VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN VĂN SINH
TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG
ĐƯỜNG BỘ THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN THỊ XÃ ĐIỆN BÀN,
TỈNH QUẢNG NAM
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI, năm 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN VĂN SINH
TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG
ĐƯỜNG BỘ THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TỪ THỰC TIỄN THỊ XÃ ĐIỆN BÀN,
TỈNH QUẢNG NAM
Chuyên ngành : Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số : 8 38 01 04
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. PHẠM VĂN TỈNH
HÀ NỘI, năm 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi dưới sự
hướng dẫn của PGS.TS Phạm Văn Tỉnh. Các số liệu, tài liệu, kết quả khảo sát
nêu trong luận văn là trung thực, phản ánh đúng đắn số liệu thực tiễn và chưa
từng được công bố một cách đầy đủ trong bất kỳ công trình nào. Tài liệu tham
khảo trong luận văn được trích dẫn từ các nguồn một cách đầy đủ và chính
xác, do đó, luận văn đảm bảo tính chân thực, khoa học, pháp lý của một công
trình nghiên cứu.
Quảng Nam, ngày tháng năm 2020
Tác giả luận văn
Trần Văn Sinh
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ
VIỆT NAM VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO
THÔNG ĐƯỜNG BỘ ..................................................................................... 8
1.1. Một số vấn đề lý luận về Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông
đường bộ............................................................................................................ 8
1.2. Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về tội vi phạm quy định về
tham gia giao thông đường bộ......................................................................... 21
CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
HÌNH SỰ VỀ
TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO
THÔNG ĐƯỜNG BỘ TRÊN ĐỊA BÀN THỊ XÃ ĐIỆN BÀN, TỈNH
QUẢNG NAM ............................................................................................... 37
2.1. Khái quát thực tiễn xét xử tội phạm vi phạm quy định về tham gia giao
thông đường bộ trên địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam .................... 37
2.2. Định tội danh đối với tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường
bộ từ thực tiễn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam .......................................... 38
2.3. Quyết định hình phạt đối với tội vi phạm quy định về tham gia giao thông
đường bộ từ thực tiễn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam ............................... 42
2.4. Nhận xét, đánh giá.................................................................................... 44
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG PHÁP LUẬT
HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO
THÔNG ĐƯỜNG BỘ TRÊN ĐỊA BÀN THỊ XÃ ĐIỆN BÀN, TỈNH
QUẢNG NAM ............................................................................................... 59
3.1. Hoàn thiện pháp luật hình sự về Tội vi phạm quy định về tham gia giao
thông đường bộ ............................................................................................... 59
3.2. Hướng dẫn áp dụng pháp luật hình sự về Tội vi phạm quy định về tham
gia giao thông đường bộ.................................................................................. 61
3.3. Tổng kết thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về Tội vi phạm quy định về
tham gia giao thông đường bộ......................................................................... 64
3.4. Nâng cao năng lực của cán bộ áp dụng pháp luật hình sự đối với Tội vi
phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ........................................... 66
3.5. Tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật trong lĩnh vực giao thông
đường bộ, an toàn công cộng, trật tự công cộng ............................................. 69
3.6. Tổ chức mạng giao thông và điều khiển hoạt động giao thông đường bộ,
quản lý các phương tiện và người tham gia giao thông đường bộ, cấp giấy
phép lái xe, đăng ký phương tiện giao thông đường bộ.................................. 70
3.7. Xây dựng và hoàn thiện quy hoạch kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ
......................................................................................................................... 72
3.8. Tăng cường kiểm tra, tuần tra, giám sát và phát hiện, xử lý kịp thời mọi
vi phạm trật tự an toàn giao thông đường bộ, xét xử nghiêm minh tội vi phạm
các quy định về tham gia giao thông đường bộ .............................................. 73
3.9. Các giải pháp khác ................................................................................... 75
KẾT LUẬN .................................................................................................... 79
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Nghĩa đầy đủ
STT
Từ viết tắt
1
BLHS
2
BLTTHS
3
TAND
Tòa án nhân dân
4
TNHS
Trách nhiệm hình sự
5
VKSND
6
GTĐB
Giao thông đường bộ
7
CTTP
Cấu thành tội phạm
Bộ luật Hình sự
Bộ luật Tố tụng hình sự
Viện kiểm sát nhân dân
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
bảng
Tên bảng
Trang
Thống kê số vụ án và số bị cáo xét xử sơ thẩm về Tội vi
2.1
phạm quy định về tham gia GTĐB trên địa bàn thị xã
37
Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam từ năm 2014 đến năm 2018
Tỷ lệ xét xử sơ thẩm các vụ án và bị cáo về Tội vi phạm
2.2
quy định về tham gia GTĐB so với các tội phạm về
GTĐB và các tội phạm khác trên địa bàn thị xã Điện
41
Bàn, tỉnh Quảng Nam từ năm 2014 đến năm 2018
Cơ cấu xét theo mức độ nguy hiểm của hành vi phạm Tội
2.3
vi phạm quy định về tham gia GTĐB trên địa bàn thị xã
Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam từ năm 2014 đến năm 2018
43
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Vấn đề tai nạn GTĐB hiện nay đã và đang trở thành mối hiểm họa đối
với các nước trên thế giới, để lại hậu quả tổn thất không nhỏ đối với toàn xã
hội. Theo báo cáo năm 2019 của Tổ chức y tế Thế giới thì mỗi năm, trên thế
giới có khoảng 1,24 triệu người chết và 50 triệu người bị thương do tai nạn
GTĐB.[49] Ở Việt Nam, tai nạn và các vấn đề về GTĐB đã trở thành vấn nạn
kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt các vụ án giao thông gây thiệt
hại nghiêm trọng về sức khỏe, tính mạng và tài sản, đã gây nhiều bức xúc
trong cộng đồng dân cư, trở thành mối quan tâm lớn của của các cơ quan chức
năng. Đáng chú ý, tội phạm lĩnh vực GTĐB ngày càng gia tăng và diễn biến
phức tạp, tiềm ẩn nhiều yếu tố khó lường, rất khó kiểm soát.
Trước tình hình đó, Ban Bí thư khóa XI đã ra Chỉ thị 18-CT/TƯ ngày
04-9-2012 về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác đảm bảo
TTATGTĐB, đường thủy nội địa, đường sắt và khắc phục sự ùn tắc giao
thông. Trong đó, xác định công tác bảo đảm TTATGT là một nội dung của
công tác bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Ngày 19 tháng 02
năm 2019, Chính phủ ra Nghị quyết 12/NQ-CP về tăng cường bảo đảm trật tự
an toàn giao thông và chống ùn tắc giao thông giai đoạn 2019 – 2021 đã đề ra
các nhiệm vụ trọng tâm và giải pháp cho một số vấn đề giao thông ở Việt
Nam, nhấn mạnh kết hợp bảo vệ an ninh trật tự với phòng chống tội phạm.
Thị xã Điện Bàn thuộc tỉnh Quảng Nam, có vị trí ở phía bắc giáp quận
Ngũ Hành Sơn và huyện Hòa Vang (Đà Nẵng), ở phía nam giáp huyện Duy
Xuyên và ở phía tây giáp huyện Đại Lộc (Quảng Nam), ở phía đông giáp biển
Đông. Điện Bàn là thị xã có diện tích là 214,28 km², dân số là 245.013 người
(2019). Mật độ dân số đạt 1.143 người/km².[50]
1
Điện Bàn có 20 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc với rất nhiều tiềm
năng phát triển kinh tế như sản xuất vật liệu xây dựng, cơ khí, chế tạo thiết bị
điện, thương mại dịch vụ, du lịch… Là đầu mối giao thông giữa Quảng Nam
– Đà Nẵng và được xem là trung tâm công nghiệp, thương mại, du lịch và
dịch vụ khu vực Bắc Quảng Nam, thị xã Điện Bàn là nơi xảy ra khá nhiều tội
phạm trong lĩnh vực GTĐB, đặc biệt là tội phạm vi phạm quy định về tham
gia GTĐB. Chỉ tính riêng năm 2019, trên địa bàn toàn thị xã có đến 17 bị
cáo/17 vụ bị đưa ra xét xử về tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB.[2]
Trong tình hình hiện nay của nước ta nói chung và của tỉnh Quảng Nam
nói riêng, trong đó có thị xã Điện Bàn, tội phạm về GTĐB, đặc biệt là tội vi
phạm quy định về tham gia GTĐB đang gây bức xúc cho toàn xã hội. Điều
này đến từ nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó yếu tố hệ thống pháp luật
trong lĩnh vực giao thông, đặc biệt là pháp luật về hình sự có tác động đáng
kể. Nhiều năm qua, các cơ quan tư pháp và cơ quan có chức năng bảo vệ pháp
luật đã hoạt động tích cực trong đấu tranh ngăn chặn, xử lý các tội phạm ở
lĩnh vực giao thông. Thực tiễn việc áp dụng các quy định pháp luật hình sự về
các tội vi phạm quy định trong tham gia GTĐB đã cho thấy rằng: còn nhiều
vướng mắc và bất cập, việc áp dụng giải quyết ở không ít vụ án còn gặp sự
mâu thuẫn, xét xử còn oan sai, bỏ lọt tội phạm, trong đó có thị xã Điện Bàn
(Quảng Nam). Hơn nữa, mặc dù quy định của Bộ luật Hình sự 2015 đã có sự
sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện về tội vi phạm quy định trong tham gia GTĐB,
song khi áp dụng thì vẫn còn có sự chưa thống nhất cũng như chưa hoàn toàn
phù hợp thực tiễn, nên cần tiếp tục nghiên cứu để tổng kết.
Theo đó, việc nghiên cứu làm rõ vấn đề lý luận về tội vi phạm quy định
trong tham gia GTĐB và thực tiễn xét xử các tội vi phạm này chẳng những có
ý nghĩa quan trọng cả về lý luận, pháp lý và thực tiễn, mà còn là có tính cấp
thiết. Đây là những lý do chủ yếu mà tác giả chọn đề tài “Tội vi phạm quy
2
định về tham gia GTĐB theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thị xã
Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam” làm luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở Việt Nam, có khá nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến tội vi
phạm quy định về tham gia GTĐB nhưng ở các giác độ khác nhau. Trong đó,
phải kể đến: Bùi Kiến Quốc, Các biện pháp đấu tranh phòng, chống tội vi
phạm quy định về tham gia GTĐB ở Thủ đô Hà Nội, Luận án tiến sĩ luật học,
Trường Đại học Luật Hà Nội, 2001; Nguyễn Đắc Dũng, Tội vi phạm các quy
định về tham gia GTĐB trong luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn xét xử tại địa
bàn tỉnh Bắc Ninh, Luận văn thạc sĩ luật học, 2011; Tài liệu Bình luận khoa
học chuyên sâu BLHS - Phần tội phạm, Tập 6 – Những tội xâm phạm an toàn
công cộng và trật tự công cộng của ThS. Đinh Văn Quế, Nhà xuất bản Thành
phố Hồ Chí Minh, năm 2005; GS. TS. Võ Khánh Vinh (năm 2001), Giáo
trình Luật hình sự Việt Nam, Chương 10 - Những tội xâm phạm an toàn công
cộng và trật tự công cộng (Phần các tội phạm), Nhà xuất bản Công an nhân
dân, Hà Nội; GS. TS. Nguyễn Ngọc Hòa (năm 2010), Giáo trình Luật hình sự
Việt Nam (Tập 2), Chương 25 - Những tội xâm phạm an toàn công cộng và
trật tự công cộng, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội; TS. Phạm Văn
Beo (năm 2010), Luật hình sự Việt Nam (Quyển II - Phần tội phạm), Bài 10 Những tội xâm phạm an toàn công cộng và trật tự công cộng, Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia, Hà Nội; TS. Cao Thị Oanh (chủ biên), Chương X - Các tội
xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng, Nxb Giáo dục, Hà Nội,
2010; v.v...
Ngoài ra, có một số bài viết nghiên cứu sâu về tội danh cụ thể, xác định
các lỗi liên quan đến tội vi phạm quy định trong tham gia GTĐB, điển hình
như: Bài viết Xác định lỗi trong vụ án tai nạn giao thông của ThS. Lê Văn
Luật, đăng Tạp chí Tòa án nhân dân, số 6 năm 2005; Bài viết Một số vấn đề
về định tội và định khung tăng nặng trong các vụ án vi phạm quy định về
3
tham gia GTĐB của ThS. Huỳnh Quốc Hùng, đăng Tạp chí Tòa án nhân dân,
số 9năm 2007; v.v...
Tuy vậy, có thể thấy rằng các công trình nghiên cứu trên có phạm vi
tương đối rộng, những tội xâm phạm an toàn GTĐB hầu như còn được đề cập
khá riêng rẽ đối với từng tội thông qua bình luận các dấu hiệu pháp lý hình sự
và hình phạt; một số nghiên cứu xem xét dưới góc nhìn tội phạm học về nhóm
tội phạm xâm phạm an toàn công cộng và trật tự công cộng trong BLHS Việt
Nam 1999. Bên cạnh đó, vẫn chưa có luận văn thạc sĩ nào đi sâu nghiên cứu
một cách độc lập về tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB trong BLHS
2015. Hơn nữa, cũng chưa có công trình nào đánh giá thực tiễn áp dụng trên
địa bàn thị xã Điện Bàn (Quảng Nam), qua đó làm rõ những vướng mắc, tồn
tại để đề xuất giải pháp về nâng cao hiệu quả áp dụng. Tuy thế, nhiều công
trình nêu trên vẫn là các tài liệu tham khảo hữu ích để tác giả kế thừa trong
nghiên cứu thực hiện luận văn này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là góp phần hoàn thiện quy định của
pháp luật về tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB trong BLHS Việt Nam
hiện hành và tăng cường việc hướng dẫn áp dụng quy định này trong thực tiễn
tại thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu của đề tài nêu trên, các nhiệm vụ nghiên cứu
cần làm rõ là:
- Làm rõ khái niệm tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB, xác định
rõ dấu hiệu pháp lý hình sự và hình phạt của tội phạm ấy trong BLHS 2015.
- Nghiên cứu và đánh giá quá trình áp dụng quy định của BLHS 2015
về tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB từ thực tiễn của thị xã Điện Bàn
(Quảng Nam); phân tích những vướng mắc, tồn tại và xác định nguyên nhân
4
của nó.
- Đưa ra giải pháp cụ thể hoàn thiện BLHS về tội vi phạm quy định về
tham gia GTĐB và đề xuất các giải pháp bảo đảm áp dụng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là xác định sự phù hợp giữa quy
định của pháp luật hình sự (hiện hành) và thực tế tình hình vi phạm quy định
về tham gia GTĐB thông qua thực tiễn áp dụng pháp luật tại thị xã Điện Bàn,
tỉnh Quảng Nam, tức là luận văn đi tìm bản chất pháp lý của tội vi phạm quy
định về tham gia GTĐB.
4.2. Phạm vi nghiên cứu đề tài
- Về nội dung, Luận văn tiến hành thực hiện ở góc nhìn khoa học luật
hình sự với chuyên ngành là Luật Hình sự và Tố tụng hình sự;
- Về tội danh, luận văn chỉ nghiên cứu tội vi phạm quy định về tham
gia GTĐB được quy định tại Điều 260 BLHS năm 2015, trong đó chủ yếu đề
cập đến thực tiễn áp dụng quy định về tội này trong giai đoạn xét xử;
- Về không gian địa bàn nghiên cứu của đề tài, đó là thị xã Điện Bàn;
- Về thời gian, luận văn sử dụng các số liệu thực tiễn được thu thập
trong thời gian từ 2014 đến 2018.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa MácLênin (duy vật biện chứng và duy vật lịch sử), tư tưởng Hồ Chí Minh và các
quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về tội phạm và hình phạt, về đường lối,
chính sách đấu tranh chống tội phạm bằng pháp luật hình sự.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Những phương pháp cụ thể được sử dụng trong nghiên cứu, chủ yếu là:
lịch sử, phân tích - tổng hợp, thống kê - so sánh; v.v... để luận chứng làm rõ
5
vấn đề nghiên cứu.
Mặt khác, để thực hiện nghiên cứu đề tài, tác giả đã tiến hành đi khảo
sát tìm hiểu thực tiễn về điều tra, truy tố và xét xử của hệ thống các Viện kiểm
sát, cơ quan điều travà TAND thị xã Điện Bàn (Quảng Nam), nghiên cứu hồ
sơ của một số vụ án nhằm làm cơ sở thực tiễn để minh họa và luận chứng cho
nghiên cứu, qua đó đã đề xuất những giải pháp khá cụ thể để bảo đảm áp
dụng.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần hệ thống hóa làm rõ hơn một số vấn đề lý luận về
tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB, qua đó, đề xuất một số nội dung để
đóng góp vào việc hoàn thiện các quy định của BLHS về tội vi phạm quy định
về tham gia GTĐB và các quy định khác có liên quan. Bên cạnh đó, kết quả
luận văn có thể cung cấp làm vốn tài liệu để có thể tham khảo trong hoạt động
nghiên cứu và đào tạo về khoa học pháp lý hình sự.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Một số đề xuất, kiến nghị nêu trong luận văn sẽ góp phần nâng cao hiệu
quả của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung cũng như tội vi phạm
quy định về tham gia GTĐB nói riêng và hoàn thiện quy định BLHS về tội vi
phạm quy định về tham gia GTĐB ở khía cạnh lập pháp, cũng như việc áp
dụng chúng trong thực tiễn.
7. Kết cấu của luận văn
Bên cạnh các kết luận, mở đầu cũng như tài liệu tham khảo, luận văn có
cơ cấu nội dung bao gồm 3 chương sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật hình sự Việt Nam về tội
vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ;
Chương 2: Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật hình sự về tội vi
phạm quy định về tham gia GTĐB trên địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng
Nam;
6
Chương 3. Giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự đối với
tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB trên địa bàn thị xã Điện Bàn, tỉnh
Quảng Nam.
7
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG
ĐƯỜNG BỘ
1.1. Một số vấn đề lý luận về Tội vi phạm quy định về tham gia giao
thông đường bộ
1.1.1. Khái niệm Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường
bộ
Tội phạm là một hiện tượng xã hội tiêu cực, “gắn liền với sự xuất hiện
của Nhà nước và pháp luật, cũng như kể từ ngay khi xã hội có sự phân chia
thành giai cấp đối kháng” [10, tr. 287]. Tội phạm mang bản chất là một hiện
tượng pháp lý. Nói rõ hơn, tội phạm là hiện tượng tiêu cực mang thuộc tính xã
hội - pháp lý với đặc tính là có sự chống đối lại đối với Nhà nước và xã hội, đi
ngược lại lợi ích và giá trị chung của cộng đồng, làm phá vỡ trật tự xã hội,
xâm phạm tới các quyền và lợi ích hợp pháp của con người.
Tội phạm là chế định quan trọng trong khoa học luật hình sự. Về bản
chất, chế định tội phạm đã thể hiện rõ nét các đặc điểm chính trị của xã hội
cũng như những đặc điểm pháp lý của luật hình sự [9, tr. 157]. Thông qua đó,
chúng ta nhận biết hành vi nào là tội phạm và không phải là tội phạm, trở
thành nguyên tắc để phân biệt tội phạm và vi phạm pháp luật khác. Pháp luật
hình sự của Việt Nam đã khái quát tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội
xâm phạm đến các khách thể được BLHS quy định và bảo vệ.
Tuy nhiên, để đánh giá được tính nguy hiểm cho xã hội là vấn đề cần
được làm sáng tỏ nếu không dễ rơi vào chủ quan, duy ý chí khi quy định tội
phạm. Các tiêu chí để xác định tính nguy hiểm cho xã hội ở mức độ tội phạm
gồm: Tính chất của các quan hệ xã hội bị xâm hại; hậu quả do hành vi phạm
tội gây ra; tính chất và mức độ lỗi; các yếu tố đặc trưng cho hành vi phạm tội
8
như thời gian, địa điểm, hoàn cảnh, công cụ phạm tội. Hơn nữa, trong BLHS
nước ta còn đưa ra yếu tố nhân thân của người phạm tội, mà nhà lập pháp
thường coi đó là một trong các yếu tố làm gia tăng về mức độ nguy hiểm xã
hội của hành vi. Song, vấn đề này đang có sự không phù hợp với nguyên tắc
một người không thể bị xử phạt hình sự về nhân thân xấu của họ.
Tội phạm cũng được thể hiện qua các dấu hiệu, đó là: Năng lực trách
nhiệm hình sự của những người thực hiện hành vi nguy hiểm xã hội- đây là
đặc tính quan trọng cần làm rõ khi quy định khái niệm về tội phạm. Bởi năng
lực trách nhiệm hình sự của con người, nó được thể hiện ở khả năng của con
người thực hiện hành vi nguy hiểm xã hội (nhận thức và sự điểu khiển được
hành vi của mình). Như vậy cho thấy, dù là gây thiệt hại cho quan hệ xã hội
nào đó song nếu một khi người thực hiện hành vi nguy hiểm lại không nhận
thức được hành vi, không điều khiển được hành vi thì coi như không phải là
hành vi tội phạm.
Tính có lỗi: Tội phạm luôn là hành vi có lỗi. Dù vậy Bộ luật Hình sự có
lúc xem các hành vi không có lỗi lại là tội phạm (tức là nguyên tắc quy tội
khách quan: chỉ căn cứ vào hành vi mà buộc tội); trong khi đó tội phạm là kết
quả tổng hợp của những yếu tố khách quan và chủ quan. Yếu tố khách quan là
các hành vi, yếu tố chủ quan là lỗi. Lỗi vốn dĩ có một quá trình để hình thành
nên kể từ khi phát sinh nhu cầu, động cơ, mục đích ý đồ, nhận thức về yếu tố
khách quan và chủ quan của hành vi và sau cùng là đi đến lựa chọn và quyết
định thực hiện hành vi phạm tội.
Như vậy, tội phạm được hiểu là hành vi nguy hiểm cho xã hội được
quy định trong BLHS, có lỗi, do người có năng lực TNHS thực hiện xâm
phạm đến mối quan hệ xã hội được luận hình sự bảo vệ (Điều 8 của BLHS).
Tội phạm trong định nghĩa lập pháp được các nhà làm luật nước ta ghi
nhận mới bao gồm bốn đặc điểm (dấu hiệu) cơ bản. Nhìn một cách tổng quan
chúng ta có thể thấy nội dung khái niệm của tội phạm trong luật hình sự
9
dường như đã được quy định đầy đủ, khoa học và việc nhận thức nội dung
này của khái niệm đã có sự thống nhất. Tuy nhiên, nếu nghiên cứu và phân
tích một cách sâu sắc những đặc điểm cụ thể thuộc nội dung của khái niệm tội
phạm cũng như xem xét mối liên hệ giữa chúng thì thấy rằng còn có điều cần
phải bàn. Cụ thể, theo GS.TSKH Lê Văn Cảm, khái niệm này còn thiếu một
đặc điểm (dấu hiệu) cơ bản là tội phạm do người đủ tuổi chịu TNHS thực
hiện. Các dấu hiệu này cùng với những dấu hiệu cơ bản của tội phạm đã được
những nhà lập pháp ghi nhận thì mới thể hiện căn bản trên 03 khía cạnh tương
ứng với 5 dấu hiệu cơ bản của tội phạm, mà cụ thể đó là: 1) Khía cạnh khách
quan với nội dung: tội phạm là hành vi nguy hiểm xã hội; 2) Khía cạnh chủ
quan: tội phạm là hành vi do người có năng lực TNHS và đã có đủ tuổi chịu
TNHS thực hiện có lỗi; 3) Khía cạnh pháp lý với hình thức: tội phạm là hành
vi trái luật pháp hình sự [9, tr. 289]. Chúng tôi tán thành với quan điểm này,
và nhấn mạnh thêm đặc điểm (dấu hiệu) cơ bản thứ nhất - tội phạm là hành vi
nguy hiểm cho xã hội, đồng thời phải xâm phạm đến các khách thể được luật
hình sự xác lập và bảo vệ (đó là: chủ quyền, độc lập, thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm tới chế độ kinh tế, chế độ chính trị, nền an ninh,
quốc phòng, văn hoá, TTATXH, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm
phạm đến nhân phẩm, danh dự, tự do, tính mạng, sức khoẻ, tài sản, các quyền
và lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm đến các lĩnh vực khác của
trật tự pháp luật XHCN).
Từ cơ sở này, tiếp cận khái niệm về Tội vi phạm quy định về tham gia
giao thông đường bộ, xét về bản chất, là khái niệm về một tội phạm cụ thể, là
sự cụ thể hóa khái niệm tội phạm nói trong lĩnh vực cụ thể là giao thông
đường bộ và nhà làm luật đưa vào trong đó vạch giới hạn là các chủ thể tham
gia vào quan hệ giao thông đường bộ đó. Việc đặt ra vạch giới hạn này cần
phải nói đến quy định BLHS năm 1999 khi nó chỉ dừng lại ở việc quy định
10
“Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện GTĐB”. Theo đó, phạm vi
điều chỉnh của điều luật trước kia (BLHS năm 1999) bị hẹp hơn, chỉ bao gồm
các chủ thể điều khiển phương tiện, còn BLHS năm 2015 lại điều chỉnh cả
chủ thể tham gia, tất nhiên bao gồm cả người đi bộ. Đó là quá trình cấp tiến
về tư duy và cả lập pháp. Trước đây, “vi phạm quy định về tham gia GTĐB,
đó là những hành vi vi phạm các quy định về ATGTĐB gây ra thiệt hại đến
tính mạng hoặc gây ra thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản, sức khỏe của người
khác” [9, tr. 13]. Quan điểm này mới chỉ nêu định nghĩa hành vi chứ chưa làm
rõ khái niệm tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB, nhất là thiếu dấu hiệu
chủ thể của tội phạm. Mặt khác, BLHS năm 2015 đã mở rộng chủ thể điều
chỉnh nên cần có sự mở rộng nội hàm khái niệm loại tội phạm này. Theo góc
nhìn của khoa học luật hình sự, tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB là
khái niệm phải được thể hiện đầy đủ ở 03 khía cạnh tương ứng với 05 dấu
hiệu cơ bản như đã nêu trên. Do đó, theo tác giả, khái niệm tội phạm này
được định nghĩa như sau: Tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB là hành vi
của người tham gia GTĐB mà vi phạm quy định về an toàn GTĐB do lỗi vô
ý, gây ra thiệt hại cho tính mạng hoặc thiệt hại nghiêm trọng cho sức khỏe, tài
sản của người khác do người có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS thực
hiện.
1.1.2. Đặc điểm cơ bản của tội vi phạm quy định về tham gia giao
thông đường bộ
Căn cứ vào các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam và thực tiễn
xét xử, có thể chỉ ra các đặc điểm cơ bản của tội vi phạm quy định về tham
gia GTĐB như sau:
Một là, tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB là hành vi xâm phạm
đến sự an toàn của hoạt động giao thông vận tải đường bộ cũng như an toàn
về tính mạng, sức khỏe và tài sản của người khác; xâm phạm đến an toàn
11
công cộng, trật tự công cộng (thuộc nhóm tội xâm phạm trật tự công cộng) và
bị xử lý theo quy định của pháp luật. Nói cách khác, đó là hành vi gây nguy
hiểm đến xã hội, trực tiếp xâm phạm TTATGTĐB và gây nên thiệt hại về sức
khoẻ, tính mạng và tài sản của người khác.
Hai là, hành vi phạm tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB được
biểu hiện một cách trực tiếp và chủ yếu thông qua người tham gia GTĐB (có
thể họ là người điều khiển, người đang sử dụng phương tiện khi tham gia
GTĐB; người đi bộ trên đường, người điều khiển dẫn dắt súc vật) tức là đang
thực hiện các chức năng điều khiển đối với sự vật và các phương tiện GTĐB
mà gây nên thiệt hại nghiêm trọng về tính mạng (dẫn đến chết người) hay gây
nên thiệt hại nghiêm trọng về sức khoẻ (gây nên thương tích) và tài sản; gây
thiệt hại nghiêm trọng cho trật tự an toàn công cộng.
Ba là, tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB do chủ thể là người có
năng lực TNHS và đã có đủ tuổi phải chịu TNHS thực hiện. Nói cách khác,
chủ thể của tội phạm vi phạm quy định về tham gia GTĐB là người từ đủ 16
tuổi trở lên, có đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi mình.
1.1.3. Các yếu tố cấu thành tội vi phạm quy định về tham gia giao
thông đường bộ
Để nhận thức sâu sắc hơn bản chất pháp lý của tội vi phạm quy định về
tham gia GTĐB, cần đi sâu nghiên cứu các dấu hiệu pháp lý của CTTP tội vi
phạm quy định về tham gia GTĐB được phân thành 04 yếu tố: Khách thể,
mặt khách quan, chủ thể, mặt chủ quan của tội phạm.
1.1.3.1. Khách thể của tội phạm vi phạm quy định về tham gia giao
thông đường bộ
Khách thể của tội vi phạm quy định về tham gia GTĐB là quy định của
Nhà nước về ATGTĐB, đó là các quy định để bảo đảm ATGTVT, bảo đảm
cho hoạt động vận tải đường bộ thông suốt, bình thường và bảo vệ an toàn sức
12
khỏe, tính mạng của công dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, tổ chức và công
dân.
Hành vi vi phạm quy định về tham gia GTĐB đó là hành vi nguy hiểm
xã hội, trực tiếp xâm phạm TTATGTĐB và gây ra thiệt hại về sức khoẻ, tính
mạng và tài sản của người khác.
Chỉ các hành vi vi phạm quy định về tham gia GTĐB có tính chất và
mức độ nguy hiểm cao, gây ra thiệt hại cho tính mạng hoặc gây ra thiệt hại
nghiêm trọng đến tài sản, sức khoẻ của người khác; và khả năng thực tế của
hành vi này dẫn tới hậu quả đặc biệt nghiêm trọng - nếu một khi không được
ngăn chặn kịp thời thì mới được xem là phạm tội hình sự. Đối với các hành vi
vi phạm quy định về tham gia GTĐB khi mà tính chất, mức độ của nó không
có nguy hiểm, không gây ra thiệt hại đến người khác thì bị xử phạt vi phạm
hành chính.
1.1.3.2. Mặt khách quan của tội phạm vi phạm quy định về tham gia
giao thông đường bộ
Hành vi khách quan: Người phạm tội có hành vi vi phạm các quy định
về tham gia GTĐB, cụ thể: đi quá tốc độ, chở quá trọng tải quy định, tránh,
vượt trái phép; đi không đúng tuyến đường, phần đường; vi phạm các quy
định khác về an toàn GTĐB như chuyên chở người, hàng không đúng số
lượng, trọng tải quy định;... Để xác định các hành vi vi phạm các quy định về
tham gia GTĐB, trước hết phải căn cứ vào quy định của Luật GTĐB cùng
những văn bản hướng dẫn của cơ quan chức năng có thẩm quyền.
Phương tiện GTĐB bao gồm các loại xe có động cơ (xe hơi, máy kéo,
tàu điện bánh hơi, xe gắn máy và các loại xe chuyên dùng khác) và các loại xe
thô xơ (xe thồ, xe đạp, xe được điều khiển bằng xúc vật: xe bò, xe ngựa,...).
Người điều khiển phương tiện vận tải GTĐB là người trực tiếp thực hiện chức
năng vận hành phương tiện để phượng tiện chuyển động và tham gia giao
thông.
13
- Xem thêm -