Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luận văn tội phạm do người nước ngoài thực hiện trên địa bàn các tỉnh miền trung...

Tài liệu Luận văn tội phạm do người nước ngoài thực hiện trên địa bàn các tỉnh miền trung tây nguyên tình hình, nguyên nhân và điều kiện, phòng ngừa

.PDF
93
91
86

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐỖ ĐÌNH TUẤN TỘI PHẠM DO NGƯỜI NƯỚC NGOÀI THỰC HIỆN TRÊN ĐỊA BÀN CÁC TỈNH MIỀN TRUNG - TÂY NGUYÊN: TÌNH HÌNH, NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN, PHÒNG NGỪA LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI, năm 2020 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ĐỖ ĐÌNH TUẤN TỘI PHẠM DO NGƯỜI NƯỚC NGOÀI THỰC HIỆN TRÊN ĐỊA BÀN CÁC TỈNH MIỀN TRUNG - TÂY NGUYÊN: TÌNH HÌNH, NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN, PHÒNG NGỪA Chuyên ngành: Tội phạm học và Phòng ngừa tội phạm Mã số: 838.01.05 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ĐINH THẾ HƯNG HÀ NỘI, năm 2020 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của cá nhân tôi. Những tài liệu, số liệu sử dụng trong luận văn này được thu thập và phản ánh chính xác theo các hồ sơ, tài liệu của các đơn vị nghiệp vụ của Lực lượng Công an nhân dân, Quân đội nhân dân và Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng hiện đang quản lý, sử dụng. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Đỗ Đình Tuấn MỤC LỤC MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1. TÌNH HÌNH TỘI PHẠM DO NGƯỜI NƯỚC NGOÀI THỰC HIỆN TRÊN ĐỊA BÀN CÁC TỈNH MIỀN TRUNG - TÂY NGUYÊN TRONG GIAI ĐOẠN 2014 – 2019 .............................................................................................. 6 1.1. Nhận thức chung về NNN phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam ...................................6 1.2. Đánh giá về phần ẩn của tình hình tội phạm do NNN thực hiện trên địa bàn các tỉnh miền Trung – Tây Nguyên giai đoạn 2014 - 2019 ...................................................9 1.3. Đánh giá về phần hiện của tình hình tội phạm do NNN thực hiện trên địa bàn các tỉnh miền Trung – Tây Nguyên giai đoạn 2014 – 2019 ..........................................16 1.4. Một số vụ án hình sự do người nước ngoài thực hiện tại địa bàn các tỉnh miền Trung – Tây Nguyễn đã được Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm giai đoạn 2015 - 2019 ........................................................................................... 29 CHƯƠNG 2. NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM DO NGƯỜI NƯỚC NGOÀI THỰC HIỆN TRÊN ĐỊA BÀN CÁC TỈNH MIỀN TRUNG – TÂY NGUYÊN TRONG GIAI ĐOẠN 2014 – 2019 .......40 2.1. Khái niệm về nguyên nhân và điều kiện của tình tội phạm ...................................40 2.2. Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm do NNN thực hiện trên địa bàn các tỉnh miền Trung – Tây Nguyên ........................................................................40 CHƯƠNG 3. PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH TỘI PHẠM DO NNN THỰC HIỆN TRÊN ĐỊA BÀN CÁC TỈNH MIỀN TRUNG – TÂY NGUYÊN ................55 3.1. Dự báo tình hình tội phạm do người nước ngoài thực hiện trên địa bàn các tỉnh miền Trung - Tây nguyên .............................................................................................. 55 3.2. Một số giải pháp phòng ngừa tội phạm do NNN thực hiện trên địa bàn các tỉnh miền Trung – Tây Nguyên ............................................................................................ 66 KẾT LUẬN ..................................................................................................................79 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ANQG: An ninh quốc gia ANTT: An ninh trật tự BLHS: Bộ luật hình sự CAND: Công an nhân dân XNC: Xuất nhập cảnh CQĐT: Cơ quan điều tra CSĐT: Cảnh sát điều tra ANĐT: An ninh điều tra NNN: Người nước ngoài VAHS: Vụ án hình sự VKSND: Viện kiểm sát nhân dân TAND: Tòa án nhân dân CHXHCN: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa T. T. Huế: Thừa Thiên Huế DANH MỤC CÁC BẢNG Số hiệu bảng 1.1. 2.1. 2.2. Tên bảng Bảng thống kê các vụ vi phạm pháp luật hình sự của NNN tại Việt Nam giai đoạn 2014 - 2019 Bảng thống kê số lượng nnn tạm trú tại các tỉnh miền Trung – Tây Nguyên giai đoạn 2014 – 2019 Số liệu NNN vi phạm XNC từ 01/01/2014-31/12/2019 Trang 17 42 44 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong những năm vừa qua, xuất phát từ chính sách ngoại giao của Đảng và Nhà nước, chủ trương tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới, mở cửa, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế để hội nhập và phát triển, thực hiện quan điểm Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên thê giới nhằm phát triển kinh tế trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Chúng ta đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 187 quốc gia và vùng lãnh thổ, là thành viên của 63 tổ chức quốc tế và có quan hệ ngoại giao với hơn 500 tổ chức phi chính phủ trên thế giới. Việc thực hiện chủ trương trên của Đảng đã đạt được nhiều thành tựu, góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội được giữ vững, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao, quan hệ của nước ta với các nước ngày càng được mở rộng. Trong bối cảnh đó, lượng người nước ngoài đến Việt Nam để công tác, học tập, lao động, tham quan, du lịch, nghiên cứu thị trường, đầu tư... ngày càng đông, với nhều thành phần, thuộc nhiều quốc gia, dân tộc khác nhau trên thế giới. Lượng người nước ngoài đông đảo đến Việt Nam cư trú, hoạt động đã tạo điều kiện cho chúng ta mở rộng giao lưu quốc tế, tiếp thu những thành tựu của khoa học kỹ thuật, nguồn vốn, tri thức của nước ngoài để xây dựng và phát triển đất nước. Tuy nhiên, bên cạnh những yếu tố tích cực đó, người nước ngoài đến Việt Nam cư trú, hoạt động cũng mang theo những mặt trái, tiêu cực ảnh hưởng đến đời sống văn hóa, xã hội cũng như nảy sinh nhiều hoạt động vi phạm pháp luật, thậm chí tội phạm xâm phạm đến an ninh, trật tự của đất nước. Tình hình tội phạm do NNN gây ra tại Việt Nam có nhiều diễn biến phức tạp, nhiều phương thức và thủ đoạn hoạt động mang tính chất tinh vi, xảo quyệt, ngày càng có xu hướng phát triển cả về tổng số vụ phạm tội và tính chất mức độ nghiêm trọng. Trước tình hình đó, công tác đấu tranh phòng chống tội phạm do NNN gây ra tại Việt Nam đã được Đảng, Nhà nước và các cơ quan chức năng đặc biệt quan tâm, chú ý. Địa bàn miền Trung - Tây Nguyên là địa bàn rộng lớn, dân số đông, nhiều thành phần dân tộc, có nhiều địa phương giáp ranh biên giới với Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào, có đường bờ biển dài, là đầu mối giao thông vận tải biển và là cửa ngõ giao lưu quốc tế đường bộ, nhiều cửa khẩu Cảng hàng không quốc tế, Cảng biển, nhiều nhà máy 1 xí nghiệp, khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế mở... với lượng người nước ngoài đến cư trú và hoạt động ngày càng tăng, chiếm tỉ lệ cao nhất cả nước. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, do nhiều nguyên nhân khác nhau tình hình tội phạm và vi phạm pháp luật của người nước ngoài trên địa bàn các tỉnh miền Trung – Tây Nguyên còn diễn biến phức tạp với những phương thức, thủ đoạn mới tinh vi hơn, xảo quyệt hơn. Từ thực trạng NNN phạm tội trên địa bàn, để giảm thiểu tình hình tội phạm, nguyên nhân và điều kiện phát sinh, đòi hỏi phải có nghiên cứu, tổng kết một cách toàn diện, đề ra được các giải pháp khắc phục, hạn chế, nâng cao hiệu quả công tác quản lý, đấu tranh với tội phạm NNN trong thời gian tới. Đây chính là lý do học viên lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Tội phạm do người nước ngoài thực hiện trên địa bàn các tỉnh miền Trung - Tây Nguyên: tình hình, nguyên nhân và điều kiện phòng ngừa” để làm luận văn Thạc sĩ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Hiện tại, chỉ có một số ít các công trình nghiên cứu liên quan đến tình hình NNN phạm tội, trong đó có đề tài khoa học cấp Nhà nước: “Những giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước nhằm đảm bảo an ninh trật tự của lực lượng Công an nhân dân trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” của đồng chí Thiếu tướng, Giáo sư, Tiến sỹ Nguyễn Phùng Hồng, Tổng biên tập tạp chí Khoa học Công an năm 2002, nghiên cứu về công tác quản lý Nhà nước đối với người nước ngoài cư trú, đi lại, hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam; Công trình nghiên cứu: “Công tác quản lý người nước ngoài nhập, xuất cảnh Việt Nam – Những kiến nghị nhằm đảm bảo an ninh quốc gia” của đồng chí Đại tá, Thạc sỹ Phan Quốc Thái – Phó Cục trưởng Cục Quản lý Xuất nhập cảnh năm 2000, nghiên cứu về công tác quản lý người nước ngoài xuất nhập cảnh; Luận án Tiến sĩ Luật của đồng chí Nguyễn Quỳnh Anh, cán bộ Học viện Cảnh sát nhân dân với đề tài: “Áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với mgười nước ngoài trong vụ án hình sự” năm 2017 với mục đích góp phần bổ sung, hoàn thiện lý luận về áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với NNN trong điều tra vụ án hình sự của cơ quan cảnh sát điều tra, đánh giá đúng thực trạng tội phạm do NNN gây ra ở Việt Nam và việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn, từ đó đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác điều tra vụ án hình sự của cơ quan điều tra. 2 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1 Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nhận thức lý luận về phòng ngừa tội phạm, phân tích, đánh giá tình hình, nguyên nhân của tình hình hình tội phạm, dự báo tình hình tội phạm do người nước ngoài thực hiện trên địa bàn các tỉnh miền Trung - Tây Nguyên, luận văn đề xuất các giải pháp và luận giải cho tính khả thi của các giải pháp phòng ngừa tội phạm do người nước ngoài thực hiện trên địa bàn các tỉnh miền Trung - Tây Nguyên trong thời gian tới. 3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục tiêu trên, luận văn sẽ thực hiện các nhiệm vụ sau đây: - Nghiên cứu tình hình tội phạm do NNN thực hiện trên toàn quốc trong những năm gần đây và trên địa bàn các tỉnh miền Trung – Tây Nguyên trong giai đoạn 2014 – 2019. - Nghiên cứu các nguyên nhân, điều kiện hình thành và đánh giá hiệu quả của các biện pháp phòng ngừa tội phạm do NNN thực hiện trên địa bàn của các chủ thể phòng ngừa tội phạm. - Nghiên cứu các dự báo về tình hình tội phạm của NNN trên địa bàn trong thời gian tới. - Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội phạm do NNN thực hiện trên địa bàn các tỉnh miền Trung – Tây Nguyên. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu của Đề tài là những vấn đề lý luận về tình hình, nguyên nhân của tình tình hình tội phạm, lý luận về phòng ngừa tội phạm nói chung và phòng ngừa tội phạm do người nước ngoài thực hiện trên địa bàn các tỉnh miền Trung- Tây Nguyên nói riêng. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn được nghiên cứu dưới góc độ Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm, tập trung vào tình hình tội phạm, nguyên nhân của tình hình tội phạm do người nước ngoài ngoài thực hiện trên địa bàn các tỉnh miền Trung – Tây Nguyên. Về thời gian: Từ năm 2014 đến năm 2019. Về địa bàn nghiên cứu: đề tài được nghiên cứu trên phạm vi 12 tỉnh thành thuộc miền Trung - Tây Nguyên. Luận văn không nghiên cứu NNN được hưởng các quyền ưu đãi miễn trừ về ngoại giao, lãnh sự, tổ chức quốc tế trên địa bàn. Không nghiên cứu người nước ngoài 3 phạm tội trên tàu bay, tàu thủy mang quốc tịch Việt Nam đang hoạt động ngoài lãnh thổ Việt Nam. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Đề tài luận văn Thạc sĩ được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận là chủ nghĩa duy vật biện chứng – duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, các quy định của ngành Công an về công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm, bảo vệ ANQG. Luận văn cũng dựa trên cơ sở lý luận của tội phạm học và phòng ngừa tội phạm. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu của tội phạm học và phòng ngừa tội phạm như: phương pháp phân tích tổng hợp, thống kê, so sánh, tiếp cận hệ thống và phương pháp chuyên gia kết hợp với lý luận về khoa học luật Hình sự, khoa học điều tra hình sự. Cụ thể: - Sử dụng phương pháp thống kê hình sự để nắm các số liệu về tình hình tội phạm do NNN thực hiện ở Việt Nam nói chung và ở địa bàn nghiên cứu nói riêng, kết quả phát hiện, điều tra, xử lý các tội phạm đó, căn cứ trên các báo cáo sơ kết, tổng kết, các báo cáo chuyên đề của lực lượng phòng chống tội phạm trong CAND, lực lượng Quản lý XNC của Công an nhân dân, Quân đội nhân dân. - Sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh kết hợp phương pháp thống kê để phân tích, tổng hợp, so sánh số liệu từ các nguồn khác nhau, qua đó đánh giá được thực trạng công tác hồ sơ, ghi chép, thống kê, lưu trữ thông tin, tài liệu của các lực lượng trong đấu tranh, phòng chống tội phạm, thực trạng tình hình tội phạm do NNN thực hiện trên địa bàn nghiên cứu, từ đó đưa ra những nhận xét, đánh giá về công tác kiểm tra, kiểm soát NNN nhập cảnh vào Việt Nam, tình hình công tác ngăn chặn, đấu tranh, xử lý tội phạm do NNN thực hiện. - Sử dụng phương pháp điều tra điển hình, thu thập, nghiên cứu, phân tích hồ sơ vụ án do NNN gây ra tại địa bàn nghiên cứu từ Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, các hồ sơ lưu trữ vụ án tại CQĐT Công an địa phương, Cục điều tra hình sự Bộ Quốc Phòng, hồ sơ vụ việc tại các đơn vị Công an cửa khẩu quốc tế, Biên phòng cửa khẩu quốc tế.... từ đó khái quát các đặc điểm chung nhất về tội phạm do NNN gây ra, thực trạng điều tra xử lý và chuyển hướng xử lý. - Sử dụng phương pháp tọa đàm, trao đổi, lấy ý kiến chuyên gia để nghiên cứu 4 chuyên sâu, góp phần hoàn thiện luận văn, trao đổi xin ý kiến của người hướng dẫn khoa học, các đồng chí Lãnh đạo, chỉ huy lực lượng Quản lý XNC của Cục Quản lý Xuất nhập cảnh – Bộ Công an (A08), Cục cửa khẩu – Bộ Tư lệnh Bộ đội biên phòng, các điều tra viên có kinh nghiệm của lực lượng phòng chống tội phạm trong Công an, Quân đội, Hải quan.... 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Đây là công trình đầu tiên ở Việt Nam nghiên cứu về phòng ngừa tội phạm do người nước ngoài thực hiện trên địa bàn các tỉnh miền Trung - Tây Nguyên có ý nghĩa đối với lý luận và thực tiễn như sau: 6.1. Ý nghĩa lý luận Vận dụng và cụ thể hóa lý luận của tội phạm học và phòng ngừa tội phạm nói chung vào để giải quyết vấn đề phòng ngừa tội phạm của đối tượng cụ thể là người nước ngoài phạm tội trên địa bàn cụ thể là các tỉnh miền Trung- Tây Nguyên. Thông qua đó có ý bổ sung, làm phong phong phú cho kho tàng lý luận của tội phạm học và phòng ngừa tội phạm ở Việt Nam. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Thông qua việc vận dụng lý luận của tội phạm học và phòng ngừa tội phạm, luận văn đánh giá tình hình tội phạm, chỉ ra nguyên nhân của tình hình tội phạm do người nước ngoài thực hiện trên địa bàn miền Trung - Tây Nguyên, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm hạn chế tình hình tội phạm, các hành vi vi phạm pháp luật hình sự Việt Nam của NNN. Với ý nghĩa đó, luận văn cung cấp luận cứ khoa học cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xây dựng, triển khai các biện pháp phòng ngừa có hiệu quả tính hình tội phạm do người nước ngoài thực hiện trên địa bàn miền Trung- Tây Nguyên nói riêng và cả nước nói chung. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được cấu trúc gồm 03 chương: Chương 1: Tình hình tội phạm do người nước ngoài thực hiện trên địa bàn các tỉnh miền Trung - Tây Nguyên trong gian đoạn 2014 – 2019. Chương 2: Nguyên nhân của tình hình tội phạm do người nước ngoài thực hiện trên địa bàn các tỉnh miền Trung - Tây Nguyên trong gian đoạn 2014 – 2019. Chương 3: Các điều kiện phòng ngừa tình hình tội phạm do người nước ngoài thực hiện trên địa bàn các tỉnh miền Trung - Tây Nguyên. 5 CHƯƠNG 1 TÌNH HÌNH TỘI PHẠM DO NGƯỜI NƯỚC NGOÀI THỰC HIỆN TRÊN ĐỊA BÀN CÁC TỈNH MIỀN TRUNG - TÂY NGUYÊN TRONG GIAI ĐOẠN 2014 – 2019 1.1. Nhận thức chung về NNN phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam 1.1.1. Khái niệm người nước ngoài Việc xác định NNN trên thế giới hiện nay thường được phân chia theo hai trường phái: nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng, người nước ngoài là tất cả những người không có quốc tịch của nước sở tại. Tức là những người đang cư trú tại một quốc gia nhưng mang quốc tịch của một quốc gia khác và những người không có quốc tịch hoặc quốc tịch chưa xác định. Khái niệm này được nêu trong pháp luật của nhiều quốc gia như Canada, Ailen, Ba Lan… Theo nghĩa hẹp, NNN là người có quốc tịch của một quốc gia nước ngoài nhưng không phải là công dân của nước sở tại. Theo nghĩa này, những người không có quốc tịch hoặc quốc tịch chưa xác định sẽ không thuộc diện người nước ngoài. Đồng thời trong những trường hợp người có nhiều quốc tịch, trong đó có quốc tịch nước sở tại thì mặc nhiên được coi là công dân nước sở tại mà không phải là người nước ngoài. Khái niệm này thường được nêu trong pháp luật của các quốc gia thừa nhận chế độ tồn tại song song của hai hay nhiều quốc tịch như Anh, Pháp, Úc, Hoa Kỳ... Còn đối với Việt Nam, từ trước đến nay trong các văn bản pháp luật của Nhà nước cũng tồn tại nhiều thuật ngữ khác nhau dùng để chỉ NNN như: “Người ngoại quốc”, “Ngoại kiều”… Đến năm 1993, Pháp lệnh về việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài đã xác định: “ Người nước ngoài là người không có quốc tịch Việt Nam, có quốc tịch nước ngoài hoặc không có quốc tịch”. Từ năm 2000 đến nay, theo Điều 3 Pháp lệnh số 24/1999/PL-UBTVQH10 về Nhập cảnh, xuất cảnh, cư trú của NNN tại Việt Nam được Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 10 thông qua ngày 28/04/2000 (gọi tắt là Pháp lệnh năm 2000) đã xác định: “Người nước ngoài là người không có quốc tịch Việt Nam”. Đây là cơ sở pháp lý để xác định NNN của Việt Nam hiện nay, tuy nhiên trên thực tế việc vận dụng cơ sở pháp lý này để xác định vẫn còn gặp nhiều khó khăn, nhất là trường hợp người Việt Nam định cư ở nước ngoài mang quốc tịch nước sở tại nhưng chưa thôi quốc tịch Việt Nam… Mặt khác khi xác định NNN, chúng ta không chỉ căn cứ vào cơ sở pháp lý mà còn phải xem xét, đánh giá một 6 cách cụ thể trong mối quan hệ giữa con người với xã hội cũng như các yếu tố tác động qua lại, nhất là yếu tố cư trú, hoạt động tại Việt Nam… Luật số 47/2014/QH13 được Quốc hội khóa 13 nước CHXHCN Việt Nam ban hành ngày 16/06/2014 đã khẳng định: “Người nước ngoài là người mang giấy tờ xác định quốc tịch nước ngoài và người không quốc tịch nhập cảnh, xuất cảnh, quá cảnh, cư trú tại Việt Nam”. Theo quy định của luật quốc tế, người nước ngoài được hiểu đó là: Người không mang quốc tịch của quốc gia nơi mà mình sinh sống. Nếu theo quy định này chúng ta thấy: một người có thể có một quốc tịch, cũng có thể có hai hay nhiều quốc tịch, và cũng có thể một người không có quốc tịch của một quốc gia nào, họ chỉ trở thành người nước ngoài khi họ hoặc không mang quốc tịch của nước sở tại họ đang sinh sống hoặc họ là người không có quốc tịch. Pháp luật của mỗi nước quy định về địa vị pháp lý của người nước ngoài phù hợp với các nguyên tắc cơ bản và những quy phạm của luật quốc tế và những điều ước quốc tế mà nước đó là thành viên, theo quy định của Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lý được ký kết giữa nước đó và các nước thành viên khác. Trong thực tế, NNN đến Việt Nam cư trú, hoạt động với rất nhiều lý do, mục đích khác nhau, thời hạn cư trú của họ có thể ngắn hoặc dài và được hưởng những quyền ưu đãi, miễn trừ khác nhau. Để tạo điều kiện thuận lợi cho NNN cư trú, hoạt động tại Việt Nam và công tác quản lý NNN tại Việt Nam, Pháp luật đã quy định có 02 nhóm người như sau: - Nhóm người thường trú: Là những NNN cư trú không thời hạn tại Việt Nam, gồm người lưu trú, lao động, đầu tư, làm ăn, sinh sống lâu dài ở Việt Nam như: Ngoại kiều, người tị nạn. Theo quy định của Pháp luật, họ được Cục Quản lý Xuất nhập cảnh – Bộ Công an cấp thẻ thường trú. - Nhóm người tạm trú: Là NNN cư trú có thời hạn tại Việt Nam. Tuy nhiên căn cứ vào việc được hưởng các quy chế ưu đãi, hạn chế của luật Quốc tế và pháp luật Việt Nam, nhóm người này được phân chia thành hai loại: + Nhóm những người được hưởng quy chế ngoại giao và quy chế tương tự, hay còn gọi là những người được hưởng quyền ưu đãi về miễn trừ ngoại giao, lãnh sự, tổ chức quốc tế. + Nhóm người được hưởng quy chế ưu đãi nhưng không thuộc quy chế ngoại giao, lãnh sự, tổ chức quốc tế như: chuyên gia, lưu học sinh, nhà đầu tư, khách du lịch… 7 Theo quy định, những người thuộc diện này được cơ quan Quản lý Xuất nhập cảnh – Bộ Công an cấp thẻ tạm trú hoặc giấy chứng nhận tạm trú. NNN cư trú trên lãnh thổ quốc gia đồng thời chịu sự điều chỉnh của hệ thống pháp luật quốc gia sở tại và hệ thống pháp luật của quốc gia mà họ mang quốc tịch. Trong một số trường hợp, quyền và nghĩa vụ của NNN trên lãnh thổ quốc gia còn được quy định trong các điều ước quốc tế được kí kết giữa các quốc gia hoặc tập quán quốc tế. Ở Việt Nam, Hiến pháp năm 2013, Luật Quốc tịch năm 2018 và các văn bản quy phạm pháp luật khác đã được ban hành nhằm điều chỉnh các vấn đề về dân cư. Nhà nước ta cũng đã ký nhiều điều ước quốc tế như các Hiệp định lãnh sự, Hiệp định tương trợ tư pháp trong các vụ việc dân sự, hôn nhân gia đình và hình sự, tham gia các Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị, Công ước quốc tế về các quyền kinh tế - xã hội và văn hóa năm 1966… góp phần nâng cao hiệu quả của việc điều chỉnh pháp lý về các vấn đề dân cư nói chung và NNN nói riêng. Việc phân chia NNN cư trú theo các nhóm nói trên có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định phạm vi, địa bàn cư trú, lĩnh vực hoạt động cũng như công tác phòng ngừa, ngăn chặn, đấu tranh và xử lý tội phạm do NNN thực hiện. 1.1.2. Khái niệm về người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam Hiện nay trong khoa khoa học pháp lý hình sự chưa có khái niệm về người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam. Để xác định tội phạm do người nước ngoài thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam cần dựa vào quy định của Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017). Cụ thể là Điều 5 BLHS 2015 về Hiệu lực của BLHS. Người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam trước hết phải là người nước ngoài được xác định trên ccơ sở luật quốc tịch. Bên cạnh đó, người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ Việt nam còn phải đảm bảo các điều kiện sau: Thứ nhất, họ phạm một tội được quy định trong BLHS Việt Nam hoặc được quy định trong luật hình sự quốc tế. Điều đó có nghĩa nếu người nước ngoài thực hiện hành vi mà luật hình sự Việt Nam hoặc luật hình sự quốc tế không quy định là tội phạm thì họ không được coi là phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam. Thứ hai, họ phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam. Lãnh thổ Việt Nam theo Bộ luật Hình sự Việt Nam được hợp thành bởi ba bộ phận: + Lãnh thổ có thực: bao gồm vùng đất, vùng nước, vùng trời thuộc chủ quyền của Việt Nam. + Lãnh thổ mở rộng: Tàu thủy mang cờ hiệu của Việt Nam đang ngoài vùng 8 biển quốc tế, máy bay dân dụng mang cờ hiệu của Việt Nam trên đường bay. Tàu chiến, máy bay quân sự của Việt Nam đang ở bất cứ nơi nào. + Lãnh sự quán, Đại sứ quán của Việt Nam ở nước ngoài. Hành vi được coi là phạm tội xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam nếu bắt đầu hoặc kết thúc hoặc diễn ra trọn vẹn trong phạm vi không gian nói trên. Tuy nhiên, đối với đối tượng là người nước ngoài được hưởng các quyền ưu đãi và miễn trừ ngoại giao là trường hợp ngoại lệ được quy định tại Khoản 2 Điều 3 Bộ luật Hình sự: “Đối với người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thuộc đối tượng được hưởng các quyền miễn trừ ngoại giao hoặc quyền ưu đãi và miễn trừ về lãnh sự theo pháp luật Việt Nam, theo các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia hoặc theo tập quán quốc tế, thì vấn đề trách nhiệm hình sự của họ được giải quyết bằng con đường ngoại giao”. Như vậy, Bộ luật hình sự có các quy định ngoại lệ đối với các đối tượng được hưởng quyền miễn trừ tư pháp với hai nhóm như sau: + Theo pháp luật Việt Nam, theo hiệp định Quốc tế mà Việt Nam tham gia thì những đối tượng được hưởng các đắc quyền ngoại giao là thành viên của đoàn ngoại giao trở lên. + Theo thông lệ quốc tế thì vợ hoặc chồng hoặc con chưa thành niên của những người kể trên cũng được hưởng quyền miễn trừ tư pháp. Trên thế giới hiện nay còn có quan điểm cho rằng tội phạm người nước bao gồm người nước ngoài phạm tội mà tội đó được quy định trong luật hình sự quốc gia hoặc tội đó được quy định trong luật hình sự quốc tế. Trong phạm vi luận văn, cá nhân tôi chỉ nghiên cứu đối tượng nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ Việt nam và tội phạm đó được quy định trong BLHS Việt Nam. Từ phân tích về người nước ngoài và người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam có thể đưa ra định nghĩa như sau: “Người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ Việt Nam là công dân, pháp nhân nước ngoài thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự Việt Nam quy định là tội phạm và tội phạm đó được thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam”. 1.2. Đánh giá về phần ẩn của tình hình tội phạm do NNN thực hiện trên địa bàn các tỉnh miền Trung – Tây Nguyên giai đoạn 2014 - 2019 1.2.1. Khái niệm tình hình tội phạm ẩn: Tình hình tội phạm ẩn (tiếng La tinh: Lantens, Latentis là tiềm ẩn, không thấy 9 được) là một bộ phận hiện thực, nhưng tiềm ẩn hoặc không được thống kê của các tội phạm đã thực hiện trên thực tế. Tình hình tội phạm thực tế thông thường cao hơn nhiều lần tình hình tội phạm được hệ thống tư pháp hình sự biết đến, còn tình hình tội phạm được hệ thống tư pháp hình sự biết đến là một bộ phận của tình hình tội phạm đã được đăng ký (thống kê) và xét xử. Hệ số chênh lệch giữa tình hình tội phạm đã được thống kê và tình hình tội phạm trên thực tế tạo thành tình hình tội phạm ẩn. Ở một số nước, trong đó có Liên bang Nga, tình hình tội phạm ẩn cao hơn nhiều lần so với tình hình tội phạm thống kê. Các loại tội phạm ẩn tồn tại theo cơ chế hình thành như sau: - Các tội phạm không trình báo: Các loại tội phạm đã được thực hiện, nhưng những người bị hại, người làm chứng, những người có chức vụ, quyền hạn và các công dân khác có mối quan hệ với tội phạm đã được thực hiện, họ là những người chứng kiến (nhân chứng) của các tội phạm đó hoặc họ là những người hiểu biết về các tội phạm đó, nhưng không thông báo điều đó cho các cơ quan bảo vệ pháp luật. - Các tội phạm không được thống kê: Các tội phạm được các cơ quan bảo vệ Pháp luật hiếu biết (có các lý do và các cơ sở đế đăng ký các tội phạm và khởi tố vụ án hình sự), nhưng không được đăng ký và không đuợc điều tra. - Các tội phạm không được xác minh (chứng minh): Các tội phạm đã được trinh báo, đã được đăng ký, đã được điều tra, nhưng vì thái độ thiếu trách nhiệm của các cán bộ điều tra, truy tố, xét xử, vì trình độ nghề nghiệp yếu kém, nghiệm vụ hình sự sai lầm của họ và các nguyên nhân khác mà không chứng minh đuợc sự kiện hoặc cấu thành tội phạm trong hành vì đã được thực hiện. Thông thường, không thể biết được một cách chính xác các quy mô của tình hình tội phạm ẩn. Các quy mô đó được xác định bằng việc áp dụng các phương pháp xã hội học, thống kê và phân tích khác nhau (phân tích so sánh các chỉ số có mối liên hệ vói nhau của thống kế hình sự; so sánh các dữ liệu của thống kế hình sụ với số liệu của các vi phạm hành chính và kỷ luật, với số liệu của các cơ sở y tế về sự trợ giúp về lý do gây ra thương tích hoặc tổn hại cho thân thể với việc thống kê các đơn, thư kiến nghị, khiếu nại, tố cáo đến các cơ quan bảo vệ pháp luật và các cơ quan nhà nước khác; phỏng vấn các công dân, những người bị kết án và những người chấp hành hình phạt trong các trại giam; đánh giá thẩm định của các chuyên gia ...). Người ta cho rằng, loại tội phạm nghiêm trọng nhất thì hệ số ẩn của nó thấp nhất. Tồn tại sự phụ thuộc như vậy, nhưng sự phụ thuộc đó không phải là tuyệt đối. Ví 10 dụ chứng minh cho điều đó có thế là chính các tội phạm nghiêm trọng - các tội cố ý giết người được che đậy bằng các trường hợp bất hạnh, cái chết tự nhiên, sự biến mất không rõ ràng của con người... Theo một số nghiên cứu quốc tế, các tội phạm không trình báo tạo nên gần 50% và lớn hơn từ tổng số các tội phạm đã thực hiện trên thực tế. Ở các nước phát triển theo một số loại tội phạm cụ thể (ví dụ tội hiếp dâm, tội lừa đảo khách hàng, tội trộm cắp tài sản có giá trị không lớn...) phần tội phạm không được trình báo có thể lớn hơn rất nhiều. Các tội phạm không trình báo về cơ bản gắn liền với sự thiếu tin tưởng của công dân và nạn nhân của tội phạm đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật; sự không tin tưởng vào khả năng làm sáng tỏ tội phạm và bảo vệ người trình báo; với sự không mong muốn liên quan với Công an, Cảnh sát, với nguy cơ bị trả thù từ phía những người phạm tội; với việc không muốn loan truyền sự kiện bị xâm hại (ví dụ: hiếp dâm); với việc ký kết hợp đồng thỏa hiệp với người phạm tội; với việc không hiểu biết rằng họ đa trở thành nạn nhân của tội phạm, và với các nguyên nhân khác. Các tội phạm không được đăng ký mang tính chất phổ biến toàn cầu, nhưng do các nguyên nhân lịch sử và các nguyên nhân khác mà chúng cũng được phổ biến rộng rãi ở Việt Nam. Một số loại tội phạm có mức độ không thống kê (đăng ký) rất cao. Có nhiều nguyên nhân và lý do của việc thống kê không đầy đủ tình hình tội phạm, đó là: + Khả năng kiểm soát yếu kém của Công an và các cơ quan bảo vệ pháp luật khác đối với tình hình tội phạm (trong đó có cả bệnh thành tích). + Các cơ quan bảo vệ pháp luật không có khả năng khắc phục sự gia tăng của tình hình tội phạm. + Các cơ quan bảo vệ pháp luật từ chối làm sáng tỏ các vụ án hình sự phức tạp. + Thiếu tính tổng thể (hệ thống) về cán bộ và kỷ luật của hệ thống bảo vệ pháp luật. + Sự yếu kém trong nghề nghiệp của cán bộ cơ quan bảo vệ pháp luật. + Tình trạng tham nhũng và lạm quyền phổ biến trong hệ thống tư pháp hình sự … 1.2.2. Đánh giá về phần ẩn của tội phạm do NNN thực hiện trên địa bàn các tỉnh miền Trung – Tây Nguyên giai đoạn 2014 – 2019 - Trên địa bàn các tỉnh miền Trung – Tây Nguyên trong giai đoạn 2014 - 2019, tình hình tội phạm ẩn có tỉ lệ cao so với tình hình tội phạm được thống kê: NNN đến Việt Nam nói chung và đến địa bàn các tỉnh miền Trung – Tây 11 Nguyên nói riêng với nhiều lý do và mục đích khác nhau, đa dạng và phong phú, trong đó đông nhất là vào với mục đích du lịch và người nước ngoài gốc Việt Nam vào với mục đích thăm thân. Ngoài ra họ còn đến Việt Nam để làm việc trong các văn phòng đại diện, tiến hành những hoạt động từ thiện, nhân đạo, hoạt động trong các cơ quan thông tấn báo chí, vô tuyên truyền hình, xuất bản, phim ảnh, nghệ thuật, khoa học - kỹ thuật, y tế, giáo dục – đào tạo, dự các hội nghị, hội thảo, tham gia triển lãm, các hoạt động văn hóa thể thao, nhận con nuôi, kết hôn... Trong số này đáng chú ý là một bộ phận NNN vào làm việc trong các tổ chức phi chính phủ (Non-Governmental Organizations, gọi tắt là NGOs) nước ngoài tại Việt Nam. Trong những năm gần đây, các tổ chức NGOs nước ngoài tại Việt Nam vừa tăng về số lượng, vừa mở rộng địa bàn và phạm vi hoạt động, xâm nhập vào hầu hết các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa... của nước ta. Theo số liệu của Cục An ninh đối ngoại (A01) - Bộ Công an, trên địa bàn các tỉnh miền Trung – Tây Nguyên giai đoạn 2014 – 2019 đã có hàng ngàn dự án được triển khai trên nhiều lĩnh vực như y tế, giáo dục, phát triển kinh tế xã hội, tài nguyên – môi trường... phần lớn vẫn là các tổ chức NGOs của Mỹ. Đây là vấn đề đáng quan tâm đối với công tác bảo vệ ANQG, nhất là an ninh chính trị nội bộ trong tình hình hiện nay, bởi vì các tổ chức này chính là một công cụ quan trọng mà các thế lực thù địch nước ngoài, đặc biệt là Mỹ thường xuyên sử dụng để thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình” đối với cách mạng nước ta. NNN nhập cảnh Việt Nam với nhiều thành phần, ngày càng phức tạp hơn, đại bộ phận trong số họ có cảm tình với Việt Nam, nhập cảnh, cư trú và hoạt động với mục đích chính đáng, nhưng cũng có một bộ phận bất đồng chính kiến với Đảng, Nhà nước ta. Đặc biệt thời gian gần đây, một số đối tượng có tư tưởng, hành động chống đối xin nhập cảnh vào Việt Nam dưới danh nghĩa thành viên của các tổ chức bảo vệ tự do, dân chủ, nhân quyền để thảo luận, hội thảo với các cơ quan, tổ chức trong nước; gặp gỡ, tiếp xúc với các phần tử cơ hội chính trị, thực chất là tìm cách liên kết lực lượng trong ngoài để phá hoại cách mạng nước ta. Các cơ quan đặc biệt nước ngoài thường xuyên cài cắm người vào các cơ quan thường trú, lâm thời tại Việt Nam, lợi dụng danh nghĩa công khai của các cơ quan, tổ chức này để tiến hành các hoạt động thu thập tình báo, từng bước chuyển hóa bên trong theo phương thức “Diễn biến hòa bình” đối với nước ta. Mục đích của chúng là xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, lật đổ chế độ XHCN ở nước ta, đưa Việt Nam đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Hoạt động của chúng nhận được sự chỉ đạo, tiếp sức cả về vật chất và tinh thần của các thế lực thù địch bên ngoài, được 12 che giấu bởi các vỏ bọc công khai và hợp pháp. Theo tài liệu của Cục Bảo vệ chính trị nội bộ - Bộ Công an, đến năm 2018, trong số hơn 2000 nhân viên NNN đang làm việc tại các cơ quan thường trú, lâm thời tại Việt Nam như: Đại sứ quán, Tổng lãnh sự quán, Văn phòng Thông tấn, kinh tế, báo chí; Tổ chức kinh tế của các nước; Tổ chức phi chính phủ (NGOs); Tổ chức quốc tế và Liên hợp quốc... tại địa bàn các tỉnh miền Trung – Tây Nguyên, ta đã phát hiện gần 100 đối tượng là nhân viên các cơ quan đặc biệt nước ngoài có hoạt động xâm phạm ANQG, trong đó có đối tượng nằm trong các vụ án do cơ quan An ninh điều tra đang đấu tranh. Phương thức, thủ đoạn của các đối tượng này là lợi dụng vị thế của các cơ quan thường trú, lâm thời và các văn phòng đại diện để thâm nhập sâu vào nội bộ ta trên tất cả các lĩnh vực, thực hiện các nhiệm vụ mà cơ quan đặc biệt giao cho chúng. Đáng chú ý là, trong thời gian gần đây các thế lực thù địch nước ngoài, đặc biệt là Mỹ đã triệt để sử dụng các tổ chức phi chính phủ nước ngoài (NGOs) như là một công cụ để thực hiện kế hoạch “Diễn biến hoà bình” đối với nước ta. Hoạt động xâm phạm ANQG của các đối tượng trong các tổ chức phi chính phủ nước ngoài (NGOs) diễn ra trên tất cả cảc lĩnh vực của đời sống xã hội, thâm nhập sâu vào nội bộ các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị, kinh tế, xã hội, các vùng trọng điểm về an ninh, quốc phòng của đất nước ta. Nổi lên trong số này là “Đội Hoà bình” (Peace Corps, gọi tắt là PC), là tổ chức độc lập theo nhánh hành pháp của Chính phủ Mỹ. Trước năm 1975, PC đã triển khai hoạt động hầu như khắp các địa phương ở miền Nam Việt Nam dưới tên gọi “Tình nguyện viên quốc tế”, thực chất là phục vụ cho kế hoạch “Bình định nông thôn” của Mỹ Ngụy. Sau năm 1975, PC đã nhiều lần xin vào Việt Nam nhưng đều bị ta từ chối. Từ năm 2005, để tranh thủ Quốc Hội Mỹ thông qua quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn với Việt Nam (PNTR), Chính phủ ta đã đồng ý cho PC vào Việt Nam. Mục tiêu chính trị của PC tại Việt Nam được thể hiện qua thư của giáo sư Fullbright, cựu tình nguyện viên của PC, gửi Đại sứ Mỹ tại Hà Nội như sau: “Điều tốt nhất mà PC có thể làm không phải là dạy tiếng Anh hay đưa công nghệ đến giúp người nghèo… mà là thay đổi văn hoá của Việt Nam thông qua giáo dục khoa học, thí nghiệm, đầu tư công nghệ tại các cấp học bằng tiền của Việt Nam; thành lập các tổ chức và các câu lạc bộ trong sinh viên để trao quyền cho họ, tiếp cận các quyền công dân…”. Các tổ chức phản động người Việt trong và ngoài nước thông qua đường xuất nhập cảnh công khai, hợp pháp để liên kết lực lượng, tiến hành các hoạt động xâm phạm ANQG. Nổi lên trong số này là tổ chức “Việt Tân” với ý để thực hiện “cách mạng màu” ở Việt Nam. Thông qua đường xuất, nhập cảnh công 13 khai, chúng đã đưa nhiều người vào nước ta để móc nối xây dựng cơ sở, tập hợp lực lượng nhằm hình thành tổ chức chính trị đối lập với Đảng và Nhà nước ta ngay ở trong nước. Chúng tìm cách lôi kéo, mua chuộc số sinh viên, học sinh Việt Nam đi du học ở nước ngoài, đưa vào tổ chức, sau đó tung về nước hoạt động. Các đối tượng người nước ngoài trong các tổ chức phản động tại Việt Nam đã đưa người trong nước ra nước ngoài tổ chức tập huấn về dân chủ nhằm xây dựng lực lượng nòng cốt cho “phong trào dân chủ” hoạt động theo phương thức bất bạo động. Tội phạm nước ngoài, nhất là tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia thường xuyên lợi dụng đường nhập cảnh công khai hợp pháp để hoạt động xâm phạm TTATXH nước ta. Đặc biệt, trong thời gian gần đây, các đối tượng là người nước ngoài sau khi nhập cảnh Việt Nam đã lợi dụng công nghệ cao để thực hiện hành vi lừa đảo trong thực hiện các hợp đồng kinh tế, trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, sử dụng các thiết bị kỹ thuật cao để trộm cắp cước viễn thông quốc tế… Hầu hết trong các vụ án đều có sự câu kết chặt chẽ giữa các đối tượng ở trong nước với đối tượng ở nước ngoài để gây án. Tội phạm do NNN thực hiện xâm hại đến trật tự an toàn xã hội cũng vô cùng nguy hiểm, đặc biệt là các đối tượng buôn lậu, vận chuyển ma túy, tổ chức đưa người XNC trái phép, buôn bán phụ nữ, trẻ em... Hoạt động lừa đảo của tội phạm là NNN trong lĩnh vực xuất khẩu lao động, du học xảy ra khá phổ biến ở các địa phương trên địa bàn, hầu hết các nạn nhân đều bị mất tiền, tài sản, nhiều khi ra nước ngoài mới biết bị lừa hoặc bị cơ quan di trú các nước bắt giam, trục xuất về nước. Nạn nhân của các vụ việc trên thường ở các tỉnh nông thôn các tỉnh khu vực miền Trung – Tây Nguyên như: Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên, Gia Lai, Kon Tum, Đăk Lăk… có hoàn cảnh kinh tế khó khăn. Trong hoạt động vi phạm pháp luật về XNC của NNN tại địa bàn các tỉnh miền Trung – Tây Nguyên thì nguy hiểm nhất là việc sử dụng hộ chiếu, giấy tờ giả để nhập cảnh, cư trú trái phép và hoạt động nhập cảnh không có giấy tờ tùy thân qua đường biên giới tiểu mạch, sau đó vào nội địa và đi sâu vào các tỉnh, thành phố miền Trung – Tây Nguyên để cư trú trái phép. Thực tế cho thấy đây là hoạt động của tội phạm có tổ chức thực hiện, chúng đã áp dụng các thành tựu của khoa học, kỹ thuật cao để làm giả giấy tờ, cho nên trình độ làm giả giấy tờ, tài liệu phục vụ xuất nhập cảnh trái phép rất tinh vi, hiện đại và khó phát hiện. Trong khi đó các cơ quan quản lý nhà nước trên lĩnh vực XNC lại thiếu những phương tiện, kinh nghiệm và cơ sở dữ liệu về hộ chiếu của các nước nên các đối tượng thường xuyên sử dụng phương thức này để nhập cảnh vào 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan