TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA SƯ PHẠM
BỘ MÔN NGỮ VĂN
NGUYỄN HOÀI THANH
DẤU ẤN VĂN HÓA NHẬT BẢN
TRONG TÁC PHẨM SHOGUN – TƯỚNG QUÂN
CỦA JAMES CLAVELL
Luận văn tốt nghiệp đại học
Ngành Sư phạm Ngữ Văn
Cán bộ hướng dẫn:
NGUYỄN THỊ HỒNG HẠNH
Cần Thơ, 4 - 2011
ĐỀ CƯƠNG TỔNG QUÁT
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Lịch sử vấn đề
3. Mục đích nghiên cứu
4. Phạm vi nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG MỘT: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1. Vài nét về tác giả, tác phẩm
1.1. Tác giả James Clavell
1.1.1. Cuộc đời
1.1.2. Sự nghiệp
1.2. Tác phẩm Shogun – Tướng quân
1.2.1.Vài nét về tác phẩm
1.2.2.Tóm tắt tác phẩm
2. Văn hóa và dấu ấn văn hóa:
2.1. Văn hóa
2.1.1. Định nghĩa văn hóa
2.1.2. Phân loại văn hóa
2.1.3. Các thành tố cấu thành nền văn hóa của một dân tộc
2.2. Dấu ấn văn hóa
3. Văn học và văn hóa
3.1. Mối quan hệ giữa văn học và văn hóa
3.2. Giá trị văn hóa của một tác phẩm văn học
3.3. Phương diện thể hiện của yếu tố văn hóa trong tác phẩm văn học
CHƯƠNG HAI: DẤU ẤN VĂN HÓA NHẬT BẢN TRONG TÁC PHẨM
SHOGUN – TƯỚNG QUÂN CỦA JAMES CLAVELL
1. Thời gian, không gian văn hóa
1.1. Thời gian văn hóa
1.2. Không gian văn hóa
2. Tri thức văn hóa
3. Tư tưởng
3.1. Tư tưởng triết học
3.2. Tư tưởng chính trị - xã hội
4. Tín ngưỡng, tôn giáo
5. Pháp luật
5.1. Bộ máy tổ chức
5.2. Các luật lệ
6. Ngôn ngữ
7. Truyền thống, đạo đức
7.1. Các đức tính truyền thống
7.2. Các loại hình nghệ thuật truyền thống
8. Lối sống
8.1. Về vấn đề ăn, ở, sinh hoạt
8.2. Về các phong tục, tập quán
CHƯƠNG BA: NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN CỦA DẤU ẤN VĂN HÓA NHẬT
BẢN TRONG TÁC PHẨM SHOGUN – TƯỚNG QUÂN CỦA JAMES
CLAVELL
1. Kết cấu
1.1. Kết cấu hình tượng
1.1.1. Hệ thống nhân vật
1.1.2. Hệ thống sự kiện
1.2. Kết cấu trần thuật
2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật
2.1. Xây dựng nhân vật qua miêu tả ngoại hình
2.2. Xây dựng nhân vật qua miêu tả nội tâm
2.3. Xây dựng nhân vật qua lời nói
2.4. Xây dựng nhân vật qua hành động
2.5. Xây dựng nhân vật qua cảm nhận của nhân vật khác
3. Nghệ thuật xây dựng thời gian, không gian văn hóa
3.1. Nghệ thuật xây dựng thời gian văn hóa
3.2. Nghệ thuật xây dựng không gian văn hóa
4. Ngôn ngữ
PHẦN KẾT LUẬN
PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Nhật Bản là một quốc gia châu Á. Nhắc đến Nhật Bản người ta thường nghĩ
ngay đến xứ sở của hoa anh đào hay đất nước mặt trời mọc. Tuy nhiên, Nhật Bản
còn nổi tiếng bởi những nét văn hoá độc đáo, mang đậm tính cách và tâm lý của con
người Nhật Bản. Văn hoá Nhật Bản có một sức hút rất lớn không chỉ đối với các
nhà nghiên cứu mà còn đối với những khách tham quan, du lịch. Sự kì lạ xen lẫn
với những bất ngờ, thú vị luôn làm cho những ai lần đầu tiếp xúc với nền văn hoá
này đều bị lôi cuốn. Sự phong phú về loại hình, sự đa dạng về hình thức thể hiện đã
giúp cho văn hoá Nhật Bản trở thành nguồn đề tài bất tận cho các công trình nghiên
cứu, tham luận. Văn học, gương mặt của văn hoá dân tộc, vì vậy cũng không thể
đứng ngoài luồng tác động của văn hóa. Văn học Nhật Bản đã sớm trở thành một
phương tiện lưu trữ và truyền tải văn hoá Nhật Bản không chỉ trong phạm vi lãnh
thổ mà còn tiến xa ra bên ngoài thế giới. Đọc các tác phẩm văn học Nhật Bản,
chúng ta luôn thấy ở đó một cái riêng, một cái độc đáo mang “dấu ấn Nhật Bản” in
hình trên từng nhân vật, từng hình ảnh, câu chữ.
Tuy nhiên, điều đặc biệt của đề tài “Dấu ấn văn hóa Nhật Bản trong tác
phẩm Shogun – Tướng quân của nhà văn James Clavell” không chỉ xuất phát từ vấn
đề khảo cứu mà còn từ tác phẩm khảo cứu: Shogun - Tướng quân, một tác phẩm in
đậm dấu ấn Nhật Bản nhưng tác giả của nó lại là một nhà văn người Anh, nhà văn
James Clavell. Xét về góc độ lý luận văn học, đây là một vấn đề khá thú vị. Bởi lẽ
trong mối quan hệ biện chứng giữa văn hoá và văn học thì văn học là phương diện
phản ánh của văn hoá dân tộc, điều đó cũng có nghĩa văn hoá mà nhà văn thể hiện
trong tác phẩm của mình luôn bị chi phối bởi văn hoá dân tộc mình. Nói cách khác
yếu tố văn hoá trong tác phẩm luôn mang đậm nét văn hoá của dân tộc mà người
sáng tác thuộc về. Vậy văn hoá Nhật Bản thể hiện trong tác phẩm của một nhà văn
người Anh có thật sự chính xác và độc đáo? Đó là chưa kể đến việc James Clavell
viết tác phẩm này năm 1975, sau khi nhà văn tham gia thế chiến II và đã từng bị bắt
tại Nhật (1940) trong khi tác phẩm lại thể hiện bối cảnh của chế độ phong kiến Nhật
Bản những năm 1600. Đây cũng là một trong những lý do chúng tôi chọn đề tài này,
từ văn hoá Nhật Bản đến tác phẩm Shogun – Tướng quân, tất cả đều tạo chúng tôi
một sự lôi cuốn kì lạ.
Shogun – Tướng quân là tác phẩm có rất nhiều vấn đề để khảo sát như nghệ
thuật xây dựng nhân vật, nghệ thuật miêu tả tâm lý, yếu tố lịch sử, tính hiện thực,
tinh thần Nhật Bản,…nhưng dấu ấn văn hoá là yếu tố nổi bật nhất và gần như là bao
trùm tất cả. Đọc tác phẩm, chúng ta không chỉ có thêm những kiến thức về văn hoá
Nhật Bản mà qua đó còn cho chúng ta một sự nhận thức mới về con người và tinh
thần Nhật Bản cũng như ảnh hưởng to lớn của nó đối với tất cả các lĩnh vực, đối
tượng. Thông qua việc xây dựng, sắp xếp các tuyến nhân vật và nghệ thuật miêu tả
không gian, thời gian, James Clavell đã làm cho văn hoá Nhật Bản sinh động hơn
bao giờ hết. Với hơn 1500 trang sách khổ 14,3 x 20,3cm, nhà văn đã truyền tải một
lượng thông tin phong phú, đa dạng về hầu hết những gì làm bật nổi lên hình ảnh
con người và tinh thần Nhật Bản. Dấu ấn văn hoá Nhật Bản trong tác phẩm vì vậy
có những điểm rất hay, rất độc đáo để chúng ta tìm tòi, nghiên cứu.
Từ những lý do trên, chúng tôi hoàn toàn tin tưởng rằng đây sẽ là một đề tài
hấp dẫn, mới lạ, hứa hẹn mang đến cho người đọc những hiểu biết mới về con
người và đất nước Nhật Bản.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Mối quan hệ giữa văn học và văn hóa là một vấn đề không mới. Đã có rất
nhiều công trình nghiên cứu, bài viết, tham luận về vấn đề này như: Giải mã văn
hóa trong tác phẩm văn học của Trần Lê Bảo, Quan hệ văn học và văn hóa từ cái
nhìn truyền thống của Đỗ Lai Thúy, Văn học và văn hóa truyền thống của Huỳnh
Như Phương, Mối quan hệ giữa nghiên cứu văn học và văn hóa học của Nguyễn
Văn Hiệu… Tuy nhiên vấn đề mà các tác giả này chỉ ra chỉ là mối quan hệ biện
chứng giữa văn học và văn hóa trên cơ sở hệ thống lý thuyết và phương pháp luận.
Mối quan hệ giữa văn học và văn hóa là một vấn đề, biểu hiện của yếu tố văn
hóa trong văn học lại là một vấn đề khác. Xét trong một tác phẩm cụ thể, với từng
tác giả cụ thể thì khía cạnh, mức độ đánh giá cũng khác nhau. Chẳng hạn trong bài
nghiên cứu Bài thơ Vận nước và những giá trị văn hoá Việt của Đoàn Thị Thu Vân,
Khoa Ngữ văn - Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh, tác giả đi từ việc phân tích
hình ảnh, từ ngữ sử dụng trong tác phẩm từ đó khái quát lên những triết lý sống
mang giá trị văn hoá đặc thù của dân tộc Việt. Còn trong bài Cội nguồn văn hoá dân
tộc trong truyện ngắn Cao Duy Sơn của Đào Thủy Nguyên, trường Đại học Thái
Nguyên, tác giả tập trung làm rõ sự ảnh hưởng của đời sống bên ngoài vào bên
trong tác phẩm, từ đó làm bật nổi những biểu hiện của văn hóa dân tộc thông qua
việc khảo sát một vài tác phẩm tiêu biểu của nhà văn. Như vậy khi nghiên cứu vấn
đề này rõ ràng mỗi người viết đã tự tìm cho mình một cách khám phá riêng để tiếp
cận vấn đề một cách tốt nhất theo suy nghĩ của mình, chứ vẫn chưa đề ra một mô
hình chung.
Với đề tài “Dấu ấn văn hóa Nhật Bản trong tác phẩm Shogun – Tướng quân
của nhà văn James Clavell”, chúng tôi có thể khẳng định đây là một đề tài hoàn
toàn mới, lạ. Ngay từ tên vấn đề khảo sát là “dấu ấn văn hóa” đã là một khái niệm
khá mới trong nghiên cứu văn học. Xưa nay, khi khảo sát vấn đề văn hóa trong tác
phẩm văn học, các nhà nghiên cứu chỉ dùng khái niệm là “yếu tố văn hóa” hoặc là
“giá trị văn hóa”, còn “dấu ấn văn hóa” thì chưa thấy phổ biến. Thêm vào đó,
Shogun – Tướng quân lại là một tác phẩm văn học khá “mới” đối với độc giả Việt
Nam dù tác phẩm này đã được dịch và xuất bản vài lần, cốt truyện cũng đã được
chuyển thể thành phim, nhưng có lẽ đây là tác phẩm của một tác giả lạ và dung
lượng tác phẩm cũng khá lớn nên rất ít người biết và tìm đọc. Vì vậy, ở nước ta hầu
như chưa có bài nghiên cứu nào về tác phẩm này. Về “Văn hóa Nhật Bản” thì đây
là một vấn đề đã được rất nhiều các nhà nghiên cứu văn học, nhất là các nhà nghiên
cứu văn hóa học đề cập trên nhiều phương diện và khía cạnh khác nhau. Chẳng hạn
như có tác giả đi sâu vào nghiên cứu văn hóa giao tiếp Nhật Bản, có tác giả nghiên
cứu về tôn giáo, có người lại nghiên cứu về các biểu tượng văn hóa, các đức tính
truyền thống…Tuy nhiên tất cả chỉ là những cơ sở về mặt lý thuyết. Do đó, chúng
tôi phải tự tìm ra cho mình hướng giải quyết phù hợp nhất đối với đề tài này.
3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Như đã nói ở phần trên, tác phẩm Shogun – Tướng quân là một tác phẩm thể
hiện rất sâu sắc và tinh tế văn hóa Nhật Bản. Điều chúng tôi muốn thực hiện trong
đề tài này chính là chỉ ra những dấu ấn văn hóa riêng biệt, độc đáo đó. Từ đó giúp
bạn đọc có thêm những kiến thức mới, thú vị về Nhật Bản.
Thêm vào đó, đứng ở góc độ lý luận, chúng tôi cũng muốn tìm hiểu những
phương thức, biện pháp nghệ thuật nào đã được James Clavell sử dụng để thể hiện
dấu ấn văn hóa đó, nghĩa là xét nó từ góc độ xây dựng để thấy được kiến thức cũng
như tài năng nghệ thuật độc đáo của tác giả.
Có rất nhiều cách để tiếp cận một tác phẩm văn học mới, và hướng tiếp cận
tác phẩm văn học từ góc nhìn văn hoá là một trong những hướng đi cần thiết và có
nhiều triển vọng. Cùng với những cách tiếp cận văn học bằng xã hội học, mỹ học,
thi pháp học…, cách tiếp cận văn học từ văn hoá giúp chúng ta lý giải trọn vẹn hơn
tác phẩm nghệ thuật. Những yếu tố văn hoá liên quan đến thiên nhiên, địa lý, lịch
sử, phong tục, tập quán, ngôn ngữ… có thể được vận dụng để cắt nghĩa những
phương diện nội dung và hình thức của tác phẩm. Nó cũng có thể góp phần lý giải
tâm lý sáng tác, thị hiếu độc giả và con đường phát triển nói chung của văn học.
Nghiên cứu về tính văn hoá trong văn học cũng như mối quan hệ giữa văn hoá và
văn học sẽ cho chúng ta cái nhìn toàn diện hơn trong quá trình khảo sát bất kì một
tác phẩm nào. Đây là một trong những cơ sở quan trọng để chúng ta có được điểm
nhìn đúng đắn khi bước đầu tiếp xúc với một tác phẩm mới. Với đề tài này chúng
tôi hy vọng sẽ mang lại ít nhiều tác dụng thiết thực cho công tác giảng dạy và
nghiên cứu sau này, nhất là việc tìm hiểu các tác phẩm văn học nước ngoài dưới góc
nhìn văn hóa.
4. PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Tác phẩm Shogun – Tướng quân là một tiểu thuyết có dung lượng khá lớn,
nên có rất nhiều vấn đề để nghiên cứu, khảo sát.
Với đề tài “Dấu ấn văn hóa Nhật Bản trong tác phẩm Shogun – Tướng quân
của James Clavell”, chúng tôi chỉ tiến hành nghiên cứu ở một phạm vi hẹp, đó là
“dấu ấn văn hóa” trong tác phẩm. Ở đây, chúng tôi chỉ dừng lại ở việc tìm ra dấu ấn
văn hóa và các nghệ thuật biểu hiện của dấu ấn văn hóa.
Trong phần dấu ấn văn hóa, vì đây là tiểu thuyết của một nhà văn người Anh,
được viết theo hình thức của tiểu thuyết phương Tây hiện đại nên trong phần dấu ấn
văn hóa Nhật Bản, chúng tôi chỉ đề cập đến những dấu ấn về nội dung. Còn ở nghệ
thuật biểu hiện, chúng tôi cũng chỉ khảo sát qua những nghệ thuật mà chúng tôi cho
rằng nó có vai trò giúp nhà văn thể hiện được dấu ấn văn hóa trong tác phẩm này.
5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Do yêu cầu của đề tài là tìm hiểu “dấu ấn văn hóa Nhật Bản” trong một tác
phẩm văn học nên chúng tôi về cơ bản phải tiến hành khảo sát trên cơ sở so sánh,
đối chiếu với lịch sử và văn hóa Nhật Bản (phương pháp lược sử) để tìm ra những
biểu hiện được xem là dấu ấn văn hóa. Ngoài việc khảo sát chúng tôi còn phải tiến
hành phân tích, tổng hợp những dấu ấn văn hóa để khái quát lên các mặt biểu hiện
của dấu ấn văn hóa Nhật Bản trong tác phẩm này.
Về vấn đề nghệ thuật biểu hiện của dấu ấn văn hóa, chúng tôi một mặt dùng
hệ thống lý luận cơ sở để quy chiếu nhằm phát hiện, phân tích; mặt khác phải tiến
hành lý giải, chứng minh trên thực tế.
Như vậy, với đề tài này, chúng tôi đã có sự kết hợp của rất nhiều phương
pháp, từ so sánh, đối chiếu để xác minh đến khảo sát, sắp xếp, chọn lọc chi tiết để
làm rõ và cuối cùng là phân tích, chứng minh, lý giải để khẳng định tính đúng đắn
của vấn đề.
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG MỘT: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1. Vài nét về tác giả, tác phẩm
1.1. Tác giả James Clavell
1.1.1. Cuộc đời
James Clavell tên thật là Charles Edmund Dumaresq Clavell, sinh ngày
10/10/1924 tại Australia. Ông là con trai của Richard Clavell, một viên tư lệnh của
Hải quân Hoàng gia Anh, người đã được cử tham gia vào Hải quân Hoàng gia Úc.
Năm 1940, sau khi học xong trung học tại Portsmouth Grammar School, James
Clavell gia nhập Pháo binh Hoàng gia theo truyền thống của gia đình.
Khi thế chiến thứ hai bùng nổ, ở tuổi 16, ông tham gia vào Pháo binh Hoàng
gia và được gửi đến Malaya để chống Nhật. Trong một trận tham chiến, ông bị
thương và bị bắt giam tại một nhà tù Nhật trên Java. Sau đó, ông được chuyển đến
nhà tù Changi ở Singapore. Tại đây, ông đã chứng kiến cuộc sống cùng cực của
những người tù khổ sai và chế độ nhà tù khắc nghiệt, nơi mà có vào không có ra.
Năm 1946, sau khi Thế chiến kết thúc, ông được phong lên hàm Đại uý,
nhưng một tai nạn xe máy đã kết thúc sự nghiệp quân sự của ông. Ông theo học tại
Đại học Birmingham, nơi ông đã gặp Stride, một nữ diễn viên, sau này là vợ ông.
Năm 1953, Clavell và vợ di cư sang Hoa Kì và định cư ở Hollywood. Năm
1963, ông chính thức trở thành công dân Hoa Kì. Trong những năm sinh sống tại
Mỹ, ông bắt đầu sự nghiệp của mình với vai trò là một tác giả tiểu thuyết, một nhà
đạo diễn và sản xuất phim truyền hình. Năm 1994, ông qua đời vì chứng đột quỵ
(lúc này ông cũng đang mang trong mình căn bệnh ung thư) tại Thụy Sĩ, một tháng
trước ngày sinh nhật 70 của mình. Để vinh danh ông, Thư viện của Bảo tàng Pháo
binh Hoàng gia tại Woolwich, Luân Đôn đã đổi tên thành Thư viện James Clavell.
1.1.2. Sự nghiệp
Sự nghiệp của James Clavell chia làm hai lĩnh vực chính, là công nghiệp
điện ảnh và sáng tác tiểu thuyết. Ở lĩnh vực nào ông cũng thành công và có những
tác phẩm nổi tiếng.
1.2.1.1. Về công nghiệp điện ảnh
Ông được biết đến với nhiều vai trò như đạo diễn, nhà viết kịch bản, nhà sản
xuất… Trong đó, điều đặc biệt là hầu hết các tác phẩm văn học của ông đều được
chuyển thể thành phim. Ông là người viết kịch bản cho bộ phim khoa học viễn
tưởng kinh dị The Fly và Five Gates to Hell, một bộ phim về chiến tranh.
Năm 1963, ông giành được giải thưởng Kịch bản xuất sắc nhất cho bộ phim
The Great Escape với vai trò đồng tác giả.
Các bộ phim của ông:
•
The Fly (1958) (kịch bản)
•
Watusi (1959) (kịch bản)
•
Five Gates to Hell (1959) (kịch bản, giám đốc sản xuất)
•
Walk Like a Dragon (1960) (kịch bản, giám đốc sản xuất)
•
The Great Escape (1963) (đồng viết kịch bản)
•
633 Squadron (1964) (đồng viết kịch bản)
•
The Satan Bug (1965) (đồng viết kịch bản)
•
King Rat (1965) (tác giả tiểu thuyết)
•
To Sir, with Love (1966) (kịch bản, giám đốc sản xuất)
•
The Sweet and the Bitter (1967) (kịch bản, giám đốc sản xuất)
•
Where's Jack? (1968) (giám đốc sản xuất)
•
The Last Valley (1970) (kịch bản, giám đốc sản xuất)
•
Shogun – loạt phim (1980)
•
Tai-Pan (1986) (tác giả tiểu thuyết)
•
Noble House- loạt phim (1988)
1.1.2.2. Tiểu thuyết
Cuốn tiểu thuyết đầu tiên của Clavell, King Rat , là một hư cấu từ kinh
nghiệm của mình tại nhà tù Changi . Khi cuốn sách được xuất bản vào năm 1962,
nó trở thành cuốn sách bán chạy nhất và ba năm sau, nó được chuyển thể thành
phim. Cuốn tiểu thuyết tiếp theo của ông, Tai-Pan, là một câu chuyện hư cấu về
nhân vật Jardine-Matheson, một nhân vật trỗi dậy và trở nên nổi tiếng tại Hồng
Kông những năm bốn mươi của thế kỉ XIX.
Tiếp theo đó là Shogun năm 1975, câu chuyện của một hoa tiêu người Anh
trôi dạt vào Nhật Bản ở thế kỷ XVII, dựa trên nhân vật có thật là William
Adams . Khi câu chuyện đã được làm thành một bộ phim truyền hình vào năm
1980, sản xuất bởi Clavell, nó đã trở thành loạt phim xếp hạng thứ hai cao nhất
trong lịch sử với doanh thu hơn 120 triệu USD. Năm 1981, Clavell xuất bản tiểu
thuyết thứ tư của ông, Noble House, và sau đó cũng làm thành một loạt phim. Sau
thành công của Noble House, Clavell viết Whirlwind (1986), Gai-Jin (1993) cùng
The Children’s Story (1981) và Thrump-Oto-Moto (1985).
Các Saga châu Á (Những câu chuyện cổ về Châu Á) bao gồm sáu tiểu
thuyết:
• King Rat (1962): Viết về cuộc sống trong một trại tù binh ở chiến tranh
Nhật Bản năm 1945.
• Tai-Pan (1966): Viết về Hồng Kông năm 1841
• Shogun (1975): Bối cảnh Nhật Bản những năm 1600
• Noble House (1981): Đất nước Hồng Kông năm 1963
• Whirlwind (1986): Viết về Iran những năm 1979
• Gai-Jin (1993): Viết về Nhật Bản năm 1862
Ngoài ra còn có một số tác phẩm khác như:
• The Children’s Story (1980)
• The Art of War , một bản dịch từ cuốn sách nổi tiếng Tôn Tử (1983)
• Thrump-O-Moto, minh họa bởi George Sharp (1986)
• Escape (1994) - cuốn tiểu thuyết ngắn được chuyển thể từ Whirlwind
• Love Story - từ Whirlwind
1.2. Tác phẩm Shogun- Tướng quân
1.2.1. Vài nét về tác phẩm
Shogun (Shogun- Tướng quân) là một trong sáu tiểu thuyết của bộ Saga
Châu Á, được James Clavell viết vào năm 1975, với bối cảnh là đất nước Nhật Bản
những năm 1600. Đây là câu chuyện về cuộc tranh giành quyền lực (địa vị Shogun)
của các Đaiymô Nhật Bản, với nhân vật chính là Tôranaga (theo cứ liệu lịch sử đó
là Tokugawa Ieyasu của Mạc phủ). Tất cả được nhìn qua con mắt của một thủy thủ
Anh là Blách Thon (nhân vật hư cấu từ William Adams), nhân vật trung tâm của
câu chuyện.
Tác phẩm có sáu mươi mốt chương, gồm hai tập với 1524 trang (không tính
bìa, khổ 14.3x20.3cm). Đây là cuốn tiểu thuyết viết bằng tiếng Anh, thuộc đề tài
tiểu thuyết lịch sử. Năm 1980, chính James Clavell đã xây dựng loạt phim Shogun
từ nội dung của tiểu thuyết này.
1.2.2. Tóm tắt tác phẩm
Nhật Bản những năm 1600 là một quốc gia phong kiến trong một nền hòa
bình tạm thời. Người thừa kế uy quyền, thuộc dòng dõi Hoàng đế là người trẻ tuổi
và quyền lực bấy giờ lại nằm trong tay Hội đồng nhiếp chính gồm năm thành viên
là năm lãnh chúa các vùng đất Nhật Bản (đaimyô). Các lãnh chúa này luôn tranh
giành nhau thế mạnh và tước vị Shogun (tước vị cao nhất ở Nhật Bản, sau Hoàng
đế, có quyền độc tài về quân sự). Xã hội Nhật Bản coi việc tiếp xúc với thế giới bên
ngoài là không đáng tin cậy, vì vậy rất hạn chế. Giáo hội Công giáo, chủ yếu thông
qua các linh mục dòng Tên và các luật dòng khác ở tu viện, đã giành được một
chỗ đứng và tìm cách mở rộng quyền lực của họ. Súng ít được sử dụng và xem
thường, làm cho khả năng quân sự của châu Âu rất hấp dẫn nhưng cũng rất nguy
hiểm đối với Nhật Bản.
Blách Thon, một hoa tiêu người Anh, là người lái tàu chiến Erasmus, được
biết đến là con tàu đầu tiên của những người theo đạo Tin Lành đến Nhật Bản. Tàu
Erasmus bị đắm và anh bị trôi dạt vào bờ biển. Anh và những người sống
sót của thủy thủ đoàn bị bắt giữ bởi các samurai địa phương, đứng đầu là
Kasigi Ômi. Ômi coi họ là người ngoại lai, và hành vi của họ bị coi là dã
man và thiếu tôn trọng nên đã bỏ tù họ trong hầm cho đến khi đaimyô Kasigi Yabu,
chúa của miền Izu xem xét. Theo lệnh Yabu, Blách Thon được đưa tới một hộ gia
đình và những người bạn trong đoàn của anh bị bắt làm con tin, để ra sức ép buộc
anh phải khuất phục làm theo yêu cầu của chúng. Theo gợi ý của Ômi, Yabu lên kế
hoạch sử dụng kiến thức của Blách Thon để phục vụ cho chiến lược chống lại bọn
Thiên chúa giáo và làm giàu cho mình. Yabu ra lệnh tịch thu súng và tiền vàng
từ tàu. Nhưng những tin tức này đã đến tai vị lãnh chúa của ông, quan nhiếp
chính quyền lực Tôranaga, và Yabu có nghĩa vụ phải chuyển Blách Thon, con
tàu, và những gì của nó qua cho Tôranaga.
Blách Thon được trao cho tên gọi là Anjin, nghĩa là “thí điểm” (người lái
tàu) của Nhật vì họ không thể phát âm được tên anh. Blách Thon được trân trọng
gọi là Anjin-san. Anh được đưa tới yết kiến Tôranaga với Cha dòng Tên Anvitô
làm phiên dịch. Theo đạo Tin Lành ở nước Anh, Blách Thon cố gắng thuyết
phục Tôranaga chống lại các tu sĩ dòng Tên. Cuộc phỏng vấn kết thúc khi đối thủ
chính của Tôranaga, Ishiđô, đi vào, tò mò về Blách Thon "man rợ". Tôranaga đã
tống Blách Thon vào tù như là một mưu mẹo để giữ anh ta khỏi tay Ishiđô.
Trong tù, Blách Thon kết bạn với Cha Fraia Đômingô, một thầy tu thuộc dòng
Thánh Franxít, người tiết lộ thông tin chi tiết về cuộc chinh phục của các thầy tu
dòng Tên và người Bồ Đào Nha qua việc mua lụa Nhật Bản và bán lụa lại cho các
nước châu Âu. Ông đã dạy cho anh một vài nét về văn hoá, lối sống của người Nhật
cũng như một vài câu tiếng Nhật thông dụng. Blách Thon được Ishiđô đưa ra khỏi
nhà tù, nhưng Toranaga can thiệp, "bắt lại” Blách Thon từ tay đối thủ của
mình.Trong
cuộc “bị phỏng vấn” tiếp theo của Blách Thon với Tôranaga, Marikô
là người phiên dịch. Marikô cùng chồng là Buntarô, một hatamôtô, là hai trong
những bề tôi đắc lực của Tôranaga. Marikô là một nữ samurai nhưng là người theo
đạo Kitô giáo, một phụ nữ xinh đẹp, thông minh, rất được Tôranaga sủng ái và kính
trọng. Cuộc gặp gỡ lần này đã khiến Tôranaga thú vị và tò mò về Blách Thon, cũng
như những hiểu biết của anh.
Tôranaga bị buộc phải tự sát (vì bị cho rằng có âm mưu lật đổ Thế tử) từ lệnh
của Hội đồng nhiếp chính mà chủ mưu là Ishiđô. Để thoát khỏi sự đe doạ đó,
ông trốn thoát bằng cách giả dạng vợ mình là Kiri để trở về Yêđô, thủ phủ của
mình. Blách Thon vô tình phát hiện ra vở kịch ấy và với sự nhanh trí của mình, anh
đã giả điên để thu hút sự chú ý và giúp Tôranaga bình an ra khỏi lâu đài của
Ishiđô. Anh
bắt
đầu
chiếm
được
cảm
tình
và
sự
tin
tưởng
của
Tôranaga. Tôranaga từ chức chủ tịch Hội đồng Nhiếp chính, làm tê liệt mọi âm mưu
của Ishiđô vì không thể triệu tập cuộc họp Hội đồng và hơn thế Tôranaga biết rằng
việc tìm một thành viên mới để thay vào vị trí thứ năm sẽ làm cho nội bộ chính
quyền mâu thuẫn, đây là cơ hội để ông củng cố lực lượng và chuẩn bị các kế hoạch
chống lại Ishiđô.
Trong cuộc thoát thân khỏi sự khống chế của Ishiđô, tàu của Tôranaga
đến bờ
biển nhưng lại
bị
phong
tỏa bởi tàu
thuyền của Ishiđô. Theo
gợi
ý của Rôđrigô, thuyền trưởng của Tàu Đen, người từng được Blách Thon cứu sống,
Tôranaga được Phêriêa, tên Thuỷ sư đô đốc của Tàu đen cho vay súng hỏa mai để
làm nổ tàu. Nhưng bù lại các linh mục dòng Tên phải nhìn thấy sự hiện diện
của một nhà thờ lớn cho Cơ đốc giáo ở Yêđô, Tàu Đen, con tàu buôn bán của họ
phải được tự do đi lại trong lãnh thổ của Tôranaga, và cuối cùng là phải giao nộp
Blách Thon. Tôranaga đồng ý. Rôđrigô trả nợ cho Blách Thon bằng cách giúp anh
ta thoát khỏi tay Phêriêa trong một kế hoạch được anh cố tình dựng nên.
Trên đường trở về Yêđô, Tôranaga ghé thăm Yabu tại Izu. Tại đây, bằng sự
khôn ngoan, ông đã kéo được Yabu về phía mình. Blách Thon được vinh dự phong
làm hatamôtô của Tôranaga, và được gửi lại Izu để Blách Thon bắt đầu
học tiếng Nhật, dưới sự hướng dẫn của Marikô. Anh được Tôranaga ban cho phu
nhân Fujikô làm nàng hầu. Trong một lần nêu ý kiến của mình trước Yabu và không
được chấp nhận, Blách Thon đã seppuku (tự sát theo nghi thức Nhật Bản) như một
samurai đích thực. Đây là một bước ngoặt quan trọng trong cuộc đời của Blách
Thon. Anh được cứu sống và từ lúc đó, mọi người đã coi anh là một samurai, một
hatamôtô đúng nghĩa. Trong thời gian này anh bắt đầu nảy sinh tình cảm sâu sắc
với Marikô.
Tôranaga quay trở lại Izu cùng với Buntarô, chồng của Marikô. Tại đây
Blách Thon một lần nữa cứu sống Tôranaga trong một trận động đất. Blách Thon
bị giằng xé bởi tình cảm ngày càng tăng của mình cho Marikô, lòng trung thành, sự
ưu ái với Tôranaga và mong muốn trở về vùng biển trên chiếc tàu Erasmus của
mình. Anh đến thăm những người sống sót là các thuyền viên ban đầu của mình.
Tại đây, Blách Thon đã không thể chịu nổi sự dơ bẩn, ghê tởm trong cách sống của
những người bạn này, cách sống mà ông đã từng sống. Blách Thon đã thay đổi và
trở thành một người bị đồng hoá bởi văn hoá Nhật Bản.
Ishiđô đang nắm giữ nhiều thành viên gia đình của các lãnh chúa khác làm
con tin tại Ôsaka. Hắn tin rằng khi có những con tin, các lãnh chúa khác, bao
gồm Tôranaga, không dám tấn công mình. Ishiđô đã nhanh chóng tìm được vị nhiếp
chính thứ năm thay vào chỗ của Tôranaga. Bằng cách triệu tập cuộc họp của Hội
đồng, Ishiđô bắt buộc Tôranaga đến lâu đài của mình, và khi tất cả các quan nhiếp
chính hiện diện, thông qua thì Tôranaga sẽ phải mổ bụng tự sát theo kế hoạch của
hắn. Để giải thoát Tôranaga từ tình huống này, Marikô đến Ôsaka tìm mọi cách
đánh bại âm mưu của Ishiđô và giải thoát các con tin. Trong chuyến đi này, Blách
Thon và Marikô đã yêu nhau và thuộc về nhau.
Tại lâu đài Ôsaka, Marikô đã tìm cách chống lại Ishiđô bằng cách quyết tâm
đưa người thân của Tôranaga rời khỏi lâu đài (đây cũng là một phần trong kế hoạch
của Tôranaga nhằm tạo nên sự ủng hộ của những con tin bị Ishiđô giam lỏng ở đây).
Một trận chiến nổ ra giữa các samurai của Ishiđô và người hộ tống Marikô cho đến
khi cô bị buộc phải quay trở lại. Tuy nhiên, Marikô nói rằng vì cô không thể chấp
hành mệnh lệnh đối với chúa công của mình, đối với cô đó là điều sỉ nhục và cô
quyết định seppuku. Khi cô làm như vậy, Ishiđô buộc phải cung cấp cho cô các giấy
tờ để rời khỏi lâu đài ngày hôm sau. Nhưng tối hôm đó, một nhóm ninja do
Ishiđô thuê đã tấn công lâu đài để bắt cóc Marikô, dưới sự giúp đỡ của Yabu, chư
hầu của Tôranaga, đã bị Ishiđô mua chuộc. Cuộc bắt cóc đã không thành. Marikô đã
tự sát chứ không để lọt vào tay bọn ninja.
Mariko chết và Blách Thon bị thương. Ishiđô buộc phải cho anh và tất
cả các phụ nữ khác rời khỏi lâu đài để không làm ảnh hưởng tới mình. Blách
Thon phát hiện ra rằng con tàu của mình đã được đốt cháy (thực chất là do
Tôranaga sai người phá hủy), làm hỏng cơ hội của mình tấn công các tàu Đen, đạt
được sự giàu có và trở về nước Anh. Tôranaga đồng ý cho Blách Thon tiền đóng
một con tàu mới nhưng thực chất đó chỉ là một mồi nhử để anh phục vụ cho lợi ích
của y. Tôranaga lệnh Yabu tự tử vì sự phản bội của mình, và thay vào vị trí của
Yabu là Ômi, cháu ruột của Yabu, người đã phản bội Yabu để đứng về phía
Tôrranaga.
Câu chuyện khép lại với chiến thắng của Tôranaga ở trận đánh tại
Sêkigahara. Ba ngày sau, Ishiđô bị bắt sống và bị chôn xuống đất, chỉ để thò lên cái
đầu. Rồi tất cả các người đi qua lại đều được yêu cầu lấy một các cưa bằng tre cưa
vào cái cổ trứ danh nhất vương quốc. Ishiđô ngoắc ngoải ba ngày sau rồi chết.
Song song với cốt truyện này, cuốn tiểu thuyết cũng có chi tiết về cuộc đấu
tranh quyền lực căng thẳng giữa Tôranaga và Ishiđô, và vận động chính trị của Giáo
Hội Công Giáo, đặc biệt là các linh mục dòng Tên. Ngoài ra còn có xung đột giữa
các lãnh chúa Kitô giáo (những người được thúc đẩy bởi mong muốn bảo tồn và mở
rộng quyền lực của Giáo Hội) và các lãnh chúa đã chống lại các Kitô - Shinto (Thần
đạo), Phật giáo và tín ngưỡng khác.
Một câu
chuyện
nhỏ
xuyên
suốt lặp
lại trong cuốn
sách
là việc
Tôranaga nuôi chim ưng. Ông so sánh các loài chim khác nhau của mình với
các chư hầu của mình. Ông ném chúng vào các mục tiêu, cho chúng mẩu thức ăn để
đưa chúng trở lại nắm tay của mình.
2. Văn hoá và dấu ấn văn hoá
2.1. Văn hoá
2.1.1. Định nghĩa văn hoá
Văn hoá là một trong những yếu tố quan trọng đánh dấu sự tồn tại và phát
triển của nhân loại. Đã có hàng trăm bài viết, công trình nghiên cứu luận bàn về
khái niệm hay định nghĩa về văn hoá, nhưng cho đến nay vẫn chưa có được một
khái niệm thống nhất. Mỗi nhà nghiên cứu lại tự đặt ra một định nghĩa riêng cho
mình. Mỗi thể chế chính trị, mỗi quốc gia, mỗi ngành khoa học xã hội nhân văn
cũng có một khái niệm về văn hoá riêng. Vào năm 1952, hai nhà nhân học người
Mỹ là A. L. Kreber và K.Klaxon đã thu thập được 164 cách định nghĩa khác nhau
về thuật ngữ văn hoá. Trong cuốn “Triết học văn hoá” M.S.Kagan thu thập được
hơn 70 cách định nghĩa khác nhau. Tại Hội nghị về văn hoá UNESCO tại Mêhicô
năm 1982, người ta cũng đã đưa ra 200 định nghĩa về văn hoá. Hiện nay thì số
lượng định nghĩa về văn hoá ngày càng tăng thêm, khó mà thống kê hết được.
Về mặt thuật ngữ khoa học, văn hóa được bắt nguồn từ chữ Latinh Cultus mà
nghĩa gốc là gieo trồng, được dùng theo nghĩa Cultus Agri là “gieo trồng ruộng
đất” và Cultus Animi là “gieo trồng tinh thần” tức là “sự giáo dục bồi dưỡng tâm
hồn con người”..
Theo các định nghĩa miêu tả, nhà nhân loại học người Anh Edward Burnett
Tylor (1832 - 1917) đã định nghĩa văn hóa như sau: “Văn hóa hiểu theo nghĩa rộng
trong dân tộc học là một tổng thể phức hợp gồm kiến thức, đức tin, nghệ thuật, đạo
đức, luật pháp, phong tục, và bất cứ những khả năng, tập quán nào mà con người
thu nhận được với tư cách là một thành viên của xã hội”.
Theo các định nghĩa lịch sử, Edward Sapir (1884 - 1939), nhà nhân loại học,
ngôn ngữ học người Mỹ định nghĩa:“Văn hóa chính là bản thân con người, cho dù
là những người hoang dã nhất sống trong một xã hội tiêu biểu cho một hệ thống
phức hợp của tập quán, cách ứng xử và quan điểm được bảo tồn theo truyền
thống”.
Theo các định nghĩa chuẩn mực, William Isaac Thomas (1863 - 1947), nhà
xã hội học người Mỹ cho rằng: “Văn hóa là các giá trị vật chất và xã hội của bất kỳ
nhóm người nào (các thiết chế, tập tục, phản ứng cư xử, vv….)”.
Theo tâm lý học, William Graham Sumner (1840 - 1910), viện sĩ Mỹ, giáo
sư Đại học Yale định nghĩa:“Văn hoá là tổng thể những thích nghi của con người
với các điều kiện sinh sống của họ chính là văn hóa, hay văn minh...Những sự thích
nghi này được bảo đảm bằng con đường kết hợp những thủ thuật như biến đổi,
chọn lọc và truyền đạt bằng kế thừa”.
Ralph Linton (1893 - 1953), nhà nhân loại học người Mỹ theo định nghĩa cấu
trúc, cho rằng: “Văn hóa suy cho cùng là các phản ứng lặp lại ít nhiều có tổ chức
của các thành viên xã hội, là sự kết hợp giữa lối ứng xử mà các thành tố của nó
được các thành viên của xã hội đó tán thành và truyền lại nhờ kế thừa”.
Pitirim Alexandrovich Sorokin (1889 - 1968), nhà xã hội học người Mỹ gốc
Nga, người sáng lập khoa Xã hội học của Đại học Harvard định nghĩa văn hoá theo
nguồn gốc của nó: “Với nghĩa rộng nhất, văn hóa chỉ tổng thể những gì được tạo
ra, hay được cải biến bởi hoạt động có ý thức hay vô thức của hai hay nhiều cá
nhân tương tác với nhau và tác động đến lối ứng xử của nhau”.
Một định nghĩa khác được coi là khá chuẩn do Edward B. Tylor đưa ra năm
1871:“Văn hoá là toàn bộ những tri thức, những tín ngưỡng, những nghệ thuật,
những giá trị, những luật lệ, phong tục và tất cả những năng lực và tập quán khác
mà con người với tư cách thành viên của xã hội nắm bắt được”.
Trên trang điện tử Bách khoa toàn thư mở Wikipedia (vi.wikipedia.org), văn
hoá được định nghĩa là “tất cả những sản phẩm của con người, và như vậy, văn hóa
bao gồm cả hai khía cạnh: khía cạnh phi vật chất của xã hội như ngôn ngữ, tư
tưởng, giá trị và các khía cạnh vật chất như nhà cửa, quần áo, các phương tiện…”.
Năm 2002, UNESCO đã đưa ra định nghĩa về văn hóa như sau: “Văn hóa
nên được đề cập đến như là một tập hợp của những đặc trưng về tâm hồn, vật chất,
tri thức và xúc cảm của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội và nó chứa
đựng, ngoài văn học và nghệ thuật, cả cách sống, phương thức chung sống, hệ
thống giá trị, truyền thống và đức tin”.
Cựu Tổng Giám đốc UNESCO Federico Mayor cũng từng đưa ra định nghĩa
về văn hoá: “Văn hóa phản ánh và thể hiện một cách tổng quát và sống động mọi
mặt của cuộc sống (của mỗi cá nhân và cả cộng đồng) đã diễn ra trong quá khứ
cũng như đang diễn ra trong hiện tại, qua hàng bao thế kỷ, nó đã cấu thành một hệ
thông các giá trị, truyền thống thẩm mỹ và lối sống mà dựa trên đó từng dân tộc tự
khẳng định bản sắc riêng của mình”.
Ở Việt Nam cũng có một số định nghĩa của các nhà nghiên cứu về văn hoá.
Chẳng hạn theo Từ điển tiếng Việt của Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa, khoa Khoa
học Xã hội và Nhân văn, Viện Ngôn ngữ Việt Nam (xuất bản năm 2007) thì văn
hoá được ghép từ hai từ văn (trong từ văn minh) và hoá (trong từ giáo hoá), theo đó
văn hoá có nghĩa là “nền giáo hoá theo mỗi văn minh của thời đại” hay là “điều
hiểu biết, kiến thức”.
Trong cuốn Cơ sở văn hoá Việt Nam, giáo sư - viện sĩ Trần Ngọc Thêm đưa
ra khái niệm: “Văn hoá là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do
con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương
tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã từng đề cập đến vấn đề này. Người viết: “Vì
lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh
ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật,
những công cụ cho sinh hoạt hằng ngày về ăn, mặc, ở và các phương thức sử dụng.
Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp
của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh
ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn”.
Qua những khái niệm trên chúng ta có thể khẳng định văn hóa là sản phẩm
của loài người, văn hóa được tạo ra và phát triển trong quan hệ qua lại giữa con
người với tự nhiên và xã hội. Văn hóa được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác
thông qua quá trình vận động, phát triển của xã hội. Văn hoá có thể xem như yếu tố
đầu tiên và căn bản để xác lập tính độc lập của một dân tộc hoặc một cộng đồng
người. Văn hóa còn là thước đo trình độ phát triển của con người và của xã hội,
được biểu hiện trong các kiểu hình thức tổ chức đời sống và hành động của con
người cũng như trong giá trị vật chất và tinh thần mà do con người tạo ra. Nói như
Nguyễn Trần Bạt trong bài viết Khái niệm và bản chất của văn hoá thì: “Văn hoá,
nói một cách giản dị, là những gì còn lại sau những chu trình lịch sử khác nhau,
qua đó người ta có thể phân biệt được các dân tộc với nhau. Thông qua mỗi một
chu kỳ của sự phát triển, dân tộc đó tương tác với mình và với những dân tộc khác,
cái còn lại được gọi là bản sắc, hay còn gọi là văn hóa”.
2.1.2 Phân loại văn hoá
Có rất nhiều ý kiến khác nhau về vấn đề phân loại văn hoá. Ở đây chúng tôi
xin theo ý kiến được phần đông các nhà nghiên cứu thống nhất, đồng thời đây cũng
là ý kiến mà chúng tôi cho rằng tương đối hợp lý, nghĩa là về cơ bản, văn hoá có thể
chia làm hai loại: Văn hóa tinh thần và văn hoá vật chất. Văn hoá tinh thần (hay còn
gọi là văn hóa phi vật chất) bao gồm những ý niệm, tín ngưỡng, phong tục, tập
quán, giá trị, chuẩn mực…Văn hoá vật chất (hay văn hoá vật thể) bao gồm tất cả
những sáng tạo hữu hình của con người mà trong xã hội học gọi chung là đồ tạo tác.
Những con đường, tòa cao ốc, đền đài, nhà cửa, phương tiện giao thông, máy móc
thiết bị, vật dụng, dụng cụ lao động... đều là đồ tạo tác. Tuy nhiên sự phân loại này
không có nghĩa là chúng ở trong trạng thái thuần tuý đối lập nhau mà chỉ là sự căn
cứ theo nội dung cơ bản và phương thức phát huy tác dụng của chúng mà thôi. Vẫn
phải thấy rằng trong văn hoá vật chất vẫn có yếu tố văn hoá tinh thần và ngược lại.
Sự xuyên thấm đối ngược của yếu tố vật chất và yếu tố tinh thần trong hai loại hình
văn hoá nói trên là một vấn đề rất tự nhiên, tất yếu theo quy luật hình thành và phát
triển của nó. Sự kết hợp giữa hai yếu tố vật chất và tinh thần trong hai loại hình văn
hoá trên là theo tỷ lệ áp đảo, nghĩa là hoặc thiên về vật chất hoặc thiên về tinh thần.
Nhưng cũng có một sản phẩm, mà sự kết hợp ấy là cố ý, do một cá nhân sáng tạo ra,
và như vậy có thêm một loại hình văn hoá thứ ba, văn hoá tinh thần - vật chất, hay
còn gọi là văn hoá nghệ thuật (văn hoá mang tính nghệ thuật). Loại hình văn hoá
này chúng ta sẽ cùng tìm hiểu chi tiết ở phần “mối quan hệ giữa văn học và văn
hoá”.
2.1.3. Các thành tố cấu thành nền văn hoá của một dân tộc
Văn hoá là một tổng thể được cấu thành từ rất nhiều thành tố. Tìm hiểu đặc
điểm của các thành tố văn hoá của một dân tộc sẽ giúp chúng ta thấy được bản sắc
cũng như những đặc trưng cơ sở của nền văn hoá ấy. Tất nhiên trong từng điều kiện
lịch sử, xã hội cụ thể, các thành tố này có thể sẽ có những vị trí và vai trò khác nhau
trong việc thể hiện và lưu trữ văn hoá của một dân tộc.
2.1.3.1. Tri thức
- Xem thêm -