ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
NGUYỄN HƯƠNG CÚC
TRUYỀN THUYẾT VÀ LỄ HỘI DÂN GIAN
Ở ĐỒNG HỶ, THÁI NGUYÊN
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Thái Nguyên, năm 2017
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
NGUYỄN HƯƠNG CÚC
TRUYỀN THUYẾT VÀ LỄ HỘI DÂN GIAN
Ở ĐỒNG HỶ, THÁI NGUYÊN
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60.22.01.21
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Hằng Phương
Thái Nguyên, năm 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các kết quả
nghiên cứu là trung thực và chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Thái Nguyên, tháng 9 năm 2017
Tác giả luận văn
Nguyễn Hương Cúc
i
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, ngoài sự cố gắng, nỗ lực của bản thân em
đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ. Qua đây, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu
sắc tới:
Ban giám hiệu, Phòng đào tạo sau Đại học, các thầy cô giảng viên khoa
Ngữ văn trường Đại học Sư phạm Thái nguyên đã giảng dạy em trong suốt
khóa học.
PGS.TS Nguyễn Hằng Phương đã tận tâm chỉ bảo, hướng dẫn em trong
suốt quá trình nghiên cứu để em hoàn thành luận văn của mình.
Phòng văn hóa thông tin huyện Đồng Hỷ, cùng nhân dân huyện Đồng
Hỷ đã nhiệt tình giúp đỡ em trong suốt quá trình đi điền dã sưu tầm.
Thái Nguyên, tháng 9 năm 2017
Tác giả
Nguyễn Hương Cúc
ii
MỤC LỤC
Trang
TRANG BÌA PHỤ
LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................. i
LỜI CẢM ƠN .................................................................................................. ii
MỤC LỤC ....................................................................................................... iii
A. MỞ ĐẦU MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG .................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................... 3
3. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................... 7
4. Nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................................... 7
5. Đối tượng nghiên cứu.................................................................................... 8
6. Phạm vi nghiên cứu ....................................................................................... 8
7. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 8
8. Đóng góp của luận văn .................................................................................. 9
9. Bố cục của luận văn ...................................................................................... 9
B. NỘI DUNG ................................................................................................ 10
Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TẾ CỦA VIỆC TÌM HIỂU
TRUYỀN THUYẾT VÀ LỄ HỘI DÂN GIAN Ở ĐỒNG HỶ, THÁI
NGUYÊN........................................................................................................ 10
1.1. Sơ lược về điều kiện tự nhiên, xã hội, văn hóa ở Đồng Hỷ, Thái Nguyên. . 10
1.1.1. Điều kiện tự nhiên ................................................................................. 10
1.1.2. Đặc điểm kinh tế, xã hội ....................................................................... 13
1.1.3. Truyền thống lịch sử, văn hóa ............................................................... 17
1.2. Truyền thuyết và lễ hội ............................................................................ 20
1.2.1. Truyền thuyết ........................................................................................ 20
1.2.2. Lễ hội..................................................................................................... 24
1.2.3. Khái quát về truyền thuyết và lễ hội dân gian ở Đồng Hỷ, Thái Nguyên. .. 30
iii
Chương 2: TRUYỀN THUYẾT DÂN GIAN Ở ĐỒNG HỶ, THÁI
NGUYÊN........................................................................................................ 36
2.1. Truyền thuyết dân gian ở Đồng Hỷ, Thái Nguyên nhìn từ phương diện
nội dung................................................................................................... 36
2.1.1. Phản ánh nhân vật, sự kiện lịch sử ........................................................ 36
2.1.2. Bộc lộ ước muốn, khát vọng của nhân dân ........................................... 43
2.1.3. Thể hiện cảm hứng ca ngợi, tôn vinh .................................................... 48
2.2. Truyền thuyết dân gian ở Đồng Hỷ, Thái Nguyên nhìn từ góc độ nghệ thuật. 49
2.2.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật .............................................................. 49
2.2.2. Yếu tố thần kì ........................................................................................ 51
2.2.3. Mô típ điển hình .................................................................................... 53
2.2.4. Thời gian và không gian nghệ thuật...................................................... 57
Chương 3: LỄ HỘI VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA TRUYỀN THUYẾT
VỚI LỄ HỘI DÂN GIAN Ở ĐỒNG HỶ, THÁI NGUYÊN ...................... 61
3.1. Lễ hội dân gian ở Đồng Hỷ, Thái Nguyên. .............................................. 61
3.1.1. Lễ hội Kim Sơn Tự, Chùa Hang ........................................................... 61
3.1.2. Lễ hội Hang Dơi, Linh Sơn ................................................................... 70
3.1.3. Lễ hội Đền Hích, Hòa Bình .................................................................. 72
3.2. Mối quan hệ giữa truyền thuyết với lễ hội dân gian ở Đồng Hỷ, Thái Nguyên . 75
3.2.1. Mối quan hệ giữa Folklore với thực tiễn .............................................. 75
3.2.2. Mối quan hệ giữa truyền thuyết và lễ hội ở Đồng Hỷ, Thái Nguyên ... 77
3.2.3. Truyền thuyết và lễ hội trong đời sống dân gian hiện nay.................... 85
C. KẾT LUẬN ............................................................................................... 90
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 94
PHỤ LỤC
iv
A. MỞ ĐẦU
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Được nhân dân sáng tác, lưu truyền trong dân gian từ thế hệ này sang
thế hệ khác bằng hình thức truyền miệng. Văn học dân gian đã trở thành nguồn
suối trong lành của tình yêu đất nước, của tâm hồn con người Việt trong suốt
chiều dài lịch sử, văn hóa của dân tộc. Điều đó đã được thể hiện rất rõ không
phải chỉ ở trong thần thoại - thể loại “khai sơn phá thạch” cho loại hình tự sự dân
gian mà ở trong thể loại truyền thuyết kế tiếp sau cũng vậy.
Gắn với những nhân vật, sự kiện, những biến cố lịch sử trọng đại của đất
nước trong quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc, thêm vào đó là tâm
tư, tình cảm, thái độ ý nguyện của nhân dân… Truyền thuyết đã tạo nên một
nét riêng, một sức hút kì diệu, lôi cuốn với những con người từ thế hệ này sang
thế hệ khác.
Thế nhưng xã hội ngày càng hiện đại kéo theo đó là sự hội nhập và phát
triển không ngừng trên mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hóa. Bên cạnh sự tích
cực tiếp thu để làm giàu thêm vốn văn hóa dân tộc thì điều đó cũng khiến
những nét đẹp văn hóa truyền thống có nguy cơ bị mai một và lãng quên. Bởi
vậy, Đảng và nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách chú trọng tới sự phát
triển văn hóa, văn học dân tộc mà cụ thể như trong văn kiện lần thứ V Ban chấp
hành Trung ương Đảng khóa VIII đã chỉ rõ: “Di sản văn hóa là tài sản vô giá,
gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo
những giá trị mới và giao lưu văn hóa. Cần phải hết sức coi trọng, bảo tồn, kế
thừa, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống (bác học và dân gian), văn
hóa cách mạng bao gồm cả văn hóa vật thể và phi vật thể” [3]. Cho nên việc
nghiên cứu truyền thuyết dân gian kết hợp với việc tìm hiểu lễ hội dân gian
chính là một việc có ý nghĩa thực tiễn đóng vai trò quan trọng nhất là trong thời
đại hội nhập và phát triển ngày nay.
1
1.2. Đồng Hỷ - một huyện nằm cách trung tâm thành phố Thái Nguyên 3
km về phía Đông Bắc là một vùng đất có nền văn hóa - văn học phát triển từ
lâu đời. Những thành tựu văn hóa - văn học đã phản ánh rất rõ sự sáng tạo qua
trí thông minh “nhào nặn” khéo léo của con người nơi đây. Có thể nói, mỗi câu
chuyện lưu truyền, mỗi câu thơ để lại, mỗi câu hát dân gian… là những minh
chứng cho nét đẹp trí tuệ, là những trang lịch sử, văn hóa - văn học được khắc
ghi trong tâm thức của con người.
“Ai đã về thăm quê em Đồng Hỷ, qua cầu Gia Bảy tới làng Đông bạt
ngàn rau xanh đi qua Đồng Bẩm, xin hãy về thăm quê em Đồng Hỷ, qua Trại
Cài ngút ngát chè xanh mía ngọt dâu non xin về Minh Lập…”
(Đồng Hỷ một miền quê )
Ai qua thành phố Thái Nguyên
Tới cầu Gia Bảy bến thuyền vui xinh
Nước non phong cảnh hữu tình
Thiên nhiên ưu ái đã đành nơi đây
Cảnh tình càng thắm càng hay
Càng yêu cảnh sắc càng say tình đời…
(Tiên Lữ Động, Ninh Bá Nhương)
Nhưng không phải cho đến tận ngày nay, mà từ xa xưa với tinh thần
đoàn kết dân tộc, gắn với truyền thống lịch sử của đất nước trong cuộc kháng
chiến chống quân Tống xâm lược dưới thời nhà Tiền Lê, nhà Lý… kháng chiến
chống quân Mông - Nguyên, chống giặc Minh… mảnh đất và con người trên
quê hương Đồng Hỷ, Thái Nguyên đã đi sâu vào trong lòng mỗi người thông
qua những câu chuyện kể dân gian lưu truyền qua biết bao thế hệ. Vì thế việc
tìm hiểu truyền thuyết và lễ hội dân gian ở Đồng Hỷ, Thái Nguyên sẽ là minh
chứng cho một kho tàng lưu giữ những nét đẹp đã đi sâu vào trong tiềm thức
con người nơi đây.
2
1.3. Xuất phát từ tình yêu của mình đối với mảnh đất quê hương Đồng
Hỷ, Thái Nguyên. Nơi tôi đã được nuôi dưỡng chính tâm hồn mình, đã nhận
được sự yêu thương, đã được tự hào bởi là một người con trên mảnh đất ấy.
Với tư cách là một học viên chuyên ngành Văn học Việt Nam rất yêu
thích Văn học dân gian, tôi muốn đi sâu tìm hiểu về truyền thuyết này để có cái
nhìn cụ thể, đa chiều về thể loại truyền thuyết, tìm ra mối quan hệ giữa truyền
thuyết và lễ hội cũng như mối quan hệ giữa văn học và văn hóa. Mặt khác, đây
sẽ là một cơ hội để bản thân, cá nhân mình trau dồi thêm kiến thức lịch sử, văn
hóa trên mảnh đất quê hương, là cơ hội để học hỏi áp dụng những kiến thức đã
được học vào nghiên cứu một vấn đề thực tiễn, là cơ hội để mọi người biết đến
truyền thống, nét đẹp lịch sử, văn hóa của địa phương.
Trên cơ sở những lí do trên, tôi xin mạnh dạn chọn “Truyền thuyết và lễ
hội dân gian ở Đồng Hỷ, Thái Nguyên” làm đề tài nghiên cứu. Hi vọng luận
văn này sẽ góp một phần nhỏ bé vào việc bảo lưu và gìn giữ những giá trị văn
hóa dân gian quý báu của quê hương, dân tộc.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Lịch sử nghiên cứu truyền thuyết và lễ hội
Khái quát về lịch sử nghiên cứu truyền thuyết và lễ hội đã có khá nhiều
công trình nghiên cứu khác nhau mà trong đó có thể kể đến:
Đỗ Bình Trị trong công trình Nghiên cứu tiến trình của lịch sử văn học
dân gian Việt Nam (1978), đã nghiên cứu một cách hệ thống về truyền thuyết.
Theo nhà nghiên cứu, truyền thuyết gắn liền với lịch sử và sự ra đời trong thời
đại có nhiều sự kiện đáng ghi nhận của dân tộc. Nhân vật trong truyền thuyết
khá phong phú và đa dạng nhưng đều có đặc điểm chung là con người có thật
xuất phát từ lịch sử [47].
Tác giả Nguyễn Xuân Lạc trong cuốn Văn học dân gian Việt Nam trong
nhà trường cũng đã chỉ ra hướng tiếp cận truyền thuyết dưới góc độ thể loại
của văn học dân gian góp một cách nhìn, cách nghiên cứu mới về truyền thuyết.
Song đó đều là những nghiên cứu riêng về truyền thuyết, chưa đi sâu tìm hiểu
3
khám phá khía cạnh mới của truyền thuyết trong mối quan hệ gắn bó giữa
truyền thuyết và sinh hoạt lễ hội[18].
Trong Tìm hiểu mối quan hệ giữa thần thoại, truyền thuyết và diễn
xướng tín ngưỡng phong tục (1973), tác giả Nguyễn Khắc Xương đã nêu lên
mối quan hệ giữa thần thoại, truyền thuyết và lễ hội: “thần thoại, truyền thuyết
lưu truyền bằng miệng trong dân gian đã được tái hiện cụ thể và sinh động
trước nhân dân qua nghệ thuật diễn xướng hỗn hợp” [52].
Năm 1996 trong giáo trình Văn học dân gian Việt Nam, Đinh Gia
Khánh chủ biên đã đề cập đến: “Chức năng của truyện cổ dân gian là ghi nhận
và chuyên trở những yếu tố văn hóa… phản ánh khá trung thực, sống động các
yếu tố văn hóa bản địa do các dân tộc xây dựng lên, cùng với biết bao truyền
thống tốt đẹp khác, những truyện kể trên đã góp phần tạo nên cốt cách Việt
Nam”[14].
Cũng cùng năm 1996, tác giả Lê Văn Kỳ trong Mối quan hệ giữa
truyền thuyết người Việt và lễ hội về các anh hùng đã nêu lên định nghĩa hội,
lễ, mối quan hệ giữa hội và lễ: “Hội lễ là một cuộc vui lớn của cộng đồng
nhằm đáp ứng nhu cầu giải trí, tín ngưỡng, thi thố tài năng, biểu dương
sức mạnh, tái hiện cuộc sống con người trong trường kỳ lịch sử. Nó là một loại
hình tổng hợp bao gồm nhiều yếu tố văn hóa dân gian luôn luôn tương tác lẫn
nhau” [17] đó chính là những mối quan hệ có liên quan đến khóa luận này.
2.2. Lịch sử nghiên cứu truyền thuyết và lễ hội dân gian ở Đồng Hỷ, Thái Nguyên
Tác phẩm Con người và sự tích Bắc Thái (1986, Nxb Sở văn hóa thông
tin Bắc Thái) [37] của nhiều nhà nghiên cứu khác nhau đã tập hợp lại những
câu chuyện về những nhân vật, những sự kiện, sự tích về những địa danh đã đi
sâu vào trong đời sống của người dân. Đó là những con người đã làm nên
truyền thuyết như Dương Tự Minh, Lưu Nhân Chú… là những địa danh đã gắn
liền với sự tích như Đền Đuổm, Núi Văn, Núi Võ… Tác phẩm là một sự khái
quát chung nhưng mang tính chất rộng toàn tỉnh Thái Nguyên. Mặc dù có mối
4
liên hệ với nội dung của luận văn nghiên cứu nhưng lại chưa thực sự đề cập cụ
thể về vấn đề truyền thuyết và lễ hội dân gian ở Đồng Hỷ, Thái Nguyên.
Tiếp theo là tác phẩm Nàng tiên thứ bảy - Truyện cổ Bắc Thái (1986,
Nxb Sở văn hóa thông tin Bắc Thái) [35]. Nội dung của tác phẩm lúc này
không còn là những câu chuyện có thật trong lịch sử mà là những câu chuyên
mang tính hư cấu với nhân vật là những nàng tiên xinh đẹp, là con gái của
Ngọc Hoàng - vị vua của thế giới tiên cảnh tượng trưng cho ước mơ khát vọng
của người dân về cuộc sống. Tuy nhiên, tác phẩm này cũng chỉ mang tính chất
khái quát, lí giải phần nào về những câu chuyện lưu truyền trong dân gian ở đất
Thái Nguyên về các lực lượng siêu nhiên chứ không phải là sự nghiên cứu cụ
thể truyền thuyết về lực lượng siêu nhiên ở Đồng Hỷ, Thái Nguyên.
Đến năm 2008 một tài liệu của Sở Giáo dục và Đào tạo Thái Nguyên
được lưu hành nội bộ mang tên Văn học Thái Nguyên (Tài liệu giảng dạy văn
học địa phương cấp THCS - Lưu hành nội bộ) [34]. Trong đó là sự sưu tầm
chung của văn học Thái Nguyên và cũng có những sưu tầm về Văn học dân
gian Thái Nguyên.
Gần đây nhất là tác phẩm do Tỷ Khiêu Thích Nguyên Thanh chủ biên,
Chùa Hang - Kim Sơn Tự - Thái Nguyên (Nxb Thế giới) [42]. Tác phẩm là sự
nghiên cứu cụ thể về Chùa Hang, Đồng Hỷ, Thái Nguyên từ truyền thuyết, lịch
sử hình thành cho đến những minh chứng lâu đời về sự thật lịch sử được khắc
trên bia đá trong chùa bằng Hán văn. Thông qua đó ta có thể tìm hiểu sâu hơn
về Chùa Hang nhưng tác phẩm lại chỉ là sự nghiên cứu đứng về góc độ văn
hóa, đem đến cho người đọc sự hiểu biết về Chùa Hang, Đồng Hỷ, Thái
Nguyên không phải là nghiên cứu về “Truyền thuyết và lễ hội dân gian ở Đồng
Hỷ, Thái Nguyên” một cách chung nhất.
Các tác giả trong cuốn Thống kê lễ hội Việt Nam [4] đã hệ thống và
miêu tả sơ lược lại những lễ hội trên địa bàn cả nước. Họ đã có công sưu
tầm, ghi chép những khía cạnh khác nhau của văn hóa dân gian Thái
5
Nguyên. Song các nhà sưu tầm mới chỉ nhìn nhận vấn đề ở góc độ văn hóa
mà chưa chỉ ra được mối quan hệ gắn bó giữa truyền thuyết và lễ hội ở Đồng
Hỷ, Thái Nguyên.
Bên cạnh đó, cũng có một số đề tài, luận văn, nghiên cứu khoa học về
nhiều vấn đề khác nhau ở Đồng Hỷ như:
Bài viết của Mai Thị Hồng Lĩnh, Một số tín ngưỡng dân gian của người
Sán Dìu ở huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên (Tạp chí dân tộc học số 3/2013)
[23] đưa ra một số thông tin chi tiết về tín ngưỡng của người Sán Dìu ở Đồng
Hỷ song chỉ dừng lại ở vấn đề tín ngưỡng dân gian.
Đề tài nghiên cứu khoa học lịch sử Phan Đình Thuận, Tìm hiểu tôn giáo tín ngưỡng của người Nùng ở xã Tân Long, Huyện Đồng Hỷ (Đại học Sư phạm
Thái Nguyên) [44].
Khóa luận tốt nghiệp Nguyễn Anh Tuấn, Tang ma người Nùng Phàn
Slình ở xã Tân Long, huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên (Đại học khoa học xã
hội nhân văn, Hà Nội) [40].
Khóa luận tốt nghiệp của Nguyễn Thị Bình, Lễ cấp sắc của dân tộc
Dao Sơn Đầu ở xã Hợp Tiến, Đồng Hỷ, Thái Nguyên (Đại học Khoa học Thái
Nguyên) [2] đã bước đầu tìm hiểu phần lễ của dân tộc Dao tại Đồng Hỷ chứ
chưa đi sâu vào mối quan hệ giữa truyền thuyết và lễ hội.
Luận văn thạc sĩ Lịch sử Hoàng Liên Gấm, Văn hóa tinh thần của
người Sán Dìu ở huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên (1945-2010) (Đại học Sư
phạm Thái Nguyên) [7].
Luận văn thạc sĩ Lịch sử Lê Thị Thanh Vân, Phong tục và tín ngưỡng,
tôn giáo của người Nùng ở huyện Đồng Hỷ, Thái Nguyên (Đại học Sư phạm
Thái Nguyên) [53].
Luận văn thạc sĩ Văn học Việt Nam của Hoàng Thúy Nga, Sli, lượn và
lễ hội Oóc Pò của người Nùng Phàn SLình ở Hòa Bình, Đồng Hỷ, Thái
Nguyên (Đại học Sư phạm Thái Nguyên) [25] đã đề cập đến lễ hội của người
6
Nùng Phàn SLình ở Đồng Hỷ nhưng chỉ dừng lại ở mối quan hệ giữa Sli, lượn
và lễ hội.
Luận văn thạc sĩ Lịch sử Nguyễn Khắc Thái, Đền, chùa, đình làng ở
huyện Đồng Hỷ, tỉnh Thái Nguyên trước năm 1945 (Đại học Sư phạm Thái
Nguyên) [41] nghiên cứu một cách hệ thống đền, chùa và đình làng ở Đồng Hỷ,
tuy nhiên mục đích của luận văn lại để nhằm đi vào tìm hiểu mối quan hệ giữa
đền, chùa, đình làng và vai trò của nó đối với đời sống tinh thần của nhân dân
Đồng Hỷ
Cho đến nay, vẫn chưa có một công trình nghiên cứu nào thật khái quát,
đầy đủ về truyền thuyết và lễ hội dân gian ở Đồng Hỷ, Thái Nguyên. Những
nghiên cứu, những bài viết trước đây chỉ dừng lại sự sưu tầm chung ở Thái
Nguyên, nghiên cứu cụ thể trên góc độ dân tộc học, văn hóa, lịch sử Đồng Hỷ
chứ chưa lí giải, đi sâu phân tích truyền thuyết và lễ hội dân gian ở Đồng Hỷ,
Thái Nguyên. Tuy vậy, những công trình nghiên cứu ấy sẽ là những tài liệu bổ
ích và quan trọng trong việc nghiên cứu luận văn “Truyền thuyết và lễ hội dân
gian ở Đồng Hỷ, Thái Nguyên”.
3. Mục đích nghiên cứu
- Tìm hiểu truyền thuyết này để thấy được giá trị nội dung và nghệ thuật
của truyền thuyết ở Đồng Hỷ, Thái Nguyên.
- Tìm ra mối quan hệ giữa truyền thuyết và lễ hội của người Việt ở nơi
đây từ đó đi đến cái nhìn khái quát về mối quan hệ giữa truyền thuyết và lễ hội,
giữa hai lĩnh vực văn học và văn hóa.
- Góp phần giữ gìn, phát huy giá trị văn hóa phi vật thể của địa phương và
của dân tộc, nhất là trong ngày nay vào thời đại hội nhập thì vấn đề bảo tồn nét
đẹp bản sắc văn hóa địa phương, dân tộc lại càng cần thiết hơn bao giờ hết.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu, chúng tôi xác định nhiệm vụ nghiên cứu của
luận văn này là:
7
- Tìm hiểu cơ sở lí luận và thực tiễn liên quan đến luận văn Truyền
thuyết và lễ hội dân gian ở Đồng Hỷ, Thái Nguyên.
- Đặc điểm nội dung và nghệ thuật của truyền thuyết dân gian ở Đồng
Hỷ, Thái Nguyên.
- Tìm hiểu một cách có hệ thống để thấy được mối quan hệ giữa truyền
thuyết và lễ hội dân gian ở nơi đây.
5. Đối tượng nghiên cứu
- Trong phạm vi khóa luận này, chúng tôi nghiên cứu truyền thuyết dân
gian ở Đồng Hỷ, Thái Nguyên và những dị bản của truyền thuyết này.
- Đồng Hỷ có sự tồn tại của các nghi thức tín ngưỡng dân gian nên
chúng tôi chọn tìm hiểu lễ hội tiêu biểu Kim Sơn Tự (Chùa Hang), lễ hội Hang
Dơi và lễ hội Đền Hích trong mối quan hệ với truyền thuyết.
6. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi tư liệu nghiên cứu:
+ Các tư liệu của chính tác giả sưu tầm trong đời sống nhân dân qua điền dã.
+ Tư liệu tập hợp từ cuốn Lí lịch di tích lịch sử văn hóa huyện Đồng Hỷ,
tỉnh Thái Nguyên, Phòng văn hóa thông tin Đồng Hỷ.
+ Những tư liệu ở vùng khác để so sánh, đối chiếu.
- Phạm vi vấn đề nghiên cứu: Nghiên cứu về Truyền thuyết và lễ hội
dân gian ở Đồng Hỷ, Thái Nguyên từ góc độ Văn học dân gian.
7. Phương pháp nghiên cứu
Mỗi phương pháp nghiên cứu đều có những thế mạnh và hạn chế. Bởi
vậy, để đạt hiệu quả cao hơn trong đề tài nghiên cứu này chúng tôi sử dụng
nhiều phương pháp kết hợp với nhau. Đó là:
- Phương pháp điền dã văn học dân gian: Chúng tôi đã tiến hành điền dã
trên địa bàn huyện Đồng Hỷ. Chúng tôi cũng tham quan các di tích có liên quan
đến truyền thuyết và lễ hội ở Đồng Hỷ. Gặp gỡ và trao đổi với những cán bộ
văn hóa, cán bộ quản lí di tích lịch sử, những người dân địa phương ở địa bàn.
- Phương pháp thống kê: Tập hợp và thống kê các tư liệu có liên quan
đến truyền thuyết và lễ hội ở Đồng Hỷ, Thái Nguyên.
8
- Phương pháp so sánh đối chiếu: Vận dụng phương pháp này để làm rõ
một số vấn đề trong luận văn như: So sánh với các vùng khác của Thái Nguyên để
thấy được nét khác biệt cơ bản của truyền thuyết và lễ hội dân gian ở Đồng Hỷ.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: Chúng tôi sử dụng phương pháp này
trước hết là để tiếp cận đối tượng khoa học một cách cụ thể, chi tiết, sau đó là
để đảm bảo vấn đề được đánh giá một cách toàn vẹn, khái quát.
- Phương pháp nghiên cứu liên ngành: Luận văn này chúng tôi vận dụng
những phương pháp thuộc nhiều lĩnh vực: Lịch sử, dân tộc, văn hóa… để lí giải
một số vấn đề liên quan đến luận văn.
8. Đóng góp của luận văn
- Thực hiện luận văn này, người viết đã sưu tầm và khảo sát, ghi lại thành
văn các truyền thuyết dân gian ở Đồng Hỷ, Thái Nguyên với những dị bản của
truyền thuyết này đã và đang được lưu truyền trên địa bàn huyện Đồng Hỷ.
- Đi sâu vào việc phân tích, đánh giá những giá trị nội dung và nghệ
thuật của truyền thuyết dân gian ở Đồng Hỷ, Thái Nguyên.
- Chỉ ra được mối quan hệ giữa truyền thuyết và lễ hội dân gian, góp
phần gìn giữ và bảo tồn, phát huy truyền thống văn hóa dân gian cổ truyền của
quê hương đất nước đang có nguy cơ bị lãng quên.
9. Bố cục của luận văn
Mở đầu
Nội dung
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tế của việc tìm hiểu truyền thuyết và lễ
hội dân gian ở Đồng Hỷ, Thái Nguyên.
Chương 2: Truyền thuyết dân gian ở Đồng Hỷ, Thái Nguyên.
Chương 3: Lễ hội và mối quan hệ giữa truyền thuyết với lễ hội dân gian
ở Đồng Hỷ, Thái Nguyên.
Kết luận
Tài liệu tham khảo
Phụ lục
9
B. NỘI DUNG
Chương 1:
CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TẾ CỦA VIỆC TÌM HIỂU
TRUYỀN THUYẾT VÀ LỄ HỘI DÂN GIAN
Ở ĐỒNG HỶ, THÁI NGUYÊN
Đồng Hỷ là một huyện thuộc phía Đông Bắc của tỉnh Thái Nguyên. Đây
là một địa danh có bề dày văn hóa, văn học, có nhiều điều kiện phát triển kinh tế
riêng và của cả nước nói chung. Bên cạnh sự cố gắng phát triển về đời sống vật
chất nhằm xây dựng cuộc sống, quê hương thì con người trên mảnh đất này cũng
không ngừng bồi đắp để làm giàu thêm cho tâm hồn mình bằng những lễ hội,
những câu chuyện kể… trong chiến lược phát triển kinh tế chính trị xã hội của
vùng. Như vậy, đời sống vật chất, những điều kiện tự nhiên cũng có sự tác động
rất lớn tới đời sống tinh thần của cư dân bản địa. Cho nên việc tìm hiểu, nghiên
cứu về điều kiện tự nhiên xã hội chính là cơ sở bước đầu, làm tiền đề để tìm hiểu
kho tàng văn hóa dân gian phong phú nơi đây.
1.1. Sơ lược về điều kiện tự nhiên, xã hội, văn hóa ở Đồng Hỷ, Thái Nguyên.
1.1.1. Điều kiện tự nhiên
Theo sách Đại Nam nhất thống chí:“Huyện Đồng Hỷ ở cách phủ 14 dặm
về phía đông bắc, đông tây cách 41 dặm, nam bắc cách nhau 97 dặm, phía
đông đến địa giới huyện Tư Nông 6 dặm, phía tây đến địa giới huyện Phú
Lương phủ Tùng Hóa 35 dặm, phía nam đến địa giới huyện Phổ Yên 45 dặm,
phía bắc đến địa giới huyện Võ Nhai 52 dặm” [22].
Đồng Hỷ là một huyện miền núi của tỉnh Thái Nguyên. Địa phận của
huyện dài từ 12°32’ đến 21°51’ vĩ Bắc, 105°46’ đến 106°04’ kinh Đông. Phía
Bắc giáp huyện Võ Nhai và tỉnh Bắc Cạn, phía Nam giáp huyện Phú Bình và
thành phố Thái Nguyên, phía Đông giáp tỉnh Bắc Giang, phía Tây giáp huyện
Phú Lương và thành phố Thái Nguyên.
10
Địa hình của huyện có đặc điểm thấp dần từ Đông Bắc xuống Tây Nam.
Độ cao trung bình là 80m so với mặt nước biển, nơi cao nhất là Lũng Phương
xã Vân Lăng và Mỏ Ba xã Tân long trên 600m; nơi thấp nhất là Huống Thượng
200m. Vùng Bắc và Đông Bắc có địa hình núi cao chia cắt phức tạp, có nhiều
khu suối có độ cao trung bình là 120 m. Vùng giữa là địa hình vùng núi thấp
đồi núi bát úp xen kẽ những cánh đồng ruộng, tương đối bằng phẳng. Điều này
sẽ gây khó khăn về giao thông nhưng lại tạo điều kiện thuận lợi để phát triển
lâm nghiệp, cây công nghiệp, chăn nuôi gia súc song cũng tạo nên nguồn tài
nguyên thiên nhiên chủ yếu là rừng nguyên sinh với nhiều loại gỗ có giá trị…
Toàn huyện có 26.448 ha rừng, trong đó rừng tự nhiên 14.432,2 ha, rừng trồng
7.146,6 ha. Ngoài ra huyện còn 4.869,2 ha rừng chưa trồng, chủ yếu là đất
trống đồi núi trọc đã tạo nên những điều kiện nhất định cho sự phát triển kinh tế
của vùng.
Do nằm sát chí tuyến Bắc trong vành đai Bắc bán cầu nên khí hậu của
tỉnh Thái Nguyên nói chung, huyện Đồng Hỷ nói riêng mang tính chất của khí
hậu nhiệt đới gió mùa . Theo sách Đại Nam nhất thống chí cho biết: “Đồng
Hỷ là huyện có khí lam chướng hơi nhẹ” [22]. Khí hậu được chia làm bốn
mùa rõ rệt: Xuân, hạ, thu, đông. Vào mùa hạ tiết trời nóng bức, nhiệt độ trung
bình từ 25 - 27°C, có nắng to, độ ẩm lớn vì mưa nhiều. Lượng mưa tương đối
cao, cường độ mạnh và mưa tập trung, có trận mưa chỉ trong một ngày mà
khiến nhiều nơi bị ngập úng. Chuyển sang mùa thu khí hậu mát dần, đến cuối
thu trời bắt đầu se lạnh. Mùa đông có gió mùa đông bắc, nhiệt độ hạ thấp dần
từ 12 - 15°C có năm xuống 7°C (Năm 2016). Bước vào mùa xuân thường có
mưa phùn, nhiệt độ ấm dần, các loài động vật, thực vật có dịp sinh sôi, phát
triển.
Sự xuất hiện của mùa đông lạnh, khí hậu khô hanh đã gây nhiều trở ngại
cho sản xuất và đời sống của con người. Song sự đa dạng về khí hậu đã có tác
dụng thúc đẩy sự phát triển của động vật và thực vật ở Đồng Hỷ. Nhiều loại cây
11
có khả năng rút ngắn thời gian sinh trưởng và quay vòng nhiều lần trong một
năm. Bản chất nóng ẩm của khí hậu là một trong những điều kiện thuận lợi rất
căn bản để đẩy nhanh quá trình sinh trưởng cây trồng, nâng cao hiệu quả trao
đổi chất và góp phần tăng sản lượng mùa màng. Đây chính là cơ sở cho sự đa
dạng hóa cơ cấu sản phẩm nông nghiệp, phát huy lợi thế của các yếu tố sinh
thái vùng.
Đồng Hỷ có hai con sông lớn chảy qua là sông Cầu và sông Công. Sông
Cầu - bắt nguồn từ xã Bằng Phúc (Chợ Đồn) chảy theo hướng Bắc Nam, dài 47
km, nằm ở biên giới phía tây Đồng Hỷ tạo thành ranh giới tự nhiên giữa huyện
với các vùng lân cận. Lưu lượng nước lớn nhất trung bình hàng năm 1.090
m3/gy, có lúc lên tới 4.300 m3/gy, mắc nhỏ nhất trung bình là 430 m3/gy.
Đoạn sông ở thượng nguồn dòng nước chảy xiết, càng về hạ lưu thì tốc độ dòng
chảy chậm lại, mặt sông trở nên phẳng lặng, hiền hòa, thuận lợi cho thuyền bè
đi lại. Sông Công bắt nguồn từ vùng núi Ba Lá (Định Hóa) chảy qua Định Hóa,
Đại Từ và Đồng Hỷ. Bên cạnh đó Đồng Hỷ còn có các con suối như: Khe Mo,
Suối Tiên, Ngàn Khe… Có thể nói, sông ngòi không chỉ là tuyến đường thủy
quan trọng, nguồn nước tưới cho đồng ruộng mà hàng năm còn bồi đắp cho
huyện một lượng phù sa lớn, giữ vị trí quan trọng trong việc phát triển kinh tế,
chính trị của địa bàn.
Đồng Hỷ có nhiều loại đất khác nhau trong đó núi chiếm 49% hình
thành do sự phong phú trên đá mác ma, đá biến chất, đá trầm tích. Đất đồi
chiếm 36% chủ yếu hình thành trên cát kết, bột kết, phiến sét và một phần phù
sa cổ kiến tạo. Ruộng đất bãi chiếm hơn 10% được phân phối dọc theo sông,
suối, chịu tác động của chế độ thủy văn. Loại đất có giá trị sử dụng trong sản
xuất nông nghiệp là feralit màu nâu vàng phát triển trên đá phù sa cổ, tập
trung chủ yếu ở các xã Tân Long, Hóa Trung… tạo điều kiện phát triển cây
công nghiệp dài ngày (chè) và cây công nghiệp hàng ngày, cây ăn quả, đồng
thời có khả năng cải tạo làm đồng cỏ chăn nuôi. Bên cạnh đó là đất phù sa bồi
12
đắp bởi các con sông: sông Cầu, sông Công… phân bố trên một diện rộng các
xã trên địa bàn đã tạo nên điều kiện thích hợp cho việc trồng các loại rau màu,
cây lương thực…
Đồng Hỷ nằm trong vành đai sinh khoáng Đông Bắc Việt Nam thuộc
vành đai sinh khoáng Thái Bình Dương cho nên tài nguyên khoáng sản phong
phú, đa dạng với một trữ lượng tương đối lớn. Sách Đại Nam nhất thống chí có
ghi “ sắt ở huyện Phổ Yên, Đồng Hỷ và Phú Lương…” [22]. Loại có trữ lượng
lớn nhất là cụm mỏ sắt Trại Cau, khoảng 20 triệu tấn và mỏ Linh Sơn 1-3 triệu
tấn. Theo tài liệu Pháp để lại có ghi Mỏ sắt Trại Cau là mỏ lộ thiên, quặng
thuộc loại tốt. Tư bản Pháp đã thăm dò từ năm 1927, 1928; đến 1939 chúng bắt
đầu tuyển mộ công nhân từ các tỉnh miền xuôi. Năm 1940, 1941 chúng bắt đầu
khai thác để xuất cảng cho Nhật và Ý. Ngoài ra còn có nhiều khoáng sản vật
liệu xây dựng như: đá xây dựng, đất sét, đá vụn, cát sỏi, đá Carbuat, Dolomit...
Giao thông của huyện tương đối phát triển với tổng chiều dài 729,8 km
trong đó với tuyến đường quan trọng 1B từ Thái Nguyên đi Lạng Sơn qua địa
bàn huyện dài 15,5 km, đường liên tỉnh dài 27 km, đường liên huyện dài 57,5
km, đường liên xã 171 km, đường liên xóm 404 km. Với Mật độ giao thông
toàn huyện bình quân đạt 13,4 km/km2 đã tạo thêm sự tăng cường thuận lợi
cho giao lưu giữa các vùng trong khu vực cũng như ngoài khu vực.
1.1.2. Đặc điểm kinh tế, xã hội
Với những đặc điểm của vị trí địa lí, điều kiện tự nhiên nêu trên bên
cạnh những khó khăn, hạn chế thì Đồng Hỷ cũng có những điều kiện thuận lợi
riêng để phát triển cho kinh tế nâng cao đời sống cho người dân.
Trong những năm gần đây, huyện Đồng Hỷ tiếp tục xác định tập trung
thực hiện khâu đột phá về xây dựng cơ sở hạ tầng, đặc biệt là hạ tầng giao
thông nông thôn, coi đây là một trong những yếu tố quan trọng để đẩy nhanh
chuyển dịch cơ cấu kinh tế đảm bảo hoàn thành tất cả các chỉ chỉ tiêu chủ yếu
mà Nghị quyết Đại hội Đảng bộ nhiệm kỳ mới 2015 - 2020 đã đề ra. Bên cạnh
13
đó, Đồng Hỷ cũng tăng cường đầu tư cho xây dựng nông thôn mới, bằng nhiều
giải pháp từ ưu tiên nguồn lực, huy động sức dân, tập trung chuyển đổi sản
xuất, không ngừng cải thiện, nâng cao đời sống của người dân.
Mặc dù còn gặp rất nhiều khó khăn về nguồn vốn đầu tư, tuy nhiên cùng
với sự hỗ trợ của nhà nước và lồng ghép các chương trình dự án, huyện Đồng
Hỷ đã ưu tiên mọi nguồn lực ngân sách tại chỗ tiến hành khởi công và xây
dựng hàng loạt các công trình giao thông quan trọng điển hình như tuyến
đường: Linh Nham - Khe Mo - Đèo Nhâu, tuyến đường Hòa Khê 1 - La Đàn xã
Văn Hán, Đường ĐT 272 Văn Lăng đi Phú Đô và tuyến đường Cầu treo Văn
Khánh đi Bản Tèn xã Văn Lăng. Trong đó, tiêu biểu phải kể đến con đường bê
tông dài 4 km với tổng mức đầu tư trên 35 tỷ đồng nối Bản Tèn - bản người
Mông đặc biệt khó khăn của huyện Đồng Hỷ với trung tâm xã Văn Lăng sẽ
được hoàn thành và đưa vào sử dụng trong một thời gian ngắn nữa. Con đường
này không chỉ có ý nghĩa sống còn với sự phát triển của gần 100 hộ đồng bào
Mông Bản Tèn mà nó còn mở ra nhiều điều kiện thuận lợi phát triển kinh tế xã hội của địa phương trong giai đoạn tới.
Bên cạnh việc đầu tư, xây dựng, làm mới các tuyến đường cũng phải kể
đến sự tích cực vào cuộc của cả hệ thống chính trị, sự đồng thuận của nhân dân
trong phong trào xây dựng nông thôn mới. Tiêu biểu của phong trào này có thể
kể đến xã Huống Thượng - đơn vị đầu tiên của huyện Đồng Hỷ cán đích xây
dựng nông thôn mới. Chỉ trong một thời gian ngắn bằng việc huy động sức dân
với phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm" gần 60 km đường bê tông
nông thôn cùng hệ thống kênh mương nội đồng phục vụ sản xuất đã được xây
dựng hoàn tất. Hầu hết các công trình phúc lợi xã hội phục vụ lợi ích dân sinh
và phát triển kinh tế đã được đầu tư xây dựng khang trang tạo nên diện mạo
mới, sự thay đổi rõ rệt ở một vùng quê thuần nông.
14
- Xem thêm -