ngoài nước rất thích thú khi tham quan Vườn Quốc gia Bến En 23
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan