TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP THỰC PHẨM TP.HCM
KHOA CÔNG NGHỆ HÓA HỌC
MÔN: VẬT LIỆU COMPOSITES
---------o0o----------
Đề tài: FILAMENT WINDING
GVHD: Nguyễn Hưng Thuỷ
Nhóm thực hiện: Nhóm 6
TP.HCM 06/2015
Trang 1
Chương VI: Công Nghệ Quấn Sợi (Filament winding)
I. GIỚI THIỆU PHƯƠNG PHÁP QUẤN SỢI
- Hệ thống nhựa và sợi gia cường được cung cấp liên tục lên một lõi quay.
Góc nạp sợi được xác định bởi mối quan hệ giữa trục quay và sự di
chuyển của bộ phận chuyển động ngang
- Sợi được kéo căng, tạo ứng suất, do đó làm giảm bọt khí —> sản phẩm có cơ
tính tốt.
Nhựa được đóng rắn ở nhiệt độ thường hoặc có thể được gia nhiệt
tùy thuộc vào quy trình sản xuất và polymer được sử dụng.
- Tháo sản phẩm, hoàn tất sản phẩm.
Filament Winding là quá trình cuốn sợi, một dải sợi liên tục ( sợi
đơn hoặc sợi xe ) đã được tẩm nhựa lên bề mặt của một lõi quay đã được tạo
hình chính xác, sau đó được lưu hóa ở nhiệt độ phòng hoặc gia nhiệt để tạo ra
sản phẩm. Trong khi lõi cuốn quay, một đầu cấp sợi định vị chính xác trên bề
mặt lõi. Lõi quấn có thể là hình trụ, hình tròn hoặc bất kỳ hình dạng nào mà
không bị ghồ ghề lượn sóng đều được.
- Độ bền cơ học của sản phẩm không những phụ thuộc vào thành phần của
vật liệu mà còn phụ thuộc vào các thông số của quá trình như : góc cuốn, độ
căng sợi, thành phần hóa học của nhựa và thời gian đóng rắn.
Sợi sử dụng là lọai sợi bện liên tục như sợi Carbon, Sợi thủy tinh. Cấu trúc
tạo ra có tính chất bền hơn thép và có trọng lượng nhẹ hơn nhiều so với thép.
Ngày nay, hầu hết các máy dùng trong phương pháp Filament Winding
được điều khiển tự động với nhiệt độ làm việc và độ tự do cao hơn, sợi được
xếp theo vị trí mong muốn theo yêu cầu thiết kế sản phẩm có hình dáng phức
tạp. Hướng của sợi sẽ quyết định đến độ bền của vật liệu composite.
Trang 2
II.
QUY TRÌNH SẢN XUẤT
Một quy trình sản xuất composites bằng phương pháp quấn sợi bao gồm 6 giai đoạn như
sau:
Giai đoạn chuẩn bị lõi quấn
Giai đoạn quấn sợi
Giai đoạn đóng rắn cho sản phẩm sau khi quấn
Giai đoạn lấy lõi quấn ra khỏi sản phẩm
Giai đọan hình thành sản phẩm cuối cùng
Giai đoạn kiểm tra chất lượng
Trong phần này, ta chỉ giới thiệu 4 giai đoạn đầu: giai đoạn chuẩn bị lõi quấn,
giai đoạn quấn sợi, giai đoạn đóng rắn cho sản phẩm sau khi quấn và giai đoạn
tháo lõi.
II. 1.Giai đoạn chuẩn bị lõi quấn
Bộ phận để quấn lớp sợi đã được thấm nhựa lên trên đó được gọi là lõi
quấn. Lõi quấn là một bộ phận quan trọng vì nó tạo ra hình dạng của sản phẩm.
Những lõi quấn thường được dùng trong phương pháp quấn sợi chủ yếu loại cát
có khả năng hoà tan trong nước, thạch cao đối với những sản phẩm có dung tích
nhỏ, loại lõi gồm nhiều khúc đoạn, có thể gập lại được đối với những sản phẩm
dạng hình ống, đối với sản phẩm không tháo lõi như những thùng chứa chất lỏng
hay khí nén thì thường được làm bằng kim lọai có thể chịu được tải.
Loại lõi làm từ cát có thể hoà tan bằng nước được dùng trong trường hợp
motor rocket và lớp phân cách hầu hết luôn luôn lắp sẵn với lõi. Trục quấn, bộ
phận điều chỉnh và những thiết bị khác được lắp sẵn, dung dịch cát có thể hoà tan
trong nước được đúc vào khuôn. Khi cát đóng rắn, hai nửa của lõi sẽ được ráp lại
và gắn chặt với nhau. Hai nửa lớp phân cách được nối với nhau
bằng cao su chưa lưu hóa mà chúng có thể đóng rắn đồng thời với nhau. Bề mặt lớp
phân cách gồ ghề và được làm sạch bằng dung môi. Dùng một lọai gel coat để phủ
lên bề mặt chất phân cách đóng vai trò như là một chất kết dính giữa lớp phân cách
và composite. Cách sử dụng màng kết dính trong lớp nhựa gel coat trở nên thông
dụng hơn. Điều này cho phép ta có thể điều chỉnh được độ dày của lớp kết dính với
những đặc tính lặp lại nhưng giá thành rất cao.
Đối với loại lõi làm từ thạch cao cung cấp một bề mặt chịu lực cao bằng cách
quét lớp thạch cao trên một thiế bị có khả năng di chuyển hoặc có khả năng gấp lại.
Thạch cao đóng rắn, sau đó phủ lên lớp Teflon hoặc một loại màng phân cách, cùng
với quá trình đóng rắn thiết bị tháo dỡ, thạch cao bị vỡ và lấy lớp màng phân cách
ra và để lại đường nét bên trong.
Đối với loại lõi có dạng khúc đọan, có thể gập được là trường hợp đặc biệt và
đắt, nhưng giá thành sẽ được điều chỉnh bởi sản phẩm áp dụng cao vì khả năng sử
dụng được và quá trình quấn liên tục. Chuẩn bị bề mặt trước khi quấn bao gồm quá
trình mở khuôn và lớp gel coat lớn để bề mặt bên trong liên tục. Lớp gel coat trong
trường hợp này dùng để tạo ra chướng ngại mềm dẻo để ngăn chặn lỗ hở ở ứng suất
thấp.
Đối với loại lõi dạng ống được dùng trong một vài ứng dụng như là lõi kim
loại dạng tròn, trong đó composite được đẩy hoặc kéo ra sau khi đóng rắn, điều này
yêu cầu thiết bị phải có chất lượng cao không gây vấn đề khi sử dụng. Thiết bị mạ
crom để có độ cứng và có bề mặt bóng láng để giúp quá trình tháo lõi dể dàng. Sử
dụng một dây mỏng đặt theo chiều dài lõi là điều cần thiết và có lợi.
Lớp kim loại bên trong của thùng chứa khí có một độ bền -tỉ trọng cao thuận
lợi để quấn một composite lớp mỏng không thấm nước. Đây là một loại lõi không
cần tháo dỡ sau khi đóng rắn. Theo quan điểm này, khí có trọng lượng phân tử thấp
áp lực lớn như Helium hoặc Hyrogen có thể được chứa đựng mà không bị rò rỉ. Lớp
kim lọai bên trong là một phần quan trọng trong bình chứa khí. Sự chuẩn bị lõi là
thay đổi loại chất kết dính giữa lớp kim loại bên trong và lớp composite bên ngoài.
II. 2. Giai đoạn quấn sợi
Quá trình quấn được bắt đầu như sau : một lượng gồm nhiều bó sợi hoặc sợi
roving được kéo từ một dãy các cuộn sợi, gồm nhiều đầu sợi từ các cuộn sợi, được
kéo qua máng nhúng nhựa ( đã có xúc tác và các thành phần cần thiết như màu,
chất kháng tia UV...). Khi bắt đầu vận hành máy, các đầu sợi được công nhân thao
tác cho kéo qua máng nhựa, dao gạt nhựa dư và qua các lược chia sợi. Sợi được kéo
căng và cho qua đầu hướng sợi, sau đó công nhân sẽ cố định đầu sợi vào lõi quấn
và cho máy vận hành. Quá trình quấn liên tục làm cho các vòng sợi kế tiếp sẽ giữ
cho sợi được cố định trên lõi quấn được siết chặt cho đến khi hình thành sản phẩm,
sau đó tháo lõi quấn ra và tiếp tục quá trình đóng rắn để được sản phẩm cuối cùng.
II.2.1.Mô hình máy quấn sợi:
Hình 1. Mô hình quy trình quấn sợi
11.2.2.
Những phương pháp quấn sợi:
Có 2 phương pháp quấn sợi:
ll.2.2.1.
Phương pháp quấn ướt (Wet winding)
FILAMENT WINDING
Wet Winding Technique
Hình 2. Phương pháp quấn ướt
Sợi Roving khô được kéo qua một bồn chứa hỗn hợp nhựa lỏng, sau đó được
cung cấp liên tục cho bộ phận cuốn bởi đầu một cấp sợi. Được tạo hình trên một lõi
quay để đạt được hình dạng mong muốn. Quá trình đóng rắn xảy raở nhiệt độ
thườnghoặcđược đưavào lò gia nhiệt để đóng rắn nóng.
Phương pháp wet winding thường được dùng để sản xuất những loại composites
sử dụng nhựa nhiệt rắn. Bởi vì, phương pháp wet winding có những ưu điểm sau:
giá thành vật liệu thấp, thời gian quấn ngắn và dễ dàng tạo ra hỗn hợp nhựa theo
yêu cầu. Trong phần này, chúng ta chỉ đề cập đến quy trình sản xuất
composites
bằng phương pháp quấn sợi sử dụng phương pháp wet winding.
II.2.2.2. Phương pháp quấn khô (Prepreg winding)
Sợi gia cường và nhựa được cung cấp đồng thời : bó sợi được tẩm nhựa (
Towpreg ).
Ban đầu, prepreg được tạo ra như sau : dung dịch nhựa ở dạng dung dịch lỏng
hoặc dạng chảy nhớt, đã được tính tóan công thức cho vào bể chứa. Kế tiếp nhúng
sợi gia cường vào cho đến khi bảo hoà nhựa, sau đó con lăn ép kéo sợi bão hoà
nhựa lên và sợi tiếp tục đi qua lò sấy để tạo ra dạng prepreg. Sau đó, prepreg được
cuộn lại thành cuộn, trong khi cuộn prepreg thì có chèn các lớp giấy hoặc màng
poly vào để nó không dính lại với nhau.
Nhựa trong hệ thống Towpreg được hóa cứng dần và dính chưa hoàn toàn với
nhau, nhưng chỉ đóng rắn từng phần.
* Phương pháp thấm nhựa vào sợi (dùng trong phương pháp quấn khô):
Đây là giai đoạn thấm hỗn hợp nhựa và tác nhân đóng rắn lên sợi nhựa gia
cường, giai đoạn này tạo ra sự liên kết giữa nhựa và sợi gia cường.
Đầu tiên, ta chuẩn bị hỗn hợp nhựa để thấm lên sợi gia cường. Hỗn hợp này được
tạo ra bằng cách trộn nhựa với một số chất phụ gia khác như tác nhân đóng rắn,
chất xúc tiến, chất xúc tác, dung môi pha loãng, bột màu...
Sợi gia cường được dùng thường là những loại sau: sợi đã thiêu dệt thành tấm,
cuộn sợi và tấm sợi có định hướng một cách ngẫu nhiên.
Có 2 cách thấm nhựa lên sợi gia cường
Cách 1: dùng nhưa dang dung dich (solutỉon form)
Quy trình thấm nhựa vào sợi gia cường diễn ra theo sơ đồ như sau:
Hình 4. Quy trình nhúng sợi
Sợi gia cường được thấm sâu vào trong dung dịch nhựa
Cách 2: dùng nhưa dang nóng chày (hot melt form)
Sợi gia cường được thấm nhựa bằng cách dùng nhiệt & áp suất
Hình 5. Quy trình nhúng sợi
Khi hỗn hợp nhựa được thấm lên sợi gia cường thì phải lưu giữ lạnh đến khi
tiến hành quấn sợi. Điều này giúp ngăn chặn những phản ứng hóa học xảy ra quá
sớm làm hư hỏng sợi.
II.3. Các kiểu quấn sợi:
Có 3 kiểu quấn sợi : helical , hoop và polar winding.
II.3.1.Helical winding
Mô hình quấn sợi theo kiểu Helical winding:
Hình 6. Mô hình quấn sợi kiểu Helical
Vòng quấn chuyển động qua lại song song như mô hình, đây là kỹ thuật thông
dụng nhất dùng để tạo ra những cấu trúc hình ống. Bằng cách điều chỉnh tỉ lệ giữa
tốc độ quay và tốc độ đổi hướng để điều chỉnh góc quấn của sợi.
Một số kỹ thuật quấn được sử dụng: một hoặc nhiều vòng quấn không thay đổi
trong khi lõi quấn chuyển động quay và đổi hướng, vòng quấn chuyển động quay
quanh lõi quấn không đổi và chuyển hướng quanh trục của nó.
Helical winding là phương pháp sử dụng chiếm ưu thế hiện nay. Nó thích hợp
cho những hình dạng dài mỏng như là ống áp lực và ống thở dưới nước, có góc
quấn từ 20-90o. Hầu hết các lọai ống quấn ở góc 54.7o
Đối với những cấu trúc lớn, phải đặc biệt chú ý đến thiết kế lõi quấn. Trọng
lượng lõi quấn là nguyên nhân dẫn đến sự hao mòn trục quay.
Những góc quấn rất nhỏ (0-10o) thường không dùng trong trường hợp tỉ lệ chiều
dài-đường kính lớn. Với những cấu trúc có đường kính lớn như rocket motor có tỉ
lệ chiều dài-đường kính là 2:1 hoặc lớn hơn, thì quấn với góc nhỏ là cần thiết để
hấp thu ứng suất theo chiều dọc của cấu trúc.
II.3.2.Hoop winding:
Mô hình quấn sợi theo cách thức Hoop winding như sau:
Hình 7. Mô hình quấn sợi kiểu Hoop
Vòng quấn không thay đổi mà chỉ di chuyển theo chiều dài của lõi quấn theo tỉ
lệ độ rộng của dải sợi trên số vòng quấn, lõi quấn quay quanh trục. Hoop winding là
một trường hợp đặt biệt của Helical winding có góc quấn là 90o
Hoop winding thường được dùng chung với Helical và Polar winding. Đối với
loại máy Polar winding, hoop winding sẽ được tiến hành bằng cách lõi quấn chuyển
động để tạo kết cấu quấn theo kiểu Hoop. Đối với trường hợp máy Helical thì dễ
dàng hơn vì trong chế độ cài đặt theo kiểu Helical thì có thêm vào chế độ cài theo
kiểu Hoop winding. Hoop winding được dùng với 2 mục đích. Mục đích thứ nhất là
để chống lại ứng suất tròn của hình trụ, bởi vì ứng suất này là ứng suất chủ yếu xảy
ra theo chiều dọc đối với những loại thùng chứa khí, chất lỏng. Mặt khác, những
lớp quấn theo kiểu Hoop winding được dùng để nén chặt những lớp Helical hoặc
Polar winding khi những lớp này được quấn trên một cấu trúc sản phẩm
Sản phẩm tạo thành có những hình dạng như sau: vòng tròn, dẹt (tròn hình đĩa),
lọai ống ngắn, khúc nối hoặc một vài dạng khác.
II.3.3. Polar winding
Mô hình quấn sợi theo kiểu Polar winding:
Hình 8. Quy trình quấn sợi kiểu Polar
Kiểu quấn này bao gồm một vài quy trình quấn khác nhau, nó cũng có những
chuyển động gilõi như là kiểu quấn Helical nhưng trục ngắn nhất là trục chuyển
động. Kỹ thuật quấn này bao gồm hai chuyển động quay. Trong suốt quá trình lõi
quấn quay quanh trục của nó và vòng quấn vuông góc với trục thẳng đứng. Trong
kiểu quấn này, hệ thlõi phân phát sợi quay theo một hướng có nghĩa là hướng sợi
hoặc là phân bố theo chiều dọc hoặc là theo chiều ngang, lõi quấn quay liên tục
trong mặt phẳng. Máy quấn theo kiểu Polar cơ bản thì rất đơn giản so với máy quấn
theo kiểu Helical. Gồm 2 mức độ là sự chuyển động của lõi quấn và sự chuyển
động xung quanh lõi quấn của cánh tay thẳng đứng.
Quy trình Polar winding đặt dải sợi đang quấn gần kề với dải sợi đã quấn trước.
Những dải tiếp theo được quấn tiếp theo tạo thành mạng hoặc cấu trúc dạng kim
cương gilõi như Helical winding. Vì vậy những điểm bắt đầu quấn của dải sợi là
toàn bộ mặt lồi ở đầu hoặc là cuối của lõi quấn (Trong trường hợp Helical, điểm bắt
đầu quấn sợi là trong vùng hình trụ)
Dải sợi được quấn theo hướng tiếp tuyến với mặt lồi ở hai đầu của lõi quấn. Quy
trình này có thể tạo ra 2 mặt lồi có kích thước khác nhau, điều kiện quấn tốt nhất sẽ
là 2 mặt lồi có kích thước đồng nhất.
Nhược điểm của kiểu quấn này khung đựng cuộn sợi không thể đặt cố định
trong quá trình quấn. Để ngăn chặn dải sợi xoắn lại với nhau cũng như là chuyển
động quay của cánh tay quanh chiều dọc của lõi quấn, khung chứa cuộn sợi phải
được đặt trên khung với cánh tay. Kết quả là chiều rộng của dải quấn thường giới
hạn khỏang 25mm (1 inch), gồm 8 cuộn sợi. Một sự cân nhắc nữa là máy quấn
không thích hợp để quấn theo kiểu Hoop winding. Tốt nhất là đặt cánh tay nằm
ngang và sau đó di chuyển chậm trục cánh tay về vị trí thẳng đứng.
Quy trình này dùng để tạo ra những bình chứa có kích thước hai đầu khác nhau.
II.4. Đóng rắn
Trong phương pháp quấn sợi, yêu cầu về thời gian sống dài của nhựa và khâu
mạng nhanh là mâu thuẩn nhau. Nhìn chung, các loại nhựa có thể giữ được độ nhớt
khi quấn trong một thời gian dài-khoàng một vài giờ đến một ngày-sẽ có đòi hỏi
hoặc là thời gian đóng rắn dài hơn ở nhiệt độ thấp hoặc là nhiệt độ bắt đầu cao hơn
nhiều, điều này phụ thuộc vào chất xúc tiến và chất xúc tác. Nhiệt độ đóng rắn cao
hơn có thể tạo ra những vết rạn nhỏ trong lớp của sản phẩm cuối cùng. Những
nguyên nhân khác tạo tạo nên những vết rạn nhỏ này còn phụ thuộc vào hệ số giãn
nở nhiệt giữa lõi quấn, sợi và nhựa, tốc độ nung nóng và làm nguội, độ co ngót của
nhựa khi đóng rắn và khâu mạng, định hướng của sợi.
Với năng lượng vi sóng, quá trình đóng rắn được đầu hoặc là ở bên trong hoặc
là ở bên ngoài bề mặt, điều này phụ thuộc vào vị trí của nguồn nhiệt. Cả hai
phương pháp đều có những ưu điểm. Khi đóng rắn bên trong bề mặt, hàm lượng
sợi cao hơn bởi vì nhựa có thể bị đẩy ra ngoài. Vì vậy hàm lượng bọt khí sẽ giảm,
do đó xu hướng tạo ra nhiều lỗ hổng không khí giảm. Với phương pháp đóng rắn từ
bề mặt bên ngoài, hàm lượng nhựa có thể cao hơn và có thể tránh được sự chảy nhỏ
giọt của nhựa.
Trong phương pháp quấn sợi, thường thì hệ thống đóng rắn đặt sẵn tại nơi sản
xuất. Nhựa phải được sử dụng với hàm lượng vừa đủ.
Các phương pháp đóng rắn: lò, dầu nóng, đèn, hơi nước, nồi hấp chân không, vi
sóng
II.4.1.
Đóng rắn bằng lò
Thường dùng lò gas hoặc lò điện để đóng rắn. Ưu điểm là giá thành rẻ và có thể
đóng rắn được những sản phẩm có kích thước lớn. Aùp suất đóng rắn
thêm vào sử dụng túi chân không (hoặc shrin tape). Trong nhiều trường hợp, đối
với dạng hình ống hoặc hình tròn, quay sản phẩm trong quá trình đóng rắn để tránh
hiện tượng sản phẩm bị cong và chảy nhựa. Năng lượng tiêu tốn nhiều hơn so với
những phương pháp khác bởi vì ngoài lượng nhiệt cho phần sản phẩm thì còn cho
môi trường không khí xung quanh và thiết bị như là lõi quấn và bộ phận nâng đỡ.
11.4.2.
Đóng rắn bằng dầu móng
Hệ thống dầu nóng dùng đóng rắn lọai nhựa có đặc tính đóng rắn nhanh,
thông thường khả năng đóng rắn ít hơn 15 phút. Sử dụng dầu nóng đảm bảo giảm
nhiệt độ của lõi quấn một cách nhanh chóng và không cần phải đóng rắn bằng lò.
Trong hệ thống dầu nóng, dòng dầu nóng chảy qua lõi quấn làm lõi nóng lên trước
tiên, nhiệt độ sẽ tạo ra môi trường nóng đến điểm nhiệt mà composite bị nòng lên
và đóng rắn và kết hợp với điều kiện giãn nở. Sau đó khi dừng dòng dầu nóng và
nhiệt độ lõi giảm xuống, độ co rút do composite đóng rắn và điều này cho phép ta
tháo lõi một cách dễ dàng. Nhiệt độ của dầu nóng thường 150- 2400C.
11.4.3.
Đóng rắn bằng đèn
Là sự kết hợp giữa đèn nhiệt với bề mặt phản chiếu và sự quay của lõi, có thể
cung cấp nhiệt độ ở khỏang 1710C. đèn nhiệt thường có thể di chuyển hoặc có thể
dự trữ. Bởi vì nguồn có tính định hướng cao sẽ tăng khả năng cung cấp nhiệt đóng
rắn toàn bộ các vùng của sản phẩm.
Đèn hồng ngoại thường được dùng cung cấp nhiệt để đóng rắn nhựa trong
composite. Tuy nhiên lọai đèn này thì hiếm khi sử dụng đủ cho quá trình sản xuất.
Chuyển đổi nhựa từ trạng thái A sang trạng thái B-stage. Đây là cách thực hiện
thông dụng dùng một dãy đèn có một hình dạng thuận lợi sao cho hệ thống nhận
được năng lượng nhiệt, hệ thống quay tròn khi cung cấp nhiệt. Cuối cùng nhựa
chuyển sang trạng thái B-stage và đông lại nhưng vẫn có thể có khả năng điền đầy
và khâu mạng trong quá trình cuối cùng. B-stage ngăn chặn sự chảy và sự rút nhựa
trong cấu trúc hình trụ, tạo ra trạng thái có thể cầm nắm được.
Sử dụng những lọai đèn khác thì có khả năng phóng điện như đèn Xenon. Để
xúc tiến quá trình đóng rắn khi sử dụng lọai đèn này, phải sử dụng một chất nhạy
quang trong hỗn hợp nhựa.
Một trong những bất lợi của hệ thống đóng rắn bằng đèn thường hình thành một
lớp ỡ phía trên bề mặt nhựa và lớp này ngăn chặn sự truyền nhiệt xa hơn đến hệ
thống đóng rắn.
11.4.4.
Đóng rắn bằng hơi
Một số quy trình sản xuất ống thì sử dụng hơi nóng để đóng rắn nhựa. Hai đầu
của lõi kim loại có một thiết bị để dẫn hơi và nước. Sau khi ống được quấn, hơi
nóng đi qua lổ rỗng của lõi. Khi quá trình đóng rắn hoàn tất, lõi được làm lạnh bằng
nước để có thể vận chuyển và tạo ra độ co rút vừa đủ để tháo lõi.
11.4.5.
Đóng rắn bằng nồi hấp chân không
Khi sản xuất những sản phẩm có chất lượng sử dụng trong không gian vũ trụ thì
cần phải có độ phức tạp tinh vi, các loại nhựa như epoxy, bismalemide hoặc
polyimide được dùng, điều này rất cần thiết để đóng rắn sản phẩm trong nồi hấp
chân không. Nồi hấp dùng để đóng rắn có thể cung cấp một áp suất khỏang 1.42.1Mpa với nhiệt độ cao 371 oC. Nhược điểm cơ bản của cách đóng rắn này là thời
gian đóng rắn lâu, phụ thuộc vào kích thước sản phẩm và lọai nhựa epoxy sử dụng.
Nồi hấp chân không dùng để đóng rắn những bộ phận của máy bay. Đối với tên
lửa, thì một số phần sẽ được quấn từ cuộn sợi đã được thấm nhựa từ trước, phụ
thuộc vào từng loại nhựa có thể đòi hỏiquy trình hấp và đóng rắn thật kỹ lượng và
sự loại trừ bọng khí.
11.4.6.
Đóng rắn bằng vi sóng
Đóng rắn bằng vi sóng có những thuận lợi lớn đối với composite làm từ sợi thủy
tinh và sợi aramid. Năng lượng vi sóng hấp thụ rất nhanh bằng cả nhựa và sợi, kết
quả là quá trình đóng rắn có thể xảy ra trong vòng vài phút so với quá trình đóng
rắn xảy ra trong vòng vài giờ như trước đây. Mức năng lượng yêu cầu cho phương
pháp này thì cao; do đó quy trình rất tốn kém. Tuy nhiên hạn chế chính của quy
trình này là không có thể dùng phương pháp đóng rắn bằng vi sóng cho những lọai
sợi có tính dẫn như là sợi cacbon. Vì lý do này, loại sợi dùng làm composite đặt biệt
quan trọng trong quá trình đóng rắn bằng vi sóng, vì vậy người sản xuất chỉ dùng
phương pháp này như là một phương pháp hỗ trợ để gia tăng nhiệt độ.
II. 5. Tháo sản phẩm
o Đối với lõi làm từ cát có thể hoà tan bằng nước thì hầu hết rất dễ lấy ra, nước
được cho vào trục quấn, cát bị tan ra và sau đó tháo dỡ các thiết bị lắp ráp ra.
Quá trình tháo lõi sẽ gặp nhiều khó khăn nếu nếu thiết bị có nhiều khúc đoạn
hoặc có thể gập lại được. Đối với lõi bằng thạch cao có thể làm vỡ bằng tay. Quá
trình này đói hỏi phải hết sức cần cù và phải đủ mạnh để phá vỡ thành phần
o Hoàn tất sản phẩm cuối cùng: machinel, cut, assemble (lắp ráp)
o Kiểm tra chất lượng
III. Nguyên liệu
Phương pháp quấn sợi yêu cầu sợi gia cường liên tục và hỗn hợp nhựa liên kết
lại với nhau. Có một vài loại nguyên liệu có thể được sử dụng trong quy trình gia
công. Sự lựa chọn nguyên liệu cho sản phẩm dựa vào tính kinh tế, ảnh hưởng của
môi trường, khả năng chống ăn mòn, trọng lượng giới hạn và độ bền của sản phẩm
hình thành.
111.1.
Một số loại sợi gia cường:
Sợi gia cường yêu cầu phải có độ liên tục. Sợi là thành phần góp phần tạo ra độ
cứng và độ bền của composite. Một vài loại sợi có tính thương mại như: E-glass, Sglass, aramid và carbon/ graphite. Sợi dùng trong phương pháp này chủ yếu là có
hình dạng cuộn sợi:
111.1.1.
Sợi thủy tinh:
Trong phương pháp quấn sợi hầu hết là sửa dụng sợi thủy tinh, đây là loại sợi có
tính thương mại với ba lọai như E-glass, S-glass và R-glass. Sợi thủy tinh được
dùng cho phương pháp này là do loại sợi này có giá thành thấp, ổn định kích thước,
có độ bền và modul vừa phải, vận chuyển dễ dàng.
Sợi thủy tinh dùng cho phương pháp quấn sợi thường là dùng lọai cuộn“singleend” hoặc là dùng cuộn “multistrand”. Cuộn “single-end” là cuộn sợi thu được từ
bó rời rạc trong suốt quá trình quấn sợi (cuộn đơn). Mỗi cuộn thường có chiều dài
từ 47 đến 747m/kg.
E-Glass: loại sợi này có độ bền kéo tốt (3450MPa), modul kéo thấp
(70GPa), có giá thành thấp nhất, có nhiều dạng, tỉ trọng 2.60g/cm3, độ giãn dài
khỏang 5%, sử dụng rộng rãi cho các sản phẩm thương mại và công nghiệp, hầu hết
là dùng trong phương pháp quấn sợi.
S-Glass: loại sợi này có độ bền cao (4600MPa), có modul kéo cao
hơn E-glass (85GPa), giá thành đắt hơn, tỉ trọng 2.55g/cm3, được dùng trong lĩnh
vực không gian vũ trụ và các loại bình chứa khí nén.
111.1.2.
Sợi Aramid
Sợi aramid theo Pont’s Kevlar được sử dụng rộng rãi. Tùy thuộc vào loại cuộn
và sợi mà mội cuộn sợi aramid dai từ 124 đế 9540m/kg. Với phương pháp quấn sợi,
mỗi cuộn sợi dài từ 1307 đến 1626m/kg đối với cuộn đơn và từ 261 đế 406m/kg đối
với cuộn đa.
Sợi Aramid có độ bền tốt (2750MPa), modul kéo cao hơn loại sợi E-glass và Sglass, hệ số biến đổi thấp nên dễ tạo ra sản phẩm có kích thước như thiết kế ban
đầu, có giá thành cao hơn, có tỉ trọng rấy thấp (bằng một nửa của sợi thủy tinh), có
những đặc tính kháng va đập và pháy hủy rất tốt, có độ bền nén và xé thấp nên
không được sử dụng để sản xuất các loại bình chứa khí nén.
111.1.3.
Sợi Carbon/Graphite
Sợi Carbon/Graphite có độ bền trong khoàng (2050 đến 5500MPa), modul cao
nhất (210 đến 830GPa), loại sợi này có giá thành cao nhất, tỉ trọng trung bình, độ
kháng va đập và phá hủy kém, có độ bền và độ cứng tốt nhất. Lượng graphit hóa
càng tăng làm tăng modul và độ dẫn điện - nhiệt cao hơn.
Cuộn sợi carbon cho phương pháp quấn sợi thường là loại 3000, 6000, 12000 và
50000 sợi. Mỗi cuộn sợi carbon dài 996, 498, 294 và 62m/kg. Sợi carbon không có
cuộn đa. Sợi carbon khác so với sợi thủy tinh và sợi armid, chúng giòn, dễ bị mài
mòn và gãy vỡ.
III.2.Một số loại nhựa
Nhựa đòng vai trò là chất nền gắn kết mọi thứ lại với nhau, cung cấp một cơ cấu
truyền tải giữa sợi. Bên cạnh đó, chất nền còn cung cấp độ kháng ăn mòn, bảo vệ
cho sợi khỏi sự phá hủy ở bên ngoài, tạo độ dai composite khi va đập bề mặt, cắt,
mài mòn và khi vận chuyển. Chất nền gồm nhiều lọai, sự lựa chọn phụ thuộc vào
cấu trúc hình thành, có tính thương mại, ảnh hưởng đến môi trường hoặc là ảnh
hưởng của môi trường đối với sản phẩm, đặc biệt khả năng kết dính với nhựa là đặc
tính quan trọng của chất nền. Một vài loại nhựa thông dụng dùng trong phương
pháp này là polyester, epoxy, vinyl ester, Bisphenol-A Fumarate, Chlorendic,
Phenolic. Trong đó polyester, epoxy, vinyl ester là ba loại nhựa sử dụng rộng rãi
nhất.
111.2.1.
Polyester
111.2.2.
Epoxy
Đây là loại nhựa được sử dụng rộng rãi, có độ bền tốt nhất, đóng rắn ở nhiệt độ
cao, có khả năng kháng hóa chất tốt, độ nhớt cao, giá thành cao hơn.
111.2.3.
Vinyl Ester
Lọai nhựa này là sự kết hợp của epoxy và polyester, khả năng kháng ăn mòn cực
kì tốt, giá thành cao, có những độ bền và dai rất tốt, được sử dụng
rộng rãi cho những sản phẩm FRP chống ăn mòn.
111.2.4.
Bisphenol-A Fumarate, Chlorendic:
Đây là loại nhựa có khả năng chống ăn mòn tốt trong điều kiện môi trường khắc
nghiệt, có giá thành cao, khả năng chịu được nhiệt độ cao...
111.2.5.
Phenolic:
Lọai nhựa này có đặc tính kháng cháy cực kì tốt, độ phát tán khói thấp, có
giá thành cao, độ giãn dài thấp, có độ bền trung bình, ứng dụng vào lĩnh vực
chống cháy.
Bảng tóm tắt các loại nhựa ứng dụng trong một số lĩnh vực như sau:
Công nghệ
Loại nhựa
Aên mòn
Polyester (mạch thẳng hoặc mạch
nhánh), Vinyl ester
Polyester (mạch thẳng hoặc mạch
nhánh), Vinyl ester, Epoxy, Phenolic
Dầu mỏ
Epoxy, Phenolic
Giấy và bột giấy
Vinyl ester, Epoxy
Cơ sở hạ tầng, dân dụng
Polyester (mạch thẳng hoặc mạch
nhánh), Vinyl ester, Epoxy
Bình chứa khí nén
Polyester (mạch thẳng hoặc mạch
nhánh), Vinyl ester, Epoxy
Không gian vũ trụ, hàng không
Epoxy, Bismelamide (BMI), Phenolic,
Vinyl ester
Hàng hải
Epoxy
Thể thao và giải trí
Epoxy
III.3. Chất phụ gia
III.3. Chất phụ gia
Bằng cách sử dụng những loại phụ gia khác nhau trong nhựa mà có thể tạo ra
những đặc tính sản phẩm thích hợp.
Chất độn là phụ gia có nhiều nhất trong hỗn hợp nhựa nền. Lọai chất độn thông
dụng nhất là calcium carbonate, alumina silicate (clay) và alumina trihydrate.
Calcium carbonate dùng để tăng thể tích tạo ra một loại nhựa nền có giá thành
thấp. Alumina trihydrate là lọai phụ gia tạo ra khả năng chống cháy và ngăn chặn
sự tạo khói. Chất độn có thể trộn vào nhựa nền với hàm lượng trên 50% trổng hàm
lượng nhựa (một chất độn trên một nhựa hay tỉ lệ 1:1). Sự giới hạn thể tích tông
thường dựa trên độ nhớt, điều này phụ thuộc kích thước hạt và đặc tính của nhựa.
Ngoài ra còn một số chất phụ gia khác như: chất chống tia UV để cung cấp độ bền
thời tiết cho sản phẩm, antimony oxide tăng độ kháng cháy, bột màu cung cấp màu
sắc cho sản phẩm và chất hỗ trợ bề mặt giúp bề mặt sản phẩm bóng đẹp...
IV.THIÉT BỊ
IV.
1.Lõi (Trục quấn)
Các lõi có cấu trúc hình học dựa vào hình dạng của vật. Nhưng nó phải đạt
được những điều kiện là không đóng rắn trong quá trình quấn và không biến dạng
trong quá trình đóng rắn.
Lõi có thể phân làm nhiều loại : cố định. có thể sử dụng nhiều lần, có thể tháo rời...
IV.
1.1.Lõi cố định
Được sử dụng cho những can thùng chịu áp suất. Đó là sự kết hợp giữa tính
chịu lực, chống thấm ướt của kim loại và ưu điểm tỷ trọng nhẹ của composite.
Những sản phẩm này dùng để chứa các loại khí có áp suất cao và trọng lượng phân
tử nhỏ như: Hellium, Hydrogen... mà không bị rò rĩ. điều này cho thấy rằng lớp kết
nối trở thành một phần quan trọng của loại vật liệu chịu áp suất này.
Hình 10: Lõi bằng kim loại
IV.
1.2.Lõi có the tháo rời.
Lõi cát có thể hoà tan trong nước. sau khi đóng rắn định hình sản phẩm thì lõi
được xịt nước và tan ra.
Lõi bằng thạch cao, chân nhện (như hình 2, 3). Sản phẩm sau khi đóng rắn
được tách rời bằng cách gập khuông chân nhện và tháo lõi, thạch cao làm thẩm
mỹ và tạo hình cho sản phẩm.
Hình 11: LÕI CHÂN NHỆN ĐƯỢC TRÉT THẠCH CAO
Hình 12: Lõi bằng chân nhện
- Xem thêm -