Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Chuyên ngành kinh tế “đánh giá thực trạng tài chính và các giải pháp cải thiện tình hình tài chính cô...

Tài liệu “đánh giá thực trạng tài chính và các giải pháp cải thiện tình hình tài chính công ty cổ phần nhôm việt pháp

.PDF
120
99
91

Mô tả:

LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài: Trước những biến đổi sâu sắc của nền kinh tế toàn cầu hóa, khi mà mức độ cạnh tranh hàng hóa dịch vụ giữa các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường trong nước và quốc tế ngày càng khốc liệt đã buộc tất cả các doanh nghiệp không những phải vươn lên trong quá trình sản xuất kinh doanh mà còn phải biết phát huy tiềm lực tối đa để đạt được hiệu quả sản xuất kinh doanh cao nhất. Vì thế các nhà quản trị doanh nghiệp phải luôn nắm rõ được thực trạng sản xuất kinh doanh và thực trạng tài chính của doanh nghiệp mình, từ đó có những chiến lược, kế hoạch phù hợp nhằm cải thiện và nâng cao năng lực tài chính của mình. Muốn vậy, doanh nghiệp cần đi sâu phân tích hoạt động tài chính một cách chi tiết và hiệu quả nhằm đánh giá được thực trạng tài chính hiện tại cũng như định hướng tương lai cho sự phát triển của toàn doanh nghiệp. Tình hình tài chính tốt sẽ thúc đẩy quá trình kinh doanh phát triển, tình hình tài chính xấu sẽ là kìm hãm hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Điều này được thể hiện qua việc các quyết định tài chính doanh nghiệp có ảnh hưởng tới tất cả các khâu trong sản xuất kinh doanh từ huy động vốn ở đâu? Huy động vốn như thế nào? Đầu tư vào đâu? Tỷ trọng đầu tư tài sản ngắn hạn, dài hạn như thế nào?…Các quyết định phải có sự gắn kết và liên hệ với nhau tạo thành một thể thống nhất giúp cho doanh nghiệp vận hành trơn tru và hiệu quả. Trong bối cảnh nền kinh tế đang có nhiều biến động và suy thoái trầm trọng, thì công tác quản trị tài chính lại càng được quan tâm và tầm ảnh hưởng còn lớn hơn. Trong đó một vấn đề cơ bản đặt ra cho mọi doanh nghiệp ở thời điểm này là cần thiết phải đánh giá lại tình hình tài chính, từ đó định hướng được vị thế, khả năng kinh doanh, khả năng cạnh tranh, những điểm mạnh điểm yếu, nhưng lợi thế và bất lợi từ đó đề ra những giải pháp thay đổi, khắc phục và hoàn thiện khả năng tài chính của doanh nghiệp Phân tích tài chính không chỉ có ý nghĩa tới bản thân doanh nghiệp mà còn thu hút sự quan tâm của nhiều đối tượng như: cơ quan quản lý nhà nước, chủ nợ, chủ đầu tư v.v. Đối với doanh nghiệp, phân tích tài chính giúp đánh giá được thực trạng tài chính, từ đó tìm ra các giải pháp tài chính góp phần nâng cao hoạt động kinh doanh. Đối với các đối tượng còn lại, phân tích tài chính của doanh nghiệp cung cấp thông tin về tình hình tài chính của công ty phục vụ cho các cơ quan quản lý nhà nước, cũng như các quyết định của các nhà đầu tư. Xuất phát từ ý nghĩa của việc đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp, sau một thời gian thực tập tại Công ty Cổ phần Nhôm Việt Pháp, em đã mạnh dạn đi sâu vào nghiên cứu và hoàn thành bài luận văn cuối khóa với đề tài: “Đánh giá thực trạng tài chính và các giải pháp cải thiện tình hình tài chính công ty cổ phần Nhôm Việt Pháp”. 1. Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu: Đề tài đi sâu và tìm hiểu các vấn đề liên quan đến tình hình tài chính của doanh nghiệp như lý luận chung về tài chính doanh nghiệp, các chỉ tiêu đánh giá thực trạng tài chính của doanh nghiệp tại Công ty cổ phần Nhôm Việt Pháp 2. Mục đích nghiên cứu: - Làm rõ những vấn đề lý luận về tài chính doanh nghiệp và quản trị tài chính doanh nghiệp. - Trên cơ sở phân tích, làm rõ thực trạng tài chính của công ty hiện nay để đưa ra các giải pháp nhằm cải thiện tình hình tài chính công ty trong giai đoạn tới. 3. Phạm vi nghiên cứu Về không gian: Nghiên cứu thực trạng tài chính và giải pháp cải thiện tình hình tài chính Công ty cổ phần Nhôm Việt Pháp Về thời gian: Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng tài chính của công ty từ năm 2014 đến 2015, định hướng cho các năm tiếp theo. Nguồn số liệu: Số liệu sử dụng được lấy từ sổ sách kế toán, các Báo cáo tài chính của Công ty cổ phần Nhôm Việt Pháp trong hai năm 2014-2015. 4.Phương pháp nghiên cứu Phương pháp chủ yếu được sử dụng trong đề tài là phương pháp so sánh và tổng hợp số liệu thu thập được trong quá trình thực tập để thấy được mức độ ảnh hưởng và xu hướng biến động của các chỉ tiêu, từ đó đưa ra các nhận xét. Ngoài ra còn sử dụng một số phương pháp khác như: phương pháp thay thế liên hoàn, phân tích các tỷ số, phương pháp liên hệ, cân đối, sử dụng các bảng biểu để minh họa. 5.Kết cấu đề tài: Kết cấu luận văn gồm có 3 chương: Chương 1: Lý luận chung về đánh giá thực trạng tài chính của doanh nghiệp. Chương 2: Đánh giá thực trạng tài chính tại Công ty cổ phần Nhôm Việt Pháp Chương 3: Các giải pháp chủ yếu nhằm cải thiện tình hình tài của Công ty cổ phần Nhôm Việt Pháp Trong quá trình hoàn thành luận văn, em xin cám ơn sự giúp đỡ rất nhiệt tình của cô giáo ThS.Vũ Thị Hoa, các cô chú cán bộ làm công tác tài chính kế toán của Công ty cổ phần Nhôm Việt Pháp, các thầy cô trong khoa Tài chính doanh nghiệp đã giúp em rất nhiều trong công trình nghiên cứu này. Em rất mong nhận được sự góp ý cũng như sự giúp đỡ chỉ bảo của cô giáo cũng như các cô chú cán bộ của công ty để hoàn thiện bài luận văn của mình. Em xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, Ngày 15 tháng 4 năm 2016 CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG TÀI CHÍNH CỦA DOANH NGHIỆP 1.1. Tài chính doanh nghiệp và quản trị tài chính doanh nghiệp 1.1.1 Tài chính doanh nghiệp và các quyết định tài chính doanh nghiệp 1.1.1.1 Tài chính doanh nghiệp Khái niệm: Theo Luật Doanh nghiệp năm 2005: “Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh.” Doanh nghiệp là một tổ chức kinh tế thực hiện các hoạt động sản xuất, cung ứng hàng hóa cho người tiêu dùng qua thị trường nhằm mục đích sinh lời. Quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp cũng là quá trình kết hợp các yếu tố đầu vào như nhà xưởng, thiết bị, nguyên vật liệu… và sức lao động để tạo ra yếu tố làm đầu ra là hàng hóa và tiêu thụ hàng hóa để thu lợi nhuận. Trong nền kinh tế thị trường để có các yếu tố đầu vào đòi hỏi doanh nghiệp phải có một lượng vốn tiền tệ nhất định. Với từng loại hình pháp lý tổ chức, doanh nghiệp có phương thức thích hợp tạo lập số vốn tiền tệ ban đầu, từ số vốn tiền tệ đó doanh nghiệp mua sắm máy móc thiết bị, nguyên vật liệu… Sau khi sản xuất xong, doanh nghiệp bán sản phẩm và thu được tiền bán hàng. Với số tiền này, doanh nghiệp sẽ sử dụng để bù đắp các khoản chi phí và vật liệu đã tiêu hao, phần còn lại là lợi nhuận sau thuế, doanh nghiệp sẽ tiếp tục phân phối số lợi nhuận này. Như vậy quá trình hoạt động của doanh nghiệp cũng là quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ hợp thành hoạt động tài chính của doanh nghiệp. Trong quá trình đó làm phát sinh và tạo sự vẫn động của dòng tiền vào, dòng tiền ra gắn liền với hoạt động đầu tư và hoạt động kinh doanh thường xuyên hàng ngày của doanh nghiệp. Bên trong quá trình tạo lập, sử dụng quỹ tiền tệ của doanh nghiệp là các quan hệ kinh tế dưới hình thức giá trị hợp thành các quan hệ tài chính của doanh nghiệp và bao hàm các quan hệ tài chính chủ yếu sau: Thứ nhất , quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp và nhà nước: quan hệ này thể hiện chủ yếu ở chỗ doanh nghiệp thực hiện các nghĩa vụ tài chính với nhà nước như: nộp thuế, lệ phí vào ngân sách… Thứ hai, quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với các chủ thể kinh tế và các tổ chức xã hội khác. Thứ ba, quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với người lao động trong doanh nghiệp: doanh nghiệp thanh toán tiền lương, thực hiện thưởng phạt vật đối với người lao động trong quá trình tham gia vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp… Thứ tư, quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với các chủ sở hữu của doanh nghiệp: đầu tư, rút vốn hay góp vốn của chủ sở hữu với doanh nghiệp và trong việc phân chia lợi nhuận sau thế của doanh nghiệp. Thứ năm, quan hệ tài chính trong nội bộ doanh nghiệp: thanh toan giữa các bộ phận nội bộ doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh, trong việc hình thành và sử dụng các quỹ của doanh nghiệp Từ các vấn đề nêu trên có thể rút ra 1 số điểm sau: Xét về bản chất, tài chính doanh nghiệp là các quan hệ kinh tế dưới hình thức giá trị nảy sinh gắn liền với việc tạo lập, sử dụng các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Xét về hình thức, tài chính doanh nghiệp là các quỹ tiền tệ trong quá trình tạo lập, phân phối, sử dụng và vận động gắn liền với hoạt động của doanh nghiệp. Có kiến khác cho rằng: Tài chính doanh nghiệp là phương thức huy động, phân bổ và sử dụng các nguồn lực tài chính của doanh nghiệp nhằm đạt được những mục tiêu trong hoạt động kinh doanh. 1.1.1.2 Các quyết định tài chính của doanh nghiệp Tài chính doanh nghiệp thực chất quan tâm, nghiên cứu ba quyết định chủ yếu, đó là: Quyết định đầu tư: là quyết định liên quan đến tổng giá trị tài sản và giá trị từng bộ phận tài sản (tài sản cố định và tài sản lưu động). Quyết định đầu tư ảnh hưởng đến bên trái (phần Tài sản) của bảng cân đối kế toán. Các quyết định đầu tư chủ yếu của doanh nghiệp bao gồm: quyết định đầu tư tài sản lưu động, quyết định đầu tư tài sản cố định và quyết định quan hệ cơ cấu giữa đầu tư tài sản lưu động và đầu tư tài sản cố định. Quyết định đầu tư được xem là quyết định quan trọng nhất trong các quyết định của tài chính doanh nghiệp bởi nó tạo ra giá trị cho doanh nghiệp. Một quyết định đầu tư đúng đắn sẽ góp phần làm tăng giá trị của doanh nghiệp, qua đó làm tăng giá trị tài sản cho chủ sở hữu và ngược lại. Quyết định huy động vốn( quyết định nguồn vốn): Là những quyết định liên quan đến việc nên lựa chọn nguồn vốn nào để cung cấp cho các quyết định đầu tư. Quyết định nguồn vốn tác động đến bên phải bảng cân đối kế toán (phần Nguồn vốn). Các quyết định huy động vốn chủ yếu của doanh nghiệp gồm: quyết định huy động vốn ngắn hạn và quyết định huy động vốn dài hạn. Các quyết định huy động vốn là một thách thức không nhỏ đối với các nhà quản trị tài chính của doanh nghiệp. Quyết định phân chia lợi nhuận: Gắn liền với quyết định về phân chia cổ tức hay chính sách cổ tức của doanh nghiệp. Các nhà quản trị tài chính sẽ phải lựa chọn giữa việc sử dụng phần lợi nhuận sau thuế để chia cổ tức, hay là giữ lại để tái đầu tư. Những quyết định này liên quan tới việc doanh nhiệp nên theo đuổi chính sách cổ tức như thế nào và liệu chính sách cổ tức có tác động như thế nào tới giá trị doanh nghiệp hay giá cổ phiếu của công ty trên thị trường hay không. Căn cứ vào thời gian thực hiện có thể chia các quyết định tài chính của doanh nghiệp ra thành 2 nhóm là quyết định tài chính ngắn hạn và quyết định tài chính dài hạn. Quyết định tài chính dài hạn: Đây là những quyết định có tính chất chiến lược, có tầm ảnh hưởng lâu dài đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Mỗi quyết định này đòi hỏi nhà quản trị phải cân nhắc kỹ lưỡng, phân tích một cách bài bản và khoa học để đảm bảo hạn chế thấp nhất các rủi ro có thể xảy ra. Quyết định đầu tư dài hạn: là quyết định lựa chọn doanh nghiệp nên đầu tư vào những cơ hội, hay những dự án đầu tư nào trong điều kiện nguồn lực tài chính có giới hạn để tối đa hóa giá trị cho chủ sở hữu. Thông thường các cơ hội có nguy cơ rủi ro cao thường mang lại tỷ suất sinh lời cao và ngược lại. Giá trị doanh nghiệp là tổng giá trị hiện tại của dòng tiền trong tương lai được chiết khấu theo tỷ suất sinh lời đòi hỏi của nhà đầu tư. Nếu nhà quản trị lựa chọn cơ hội đầu tư có tỷ suất sinh lời cao để tối đa hóa dòng tiền cho chủ sở hữu, nhưng kéo theo đó tỷ suất sinh lời đòi hỏi cũng bị đẩy lên cao do rủi ro cao. Vì vậy, chưa chắc giá trị doanh nghiệp sẽ đạt được mục tiêu tối đa hóa. Quyết định huy động vốn dài hạn: là quyết định lựa chọn nên huy động vốn dài hạn từ những nguồn nào, với quy mô bao nhiêu để tối đa hóa giá trị cho chủ sở hữu. Xét về tổng thể, nguồn vốn của doanh nghiệp được chia thành 2 nguồn là nguồn vốn nợ (hay nợ phải trả) và nguồn vốn chủ sở hữu. Nhà quản trị tài chính phải đưa ra quyết định lựa chon nguồn vốn nào, đặc biệt phải quyết định quy mô của từng nguồn vốn tài trợ cho dự án đầu tư, cũng như những hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Quyết định về chính sách phân phối lợi nhuận của doanh nghiệp: là quyết định lựa chọn nên dành bao nhiêu lợi nhuận để chia cho chủ sở hữu, dành bao nhiêu lợi nhuận để tái đầu tư trơ lại doanh nghiệp nhằm tối đa hóa giá trị cho chủ sở hữu. Việc quyết định chia lợi nhuận hay giữ lại lợi nhuận để tái đầu tư không làm thay đổi số lợi nhuận doanh nghiệp đã tạo ra cho chủ sở hữu, nhưng nó lại tác động đến rủi ro và mức tăng trưởng thu nhập cho chủ sở hữu trong tương lai. Nếu doanh nghiệp chia hết lợi nhuận sau thuế cho chủ sở hữu thì chỉ sở hữu sẽ ăn chắc số lợi nhuận này, nhưng do chia hết lợi nhuận nên nguồn vốn tích lũy từ lợi nhuận là thấp, dẫn đến tốc độ tăng trưởng thu nhập cho chủ sở hữu trong tương lai sẽ không cao. Ngược lại, nếu như để lại toàn bộ lợi nhuận tái đầu tư thì tốc độ tăng trưởng thu nhập của chủ sở hữu sẽ tăng cao nhưng kéo theo đó là sự gia tăng về rủi ro đối với khoản lợi nhuận giữ lại ở doanh nghiệp, từ đó sẽ tác động tới giá trị của doanh nghiệp. Vì vậy, nhà quản trị tài chính phải quyết định lựa chọn phân chia bao nhiêu lợi nhuận cho chủ sở hữu, giữ lại bao nhiêu lợi nhuận để tái đầu tư là phù hợp và đạt được mục tiêu tối đa hóa giá trị doanh nghiệp, phù hợp với chiến lược phát triển và giai đoạn phát triển trong chu kỳ sống của doanh nghiệp. Quyết định tài chính ngắn hạn: Đây là những quyết định có tính chất tác nghiệp, ảnh hưởng không lớn tới sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Vì vậy người ta còn gọi đây là các quyết định tài chính chiến thuật. Tính hợp lý và đúng đắn của các quyết định này có ảnh hưởng nhất định đến rủi ro và lợi ích của doanh nghiệp, cũng như của chủ sở hữu doanh nghiệp. Quyết định dự trữ vốn bằng tiền: Khi doanh nghiệp dự trữ vốn bằng tiền sẽ đảm bảo cho hoạt động thanh toán, chi trả nhằm thực hiện nghĩa vụ tài chính của mình đối với chủ thể khác được thuận lợi, hạn chế rủi ro trong quá trình hoạt động. Tuy nhiên, việc dự trữ vốn bằng tiền sẽ làm tăng chi phí cơ hội của vốn và tăng nguy cơ rủi ro do tiền có thể bị mất giá do lạm phát, hay thay đổi tỷ giá… gây ra. Quyết định về nợ phải thu: Khi doanh nghiệp bán chịu sẽ làm tăng khả năng cạnh tranh dẫn đến làm tăng doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp. Tuy nhiên, bán chịu sẽ gia tăng nợ phải thu, dẫn đến ứ đọng vốn và doanh nghiệp có thể gặp rủi ro do không thu hồi được công nợ. Quyết định về chiết khấu thanh toán: Việc áp dụng chiết khấu thanh toán sẽ giúp doanh nghiệp nhanh thu hồi tiền bán hàng, giảm nhu cầu vốn dẫn đến giảm chi phí sử dụng vốn. Tuy vậy, do thực hiện chiết khấu cho khách hàng nên lợi nhuận bán hàng của doanh nghiệp có thể bị giảm sút. Quyết định về dự trữ vốn tồn kho: Việc duy trì tồn kho dự trữ sẽ giảm thiểu rủi ro gián đoạn hoạt động sản xuất kinh doanh, nhưng nó lại làm tăng chi phí cơ hội của vốn, tăng chi phí bảo quản, chi phí cất trữ… làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp. Các quyết định tài chính ngắn hạn khác: quyết định về khấu hao TSCĐ, quyết định về trích lập dự phòng, quyết định về việc thanh toán… cũng tạo ra mối quan hệ giữa lợi ích và rủi ro cho doanh nghiệp nói chung và cho chủ sở hữu doanh nghiệp nói riêng. Tóm lại, nhà quản trị tài chính phải đưa ra quyết định tài chính nhằm tối đa hóa giá trị doanh nghiệp. Với mỗi quyết định, nhà quản trị phải luôn luôn đối mặt với sự mâu thuẫn giữa rủi ro và sinh lời. Một quyết định tài chính khôn ngoan là quyết định có thể tối đa hóa được giá trị doanh nghiệp tức là phải đảm bảo tối thiểu hóa được rủi ro và tối đa hóa tỷ suất sinh lời cho chủ sở hữu. 1.1.2 Quản trị tài chính doanh nghiệp 1.1.2.1 Khái niệm, nội dung quản trị tài chính doanh nghiệp Khái niệm: Quản trị tài chính doanh nghiệp là việc lựa chọn, đưa ra quyết định và tổ chức thực hiện các quyết định tài chính nhằm đạt được các mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp. Do các quyết định tài chính doanh nghiệp đều gắn liền với việc tạo lập, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp. Vì vậy quản trị tài chính doanh nghiệp còn được nhìn nhận là quá trình hoạch định, tổ chức thực hiện, điều chỉnh và kiểm soát quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng các quỹ tiền tệ đáp ứng nhu cầu hoạt động của doanh nghiệp. Quản trị tài chính doanh nghiệp bao gồm các hoạt động của người quản lí( nhà quản trị) liên quan đến việc đầu tư, mua sắm, tài trợ và quản lí các tài sản của doanh nghiệp nhằm đạt được các mục tiêu đề ra. Quản trị tài chính doanh nghiệp liên quan đến ba loại quyết định chính: quyết định đầu tư, quyết định huy động vốn và quyết định phân phối lợi nhuận. Quản trị tài chính doanh nghiệp là một bộ phận , là nội dung quan trọng hàng đầu của các nhà quản trị doanh nghiệp, nó có quan hệ rất chặt chẽ và ảnh hưởng tới tất cả các hoạt động của doanh nghiệp. Nội dung: Quản trị tài chính doanh nghiệp bao hàm các nội dung chủ yếu: -Tham gia việc đánh giá và lựa chọn quyết định đầu tư. Triển vọng của một doanh nghiệp trong tương lai phụ thuộc rất lớn vào quyết định đầu tư dài hạn với quy mô lớn như quyết định đầu tư đổi mới công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, sản xuất sản phẩm mới… -Xác định nhu cầu vốn và tổ chức huy động vốn đáp ứng kịp thời, đủ nhu cầu vốn cho các hoạt động của doanh nghiệp. Nhà quản trị tài chính phải xác định nhu cầu vốn cần thiết cho các hoạt động của doanh nghiệp ở trong kỳ(bao gồm vốn dài hạn và vốn ngắn hạn); tiếp theo phải tổ chức huy động các nguồn vốn đáp ứng kịp thời, đầy đủ và có lợi cho các hoạt động của doanh nghiệp. -Sử dụng có hiệu quả số vốn hiện có, quản lý chặt chẽ các khoản thu, chivà đảm bảo khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Nhà quản trị phải tìm mọi biện pháp huy động tối đa số vốn hiện có của doanh nghiệp vào hoạt động kinh doanh, giải phóng kịp thời số vốn ứ đọng, theo dõi chặt chẽ và thực hiện tốt việc thanh toán, thu hồi tiền bán hàng và các khoản thu khác, đồng thời quản lý chặt chẽ mọi khoản chi phát sinh trong quá trình hoạt động; thường xuyên tìm biện pháp thiết lập sự cân bằng giữa thu và chi vỗn bằng tiền, đảm bảo cho doanh nghiệp luôn có khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn. -Thực hiện phân phối lợi nhuận, trích lập và sử dụng các quỹ doanh nghiệp. Thực hiện phân phối hợp lý lợi nhuận sau thuế, cũng như trích lập và sử dụng tốt các quỹ của doanh nghiệp sẽ góp phần quan trọng vào việc phát triển doanh nghiệp, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của người lao động, giải quyết hài hòa giữ lợi ích trước mắt của chủ sở hữu với lợi ích lâu dài – sự phát triển của doanh nghiệp. + -Kiểm soát thường xuyên tình hình hoạt động của doanh nghiệp. Thông qua tình hình thu, chi tiền tệ hàng ngày, các báo cáo tài chính, tình hình thực hiện các chỉ tiêu tài chính cho phép kiểm soát được tình hình hoạt động của doanh nghiệp. Mặt khác, thông qua việc định kỳ tiến hành phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp để đánh giá được hiệu quả sử dụng vốn, những điểm mạnh, điểm yếu trong quá trình quản lý, dự báo trước được tình hình tài chính của doanh nghiệp, từ đó giúp các nhà lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp kịp thời đưa ra các quyết định thích hợp để điều chỉnh hoạt động kinh doanh và tài chính của doanh nghiệp trong thời kỳ tới. -Thực hiện kế hoạch hóa tài chính. Các hoạt động tài chính của doanh nghiệp cần được dự kiến trước thông qua việc lập kế hoạch tài chính, có kế hoạch tài chính tốt thì doanh nghiệp mới có thể đưa ra các quyết định tài chính thích hợp nhằm đạt tới các mục tiêu của doanh nghiệp. Quá trình thực hiện kế hoạch tài chính cũng là quá trình chủ động đưa ra các giải pháp hữu hiệu khi thị trường có sự biến động. 1.1.2.2 Các nhân tố ảnh hưởng tới quản trị tài chính doanh nghiệp -Hình thức pháp lý tổ chức doanh nghiệp Ở Việt Nam, theo Luật Doanh nghiệp 2005, có 4 hình thức pháp lý cơ bản của doanh nghiệp bao gồm: doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp danh, công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần. Hình thức pháp lý tổ chức doanh nghiệp ảnh hưởng rất lớn đến việc tổ chức tài chính doanh nghiệp như: Phương thức hình thành và huy động vốn, việc tổ chức quản lý sử dụng vốn, việc chuyển nhượng vốn, phân phối lợi nhuận và trách nhiệm của chủ sở hữu đối với khoản nợ của doanh nghiệp…. -Đặc điểm kinh tế - kỹ thuật của ngành kinh doanh Mỗi ngành kinh doanh có những đặc điểm kinh tế - kỹ thuật riêng có ảnh hưởng không nhỏ tới việc tổ chức tài chính của doanh nghiệp. Những doanh nghiệp hoạt động trong ngành thương mại, dịch vụ thì vốn lưu động chiếm tỷ trọng cao hơn, tốc độ chu chuyển của vốn lưu động cũng nhanh hơn so với các ngành nông nghiệp, công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp nặng. Ở các ngành này, vốn cố định thường chiếm tỷ lệ cao hơn vốn lưu động, thời gian thu hồi vốn cũng chậm hơn. Những doanh nghiệp sản xuất ra những loại sản phẩm có chu kỳ sản xuất ngắn thì nhu cầu vốn lưu động giữa các thời kỳ trong năm thường không có biến động lớn, doanh nghiệp thường xuyên thu được tiền bán hàng, nhờ đó có thể dễ dàng đảm bảo cân đối giữa thu và chi bằng tiền, cũng như đảm bảo nguồn vốn cho nhu cầu sản xuất kinh doanh và ngược lại. Những doanh nghiệp hoạt động trong những ngành sản xuất có tính thời vụ thì nhu cầu về vốn lưu động giữa các thời kỳ trong năm chênh lệch nhau rất lớn, giữa thu và chi bằng tiền thường có sự không ăn khớp với nhau về thời gian. Đó là điều phải tính đến trong việc tổ chứa tài chính, nhằm đảm bảo vốn kịp thời, đầy đủ cho hoạt động của doanh nghiệp cũng như đảm bảo cân đối thu chi bằng tiền. -Môi trường kinh doanh Mỗi doanh nghiệp đều tồn tại và phát triển trong môi trường kinh doanh nhất định. Môi trường kinh doanh bao gồm các điều kiện bên trong và bên ngoài ảnh hưởng tới hoạt động của doanh nghiệp: Môi trường kinh tế- tài chính, môi trường chính trị, môi trường luật pháp, môi trường công nghệ, môi trường văn hóa-xã hội. Cơ sở hạ tầng của nền kinh tế: Cơ sở hạ tâng phát triển thì sẽ giảm bớt được nhu cầu vốn đầu tư của doanh nghiệp, đồng thời tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiết kiệm được chi phí trong kinh doanh. Tình trạng của nền kinh tế: Một nền kinh tế đang trong quá trình tăng trưởng thì có nhiều cơ hội cho doanh nghiệp đầu tư phát triển , từ đó đòi hỏi doanh nghiệp phải tích cự áp dụng các biện pháp trong huy động vốn để đáp ứng yêu cầu đầu tư và ngược lại. Lãi suất thị trường: Lãi suất thị trường ảnh hưởng tới cơ hội đầu tư, chi phí sử dụng vốn và cơ hội huy động vốn của doanh nghiệp, ảnh hưởng gián tiếp đến tình hình sản xuất kinh doanh. Lạm phát: Khi lạm phát ở mức độ cao thì việc tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn khiến cho tình trạng tài chính của doanh nghiệp căng thẳng. Lạm phát cũng làm nhu cầu vốn tăng lên và tình hình tài chính doanh nghiệp không ổn định. Chính sách kinh tế và tài chính của Nhà nước đối với doanh nghiệp: Như các chính sách khuyến khích đầu tư, chính sách thuế, chính sách xuất khẩu, nhập khẩu, chế độ khấu hao tài sản cố định… Mức độ cạnh tranh: Nếu doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực có mức độ cạnh tranh cao đòi hỏi doanh nghiệp phải đầu tư nhiều hơn cho việc đổi mới trang thiết bị, công nghệ và nâng cao chất lượng sản phẩm, cho quảng cáo, tiếp thị và tiêu thụ sản phẩm… Thị trường tài chính và hệ thống các trung gian tài chính: Thị trường tài chính là nơi doanh nghiệp có thể huy động gia tăng vốn, đầu tư các khoan tài chính tạm thời nhàn rỗi để tăng thêm sức sinh lời của vốn hoặc có thể dễ dàng thực hiện đầu tư dài hạn gián tiếp. Sự phát triển của thị trường tài chính làm đa dạng hóa các công cụ và các cách thực huy động vốn cho doanh nghiệp. 1.1.2.3 Vai trò của quản trị tài chính doanh nghiệp Vai trò quản trị tài chính doanh nghiệp đối với hoạt động của doanh nghiệp được thể hiện qua các mặt chủ yếu sau: + Huy động vốn đảm bảo cho các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra bình thường và liên tục. Vốn tiền tệ là tiền để cho cá hoạt động của doanh nghiệp. Trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp thường nảy sinh các nhu cầu vốn ngắn hạn và dài hạn cho hoạt động kinh doanh thường xuyên, đầu tư phát triển của doanh nghiệp. Việc huy động vốn nếu không kịp thời để đáp ứng các nhu cầu vốn ngắn hạn và dài hạn cho hoạt động kinh doanh thường xuyên thì sẽ khiến cho các hoạt động của doanh nghiệp gặp khó khăn hoặc không triển khai được do. Vì vậy việc đảm bảo cho các hoạt động của doanh nghiệp được tiến hành bình thường, liên tục phụ thuộc rất lớn vào việc tổ chức huy động vốn của tài chính doanh nghiệp. + Tổ chức sử dụng vốn tiết kiệm, hiệu quả góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp Việc lựa chọn các dự án đầu tư tối ưu trên cơ sở cân nhắc, so sánh giữa tỷ suất sinh lời, chi phí huy động vốn và mực độ rủi ro của dự án đầu tư… nhà quản trị tài chính đã tạo tiền đề cho việc sử dụng vốn tiết kiệm và đạt hiệu quả cao. Việc tổ chức huy động vốn kịp thời, đầy đủ sẽ giúp doanh nghiệp chớp được cơ hội kinh doanh, tăng doanh thu và lợi nhuận cho doanh nghiệp. Việc lựa chọn các hình thức và phương thức huy động vốn thích hợp, đảm bảo cơ cấu vốn tối ưu giúp doanh nghiệp giảm bớt chi phí sử dụng vốn Mặt khác, việc huy động tối đa số vốn hiện có vào hoạt động kinh doanh có thể giúp doanh nghiệp tránh được ứ đọng vốn, tăng vòng quay tài sản, giảm được số vốn vay từ đó làm tăng doanh thu, tăng lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp. + Kiểm tra, giám sát một cách toàn diện các mặt hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng là quá trình vận động, chuyển hóa hình thái vốn tiền tệ. Thông qua việc xem xét tình hình thu, chi tiền tệ hàng ngày và nhất là thông qua việc phân tích đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp và việc thực hiện các chỉ tiêu tài chính, các nhà quản trị có thể kiểm soát kịp thời và toàn diện các mặt hoạt động của doanh nghiệp, từ đó chỉ ra những tồn tại và những tiềm năng chưa được khai thác để đưa ra quyết định thích hợp, điều chỉnh các hoạt động. 1.2 Đánh giá thực trạng tài chính của doanh nghiệp 1.2.1. Khái niệm, mục tiêu đánh giá thực trạng tài chính doanh nghiệp 1.2.1.1 Khái niệm đánh giá thực trạng tài chính doanh nghiệp Thuật ngữ “đánh giá” (evaluation) là đưa ra nhận định tổng hợp về các dữ kiện đo lường được qua các kỳ kiểm tra của một hay một nhóm đối tượng nghiên cứu và kết thúc bằng cách đối chiếu, so sánh với những tiêu chuẩn đã được xác định rõ ràng trước đó trong các mục tiêu. Đánh giá là một hoạt động nhằm nhận định, xác nhận giá trị thực trạng về: mức độ hoàn thành nhiệm vụ, chất lượng, hiệu quả công việc, trình độ, sự phát triển ở thời điểm hiện tại đang xét so với mục tiêu hay những chuẩn mực đã được xác lập. Mục đích của việc đánh giá là để xác định tính phù hợp và mức độ hoàn thành các mục tiêu, tính hiệu quả, tác động và tính bề vững. Quá trình đánh giá cần cung cấp thông tin đáng tin cậy và hữu ích, quá trình lồng ghép những bài học kinh nghiệm vào quá trình ra quyết định của các nhà quản lý. Đánh giá thực trạng tài chính là việc đưa ra ý kiến chủ quan một cách chân thực bằng cách xem xét, kiểm tra, đối chiếu và so sánh các số liệu tài chính thông qua báo cáo tài chính trên các khía cạnh khác nhau như cơ cấu nguồn vốn, tài sản, khả năng thanh toán, hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh, khả năng sinh lời, rủi ro tài chính… giữa các kỳ sản xuất kinh doanh và giữa các chỉ số tài chính của doanh nghiệp với chỉ số trung bình của ngành. Thông qua việc sử dụng các báo cáo tài chính, đánh giá thực trạng tài chính đã vạch ra được những mặt đã làm được và những mặt chưa làm được, phân tích được năng lực và vị thế tài chính của doanh nghiệp và dự đoán những gì sẽ xảy ra đồng thời tìm nguyên nhân, mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp để từ đó đề ra các biện pháp tận dụng những điểm mạnh và khắc phục những điểm yếu trong quá trình quản trị tài chính của doanh nghiệp. Tóm lại: Đánh giá thực trạng tài chính doanh nghiệp là tổng thể các phương pháp được sử dụng để đánh giá tình hình tài chính đã qua và hiện nay, giúp cho nhà quản lý đưa ra được quyết định quản lý chuẩn xác và đánh giá được doanh nghiệp, từ đó giúp những đối tượng quan tâm đi tới những dự đoán chính xác về mặt tài chính của doanh nghiệp, qua đó có các quyết định phù hợp với lợi ích của chính họ. 1.2.1.2 Mục tiêu đánh giá thực trạng tài chính doanh nghiệp Với vai trò cơ bản của công tác đánh giá thực trạng tài chính doanh nghiệp là giúp cho các nhà quản trị và các đối tượng quan tâm đến hoạt động doanh nghiệp có được các quyết định đúng đắn trong kinh doanh, việc đánh giá thực trạng tài chính doanh nghiệp cần đạt được các mục tiêu sau: Thứ nhất, đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp trên các khía cạnh khác nhau như tình hình huy động vốn, tình hình đầu tư và sử dụng vốn, tình hình công nợ và khả năng thanh toán, hiệu suất sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp… nhằm đáp ứng thông tin cho tất cả các đối tượng quan tâm đến hoạt động của doanh nghiệp. Thứ hai, định hướng các quyết định của các đối tượng quan tâm theo chiều hướng phù hợp với tình hình thực tế của doanh nghiệp như quyết định tài trợ, quyết định đầu tư… Thứ ba, trở thành cơ sở cho các dự báo tài chính, giúp nhà quản trị dự đoán được tiềm năng tài chính của doanh nghiệp trong tương lai. Thứ tư, là công cụ để kiểm soát hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trên cơ sở kiểm tra, đánh giá các chỉ tiêu kết quả đạt được so với các chỉ tiêu kế hoạch, dự toán, định mức… Từ đó xác định được điểm mạnh, điểm yếu trong hoạt động kinh doanh, giúp doanh nghiệp có được những quyết định và giải pháp đúng đắn, đảm bảo kinh doanh đạt hiệu quả cao. Có rất nhiều đối tượng quan tâm và sử dụng thông tin kinh tế tài chính của doanh nghiệp và mỗi đối tượng lại quan tâm theo mỗi giác độ khác nhau. Do đó đối với mỗi đối tượng thì đánh giá thực trạng tài chính doanh nghiêp cũng nhằm các mục tiêu khác nhau. Cụ thể: Đối với bản thân doanh nghiệp: + Đánh giá hiệu quả của hoạt động quản lí trong giai đoạn đã qua, việc thực hiện các nguyên tắc cân bằng tài chính, khả năng sinh lời, khả năng thanh toán và dự báo các nguy cơ rủi ro, đặc biệt là các đâu hiệu rủi ro tài chính trong doanh nghiệp… từ đó có những biện pháp điều chỉnh kịp thời, có cơ sở cấn thiết để hoạch định chính sách tương lai của doanh nghiệp. + Hướng các quyết định của ban giám đốc theo chiều hướng phù hợp với tình hình thực tế của doanh nghiệp như quyết định đầu tư, tài trợ, phân phối lợi nhuận… + Cơ sở cho những dự đoán tài chính. + Công cụ để kiểm tra, kiểm soát hoạt động, quản lý trong doanh nghiệp. -Đối với các nhà đầu tư:để đánh giá doanh nghiệp và ước đoán giá trị cổ phiếu, dựa vào việc nghiên cứu các báo biểu tài chính, khả năng sinh lời, phân tích rủi ro trong kinh doanh… -Đối với người cho vay:xác định khả năng hoàn trả nợ của khách hàng. -Đối với người hưởng lương trong doanh nghiệp:định hướng việc làm ổn định của mình, trên cơ sở đó yên tâm dốc sức vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tùy theo công việc được phân công, đảm nhiệm. Do đó, đánh giá thực trạng tài chính doanh nghiệp là công cụ hữu ích được dùng để xác định giá trị kinh tế, đánh giá các mặt mạnh, mặt yếu của doanh nghiệp, tìm ra nguyên nhân khách quan và chủ quan, giúp từng đối tượng lựa chọn và đưa ra những quyết định phù hợp với mục đích mà họ quan tâm. 1.2.2 Nội dung đánh giá thực trạng tài chính của doanh nghiệp 1.2.2.1 Tình hình huy động vốn của doanh nghiệp • Đánh giá tình hình nguồn vốn của doanh nghiệp Để huy động vốn cho sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp có thể sử dụng nhiều nguồn khác nhau.Về cơ bản, chúng được chia thành nguồn vốn chủ sở hữu và các nguồn vốn vay. Tài sản Nợ phải trả Vốn chủ sở hữu Vốn chủ sở hữu là phần vốn thuộc quyền sở hữu của chủ doanh nghiệp, bao gồm số vốn chủ sở hữu bỏ ra và phần vốn bổ sung từ kết quả kinh doanh. Vồn chủ sở hữu tại một thời điểm có thể được xác định bằng công thức: Vốn chủ sở hữu = Giá trị tổng tài sản – Nợ phải trả Nợ phải trả là thể hiện bằng tiền những nghĩa vụ mà doanh nghiệp có trách nhiệm phải thanh toán cho các tác nhân kinh tế khác nhau: Nợ vay, các khoản phải trả người bán, cho Nhà nước, cho người lao động trong doanh nghiệp… Mục tiêu: Đánh giá thực trạng tài chính của doanh nghiệp để thấy được doanh nghiệp đã huy động vốn từ những nguồn nào? Quy mô nguồn vốn huy động được đã tăng hay giảm? Cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp tự chủ hay phụ thuộc, thay đổi theo chiều hướng nào? Xác định các trọng điểm cần chú ý trong chính sách huy động vốn của doanh nghiệp cần đạt được các mục tiêu chủ yếu trong chính sách huy động vốn. Chỉ tiêu đánh giá: Hai nhóm chỉ tiêu cần sử dụng để đánh giá tình hình huy động vốn của doanh nghiệp bao gồm: + Các chỉ tiêu phản ánh quy mô nguồn vốn gồm giá trị tổng nguồn vốn và từng loại nguồn vốn trong bảng cân đối kế toán( B01-DN). + Các chỉ tiêu phản ánh cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp xác định theo công thức: Tỷ trọng từng loại nguồn vốn = Giá trị của từng loại, từng chỉ tiêu nguồn vốn Tổng giá trị nguồn vốn x 100% Mà cụ thể ở đây là: - Hệ số nợ: Phản ánh nợ phải trả chiếm bao nhiêu phần trăm trong nguồn vốn của doanh nghiệp hay trong tài sản của doanh nghiệp có bao nhiêu phần trăm được hình thành bằng nguồn nợ phải trả. Hệ số nợ = Tổng số nợ Tổng nguồn vốn Tổng số nợ của doanh nghiệp bao gồm toàn bộ số nợ ngắn hạn và dài hạn. Tổng nguồn vốn bao gồm các nguồn vốn mà doanh nghiệp sử dụng. Thông thường các chủ nợ thích tỷ lệ vay nợ vừa phải vì tỷ lệ này càng thấp thì khoản nợ được đảm bảo trong trường hợp doanh nghiệp bị phá sản. Trong khi đó, các chủ sở hữu lại ưa thích tỷ lệ nợ cao vì họ nắm trong tay một lượng tài sản lớn mà chỉ đầu tư một lượng vốn nhỏ và các nhà tài chính sử dụng nó như một chính sách tài chính để gia tăng lợi nhuận. Tuy nhiên nếu hệ số nợ quá cao, doanh nghiệp sẽ dễ rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán. - Hệ số vốn chủ sở hữu: Phản ánh vốn chủ sở hữu chiếm bao nhiêu phần trăm trong tổng nguồn vốn của doanh nghiệp Hệ số vốn chủ sở hữu = Vốn chủ sở hữu Tổng nguồn vốn Hệ số vốn chủ sở hữu lại đo lường sự góp vốn của chủ sở hữu trong tổng nguồn vốn hiện nay của doanh nghiệp. Hệ số vốn chủ sở hữu càng lớn, chứng tỏ doanh nghiệp càng độc lập tự chủ về mặt tài chính. Tuy nhiên, hệ số vốn chủ sở hữu ở mức quá cao mà không mạnh dạn đi vay vốn sẽ không tận dụng
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan