Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Luận văn truyền thuyết vũ thành và lễ hội đề hả lục ngạn bắc giang...

Tài liệu Luận văn truyền thuyết vũ thành và lễ hội đề hả lục ngạn bắc giang

.PDF
123
184
77

Mô tả:

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TRẦN DUY PHƯƠNG TRUYỀN THUYẾT VŨ THÀNH VÀ LỄ HỘI ĐỀN HẢ LỤC NGẠN - BẮC GIANG LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN THÁI NGUYÊN - 2008 ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TRẦN DUY PHƯƠNG TRUYỀN THUYẾT VŨ THÀNH VÀ LỄ HỘI ĐỀN HẢ LỤC NGẠN - BẮC GIANG Chuyên ngành: VĂN HỌC VIỆT NAM Mã số: 60.22.34 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. VŨ ANH TUẤN THÁI NGUYÊN - 2008 DANH MỤC CÁC ẢNH Ảnh 1. Sơ đồ khu di tích Đền Hả .................................................................. 111 Ảnh 2. Cổng Đền Hả ..................................................................................... 111 Ảnh 3. Toàn cảnh khu di tích Đền Hả........................................................... 112 Ảnh 4. Đền Hả............................................................................................... 112 Ảnh 5. Ban thờ trong đền Hả ........................................................................ 113 Ảnh 6. Ban thờ Vũ Thành (Thân Cảnh Phúc)............................................... 113 Ảnh 7. Một trong 21 Sắc phong còn lưu giữ ............................................... 114 Ảnh 8. Bằng công nhân di tích lịch sử văn hoá Đền thờ Thân Cảnh Phúc... 114 Ảnh 9. GS. Phan Huy Lê và Đảng uỷ, UBND xã Hồng Giang, đại biểu hội đồng thân tộc Việt Nam tại Đền Hả.................................................. 115 Ảnh 10. Nhân dân đến với lễ hội Đền Hả ..................................................... 115 Ảnh 11,12,13,14. Công tác chuẩn bị cho đoàn rước ............................ 116 - 117 Ảnh 15,16,17. Trên đường rước ra bãi Dược....................................... 118 - 119 Ảnh 18. Tế lễ tại bãi Dược ............................................................................ 119 Ảnh 19. Trò chơi dân gian ............................................................................ 120 Ảnh 20. Cây đa quán Hả ............................................................................... 120 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan rằng đây là công trình nghiên cứu do tôi trực tiếp thực hiện cùng với sự cộng tác giúp đỡ của PGS. TS. Vũ Anh Tuấn và các đồng nghiệp. Các số liệu, hình ảnh và kết quả trong luận văn là trung thực và chưa từng được công bố trong bất kỳ một công trình nào khác. Mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đều được ghi rõ nguồn gốc. Tác giả luận văn Trần Duy Phương Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn LỜI CẢM ƠN Để thực hiện luận văn, ngoài sự nỗ lực cố gắng của bản thân, tôi luôn nhận được sự giúp đỡ tận tình của thầy hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Vũ Anh Tuấn. Sự giúp đỡ của các thầy cô khoa Sau Đại học, khoa Văn trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên, Viện Văn học Việt Nam, trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Sự giúp đỡ của Phòng Văn hoá và Thể dục Thể thao huyện Lục Ngạn, Ban Quản lý di tích Đền Hả. Nhân dịp này cho phép tôi được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS. TS. Vũ Anh Tuấn cùng toàn thể các thầy cô trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên, trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Viện Văn học Việt Nam, Phòng Văn hoá và Thể dục Thể thao huyện Lục Ngạn, Ban Quản lý di tích Đền Hả và các bạn đồng nghiệp, người thân đã động viên, giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này. Tác giả luận văn Trần Duy Phương Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1.1. Lịch sử của mỗi dân tộc luôn gắn liền với quá trình dựng nƣớc và giữ nƣớc. Dân tộc Việt Nam trong dòng chảy 4000 năm đã từng đƣơng đầu với bao thác ghềnh, chông gai bởi giặc ngoại xâm, bởi thiên tai địch hoạ để rồi từ đó kết đọng lớp phù sa văn hoá với những nét tiêu biểu nhất đó là: Truyền thống yêu nƣớc, tinh thần bất khuất với các tên tuổi còn lƣu danh và trở thành bất tử. Để ghi nhớ công ơn của những vị anh hùng đã có công dựng nƣớc và giữ nƣớc nhân dân ta không chỉ thêu dệt nên những truyền thuyết mang nhiều yếu tố huyền thoại mà còn phong thần để thờ phụng, hàng năm còn tổ chức lễ hội thể hiện lòng biết ơn đồng thời ôn lại truyền thống. Điều này làm cho hình ảnh những anh hùng luôn toả sáng và sống mãi trong lòng nhân dân qua bao thế hệ. Do vậy, nghiên cứu truyền thuyết về ngƣời anh hùng chống giặc ngoại xâm kết hợp với việc tìm hiểu lễ hội để tƣởng niệm họ là công việc vừa có ý nghĩa lý luận, vừa có ý nghĩa thực tiễn trong việc làm sáng tỏ hơn bản chất của thể loại truyền thuyết trong văn học dân gian Việt Nam. 1.2. Vũ Thành - sinh ra và lớn lên trên quê hƣơng Lục Ngạn- Bắc Giang. Giặc phƣơng Bắc xâm lƣợc, vốn có lòng yêu nƣớc, căm thù giặc sâu sắc, Vũ Thành đã góp sức mình cùng dân tộc đánh giặc, lập lên những chiến công vang dậy. Công lao và đức độ của ông đƣợc nhân dân ghi nhớ, truyền tụng thể hiện qua việc lập ngôi đền với tên gọi là đền Hả ở xã Hồng Gianghuyện Lục Ngạn- tỉnh Bắc Giang. Hàng năm, nhân dân tổ chức lễ hội để ghi nhớ những chiến công cùng đức độ của ông, nhắc nhở các thế hệ con cháu lòng biết ơn, tiếp nối truyền thống của cha ông. Câu chuyện về con ngƣời này trong tiềm thức của nhân dân trở thành ngƣời anh hùng có công trong việc Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 2 đánh đuổi giặc ngoại xâm, bảo vệ quê hƣơng đất nƣớc, đem lại cuộc sống yên bình cho nhân dân, việc lập đền thờ cùng với tổ chức lễ hội khiến cho câu chuyện đã trở thành truyền thuyết làm phong phú thêm tính địa phƣơng, về ngƣời anh hùng, những nhân vật lịch sử trong kho tàng văn học dân gian của tỉnh Bắc Giang nói riêng và kho tàng văn học dân gian của dân tộc Việt Nam nói chung. Đi sâu vào tìm hiểu truyền thuyết Vũ Thành và lễ hội đền Hả sẽ giúp ta thấy đƣợc ảnh hƣởng của con ngƣời này trong tiềm thức dân gian, lòng ngƣỡng mộ của nhân dân với anh hùng dân tộc. Qua đó, góp thêm những lý giải về nguồn cội của các yếu tố tạo nên cốt cách ngƣời anh hùng lịch sử trong quan niệm theo kiểu tƣ duy dân gian. 1.3. Cơ cấu của xã hội Việt Nam cổ truyền là: Nhà - Làng - Nƣớc đã kéo theo vai trò của địa phƣơng, dòng họ trong chiến tranh giữ nƣớc. Do vậy, tầm quan trọng của truyền thuyết địa phƣơng là không thể phủ nhận. Tính đến nay số lƣợng nghiên cứu, sƣu tầm truyền thuyết đã có khá nhiều và cũng có những thành tựu đáng kể. Tuy vậy, mảng truyền thuyết địa phƣơng vẫn còn ít đƣợc quan tâm. Trong tình hình chung ấy, truyền thuyết và lễ hội về Vũ Thành ở Hồng Giang - Lục Ngạn - Bắc Giang cho đến nay vẫn chƣa có nhà nghiên cứu nào có công trình khảo cứu một cách có hệ thống. Hơn nữa, bƣớc vào thời kỳ hội nhập, con ngƣời Việt Nam lại chuẩn bị cho mình hành trang vững chắc, đó là sự tiếp nối mạch nguồn văn hoá truyền thống của dân tộc. Đã có thời kỳ, do những quan điểm lệch lạc, nhiều giá trị văn hoá cổ truyền của dân tộc bị phá bỏ, nhiều công trình văn hoá bị đánh mất. Những năm gần đây Đảng và Nhà nƣớc ta đã chú trọng khôi phục, phát triển những giá trị văn hoá ấy. Đặc biệt, từ Đại hội Đảng VI ( từ 1986 đến nay) với tinh thần đổi mới, văn hoá đƣợc nhìn nhận lại, nhiều đền đài, miếu mạo, chùa chiền...đƣợc phục chế, hội hè đƣợc khôi phục và trong đó phải kể đến lễ hội đền Hả ở Lục Ngạn - Bắc Giang. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 3 Theo đó, từ những năm 90 của thế kỷ XX trở lại đây, có một hƣớng nghiên cứu mới đƣợc triển khai, bƣớc đầu đã có những thành tựu đáng kể. Đó là nghiên cứu thể loại truyền thuyết trong mối quan hệ với lễ hội ở nhiều địa phƣơng, nhiều vùng văn hoá khác nhau trên phạm vi cả nƣớc. Hƣớng nghiên cứu này vừa phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn, vừa phù hợp với đặc điểm của văn học dân gian dân tộc, một nền văn học mà truyền thuyết là thể loại đặc biệt phong phú nhƣng còn ít đƣợc nghiên cứu. Vì những điều trên, ngƣời viết với đề tài về truyền thuyết Vũ Thành và lễ hội đền Hả mong muốn đƣợc góp sức mình vào việc bảo tồn và lƣu giữ bản sắc dân tộc. Mặt khác, trong giai đoạn hiện nay khi lễ hội cổ truyền Việt Nam đang ngày càng lôi cuốn nhiều tầng lớp nhân dân tham gia thì một vấn đề đặt ra là: Cần tổ chức và tham gia lễ hội nhƣ thế nào cho đúng với ý nghĩa của loại hình sinh hoạt văn hoá truyền thống này? Ta cần phải có một cái nhìn học thuật để sao cho vừa có sự kế thừa, vừa phát triển mà vẫn giữ đƣợc bản sắc văn hoá truyền thống của dân tộc. Tìm hiểu truyền thuyết và lễ hội về ngƣời anh hùng Vũ Thành giúp chúng ta thêm một lần nữa hiểu sâu về văn học dân gian nói chung và truyền thuyết nói riêng của dân tộc, vừa là một hiện tƣợng văn học vừa là một hiện tƣợng văn hoá. Là một giáo viên trực tiếp tham gia giảng dạy bộ môn văn học nói chung trong đó có văn học dân gian, việc nghiên cứu về truyền thuyết Vũ Thành cùng với lễ hội đền Hả là cơ hội để ngƣời viết tích luỹ kiến thức về kho tàng truyền thuyết từ đó bồi đắp cho học sinh lòng tự hào về truyền thống quý báu của dân tộc, khơi dạy trong các em ý thức về việc gìn giữ, bảo tồn và phát huy văn hoá dân tộc . Trên đây là tất cả những lý do khiến ngƣời viết chọn đề tài "Truyền thuyết Vũ Thành và lễ hội đền Hả - Lục Ngạn-Bắc Giang". 2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 4 2.1. Lƣợc điểm lịch sử nghiên cứu truyền thuyết Truyền thuyết ở nƣớc ta đã có từ khá sớm (thế kỷ XIV, XV) tuy nhiên, thuật ngữ truyền thuyết và việc giới thuyết truyền thuyết ra đời tƣơng đối muộn, vào giữa thế kỷ XX. Năm 1961, trong bộ giáo trình Văn học dân gian Việt Nam của trƣờng ĐHSP HN tác giả Đỗ Bình Trị thừa nhận truyền thuyết là một thể loại và đƣa ra định nghĩa về truyền thuyết. "Truyền thuyết là những truyện có dính líu đến lịch sử mà lại có sự kỳ diệu - là lịch sử hoang đường" [71]. Trên tạp chí Nghiên cứu văn học từ 1960-1965 có đăng tải cuộc tranh luận sôi nổi về truyền thuyết Mị Châu-Trọng Thuỷ. Điều mà các tác giả bàn đến ở đây là những vấn đề mà truyền thuyết này đã đặt ra và còn nhiều tranh cãi. Báo nhân dân số 549 ngày 29-4-1969 có đăng bài viết Nhân ngày giỗ tổ Vua Hùng của cố thủ tƣớng Phạm Văn Đồng. Bài báo đã nêu ra vấn đề mấu chốt của truyền thuyết là mối quan hệ giữa lịch sử và truyền thuyết. Năm 1971, công trình Truyền thống anh hùng dân tộc trong loại hình tự sự dân gian Việt Nam Tập trung những bài nghiên cứu về truyền thuyết đã xuất bản. Các tác giả Nguyễn Ngọc Côn, Tầm Vu, Phan Trần, Đinh Gia Khánh và Kiều Thu Hoạch đã có những đóng góp lớn trong đó đáng chú ý là Truyền thuyết anh hùng trong thời kỳ phong kiến của tác giả Kiều Thu Hoạch. Ông đƣa ra định nghĩa và phân loại truyền thuyết, đồng thời đƣa ra những cái nhìn tổng quát và những kiến giải sâu sắc về bản chất thể loại. Ông nhận xét có thể nói lễ hội là một bộ phận hữu cơ không thể thiếu được của truyền thuyết anh hùng Việt nam... chính nhờ những lễ hội mà truyền thuyết anh hùng có dịp được nhắc nhở và đi sâu vào ký ức của nhân dân [25, tr 220]. Năm 1973 trong bài Tìm hiểu quan hệ giữa thần thoại, truyền thuyết và diễn xướng tín ngưỡng phong tục tác giả Nguyễn Khắc Xƣơng nêu lên Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 5 mối quan hệ giữa thần thoại, truyền thuyết và lễ hội. “thần thoại, truyền thuyết lưu truyền bằng miệng trong dân gian đã được tái hiện cụ thể và sinh động trước nhân dân qua nghệ thuật diễn xướng hỗn hợp [83, tr98]. Năm 1974 trong Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam, tác giả Cao Huy Đỉnh có chƣơng “ Dòng tự sự lịch sử với nền độc lập nước nhà và những gương công đức tài tử An Dương Vương đến đầu Lê" [20] viết về truyền thuyết. Mặc dù ông mới đi vào phân tích những tác phẩm cụ thể nhƣng ngƣời đọc cũng tiếp thu đƣợc nhiều kiến thức quý báu về lý luận; những gợi ý về diện mạo chung của thể loại này. Trong bài viết Truyền thuyết dân gian với tâm lý cộng đồng người Việt đăng trên tạp chí văn học số 2/1982, tác giả Bùi Quang Thanh cho rằng: "Cũng từ miếng đất hội làng, tác giả góp phần thiết thực thức tỉnh niềm đam mê mất nước, nỗi nhục nô lệ, ý thức về sự thống nhất như một lẽ sống còn, ý thức thà chết chứ không cam chịu sống quì cho người Việt Nam trên các chặng đường lịch sử" [61, tr68]. Đầu những năm 90, khi cuốn giáo trình Văn học dân gian Việt Nam của Đại học Tổng hợp đƣợc viết lại, tác giả Lê Chí Quế đã dành một chƣơng viết về truyền thuyết. Trong đó, tác giả đã vẽ lên bộ mặt của thể loại truyền thuyết trên cái khung là định nghĩa, phân loại, phân tích dẫn chứng. Năm1991, trong bài Bàn thêm về thể loại truyền thuyết tác giả Chiêng Xom An điểm một loạt các định nghĩa trong sự phân tích có phê phán, từ đó đƣa ra một quan niệm mới về truyền thuyết, coi truyền thuyết là một tập hợp những truyện tích ngắn gọn để bổ sung , hỗ trợ cho thần thoại, cổ tích nào đó [2]. Trong bài viết Nghiên cứu truyền thuyết- những vấn đề đặt ra , tác giả Trần Thị An đã đƣa ra quan điểm lịch sử nghiên cứu truyền thuyết và đƣa ra một số vấn đề cơ bản của thể loại đang đƣợc đặt ra và cần giải quyết Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 6 triệt để hơn nhƣ mối quan hệ giữa lịch sử và truyền thuyết, một vài vấn đề thi pháp truyền thuyết, thẩm định lại tƣ liệu truyền thuyết [Tạp chí văn học, 7/1997, 1, tr 34]. Năm 1996, tác giả Lê Văn Kỳ trong Mối quan hệ giữa truyền thuyết người Việt và lễ hội các anh hùng đã nêu lên định nghĩa hội, lễ, mối quan hệ giữa hội lễ nhƣ hội lễ về Hai Bà Trƣng, Thánh Gióng...trong mối quan hệ với truyền thuyết xung quanh những mặt này [48]. Trong cuốn giáo trình Văn học dân gian của trƣờng Đại học sƣ phạm Hà Nội dùng cho Đại học từ xa, các tác giả cũng dành một chƣơng viết về truyền thuyết. Tác giả đã nêu lên một cách khá sâu sắc các vấn đề đặc trƣng, nội dung-ý nghĩa và nghệ thuật của truyền thuyết. Từ những kiến thức này, tác giả đƣa ra phƣơng pháp phân tích tác phẩm truyền thuyết, phân tích dựa trên những mô típ cấu thành tác phẩm và phân tích gắn với nghi lễ, hội lễ. Qua một số công trình nghiên cứu kể trên, chúng tôi rút ra một vài điểm nhận xét nhƣ sau: - Nhìn chung, các nhà nghiên cứu đều coi truyền thuyết là một thể loại riêng của văn học dân gian. Trên cơ sở đó, đi sâu vào nghiên cứu các vấn đề đặc trƣng nội dung, đặc điểm thi pháp. - Có hai hƣớng nghiên cứu: Thứ nhất, nghiên cứu trên và bằng văn bản, thứ hai, nghiên cứu truyền thuyết gắn liền với diễn xƣớng của nó mà cụ thể là lễ hội. Không thể phủ định những thành tựu của hƣớng nghiên cứu thứ nhất bởi những đóng góp quan trọng đã đƣợc giới nghiên cứu thừa nhận. Nhƣng rõ ràng hƣớng nghiên cứu thứ hai ngày càng chiếm ƣu thế hơn vì ƣu điểm của nó trong tiếp cận truyền thuyết, tiếp cận từ đặc trƣng nguyên hợp của văn học dân gian. Truyền thuyết lịch sử về ngƣời anh hùng chống giặc ngoại xâm, anh hùng văn hoá trên địa bàn tỉnh Bắc Giang rất phong phú. Tuy nhiên, việc sƣu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 7 tầm, biên soạn, giới thiệu nghiên cứu nó thì chƣa đƣợc tiến hành trên phạm vi rộng. Có thể điểm qua một số tác phẩm tiêu biểu: Năm 2005, trong cuốn "Văn nghệ Bắc Giang" tập I, tác giả Nguyễn Đình Bƣu đã chỉ ra một cách cụ thể, chân thực về số lƣợng các di tích gắn liền với tên tuổi nhân vật lịch sử đƣợc tái tạo qua truyền thuyết. Đồng thời tác giả cũng đi vào trình bày một cách chi tiết nội dung, giá trị của một số truyền thuyết lịch sử tiêu biểu trên địa bàn tỉnh. Có thể nói, bài viết của tác giả Nguyễn Đình Bƣu hết sức có giá trị với việc lƣu truyền, bảo tồn vốn truyền thuyết Bắc Giang. Ngoài ra, trong cuốn "Địa chí - Bắc Giang" (2005), các tác giả đã sƣu tầm đƣợc 10 truyền thuyết điển hình của quê hƣơng nhƣ: Truyền thuyết Cao Sơn- Quý Minh, truyền thuyết Hùng Linh, truyền thuyết Thân Cảnh Phúc. 2.2. Lịch sử sƣu tầm, nghiên cứu truyền thuyết và lễ hội về Vũ Thành Trong cuốn Hội Từ Hả do UBND huyện Lục Ngạn biên soạn và xuất bản (1985) các tác giả đã trình bày ba nội dung chính: Thần tích Vũ Thành, đền Hả và một số di tích về Vũ Thành, Hội đền Hả. Về nhân vật Vũ Thành, cuốn sách đã chỉ rõ. “Ông sinh ra và lớn lên ở mảnh đất Lục Ngạn” [64, tr13] là con trai của tả bộc xạ Vũ Tỉnh và Thái trƣởng công chúa triều Lý Huệ Tông - Lý Thị Cảnh. Bƣớc vào tuổi 17, 18 đất nƣớc ta bị quân Nguyên Mông xâm lƣợc lần thứ nhất. Vũ Thành xin vua Trần đi đầu quân dẹp giặc, trải qua 10 trận đánh, ông đã lập lên nhiều chiến công vang dội, nhất là những trận phía sau lƣng địch. Nhƣ vậy, theo cuốn sách, nhân vật lịch sử Vũ Thành sống vào thời Lý - Trần. Cùng với thần tích Vũ Thành, cuốn sách đã trình bày khá chi tiết và kỹ lƣỡng về di tích lịch sử đền Hả, nơi thờ Đức Thánh Vũ Thành và những đặc điểm về lễ hội Đền Hả. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 8 Cuốn Lý lịch di tích đền Hả - Bảo tàng Hà Bắc-1990 tập trung đề cập đến di tích đền Hả, nơi thờ đức thánh Vũ Thành trên các phƣơng diện, tên gọi, đƣờng đi đến và sự phân bố di tích, sự kiện lịch sử và ngƣời đƣợc thờ ở đền, loại hình di tích và các nhân vật, tài liệu trong di tích đền Hả. Qua đó tác giả cuốn sách đề ra phƣơng án bảo vệ và sử dụng di tích. Trong cuốn sách này tác giả đã đƣa ra một nhận định rất quan trọng: Vũ Thành ngƣời đƣợc thờ trong di tích thực chất là Thân Cảnh Phúc. Phát hiện trên có ý nghĩa rất lớn trong việc tìm hiểu về con ngƣời và cuộc đời cũng nhƣ ý nghĩa của di tích. Cuốn Di tích Bắc Giang - Nguyễn Xuân Cần- ĐH SPHN, 2001 giới thiệu khái quát về di tích đền Hả từ địa lý, lịch sử, ngƣời đƣợc thờ... theo tác giả, di tích đƣợc xây dựng từ thời Lý - Trần, ngôi đền thờ tƣớng công Vũ Thành cùng 6 nhân vật. + Thành phụ: Thần thân tƣớng quốc vƣơng thái truyền tả bộc xạ Vũ Tỉnh. + Thánh mẫu: Quốc mẫu Thiên Thành, Thái Đƣờng, Thái trƣởng Lý Thị Cảnh. + Thánh di: Thuỵ thiên công chúa, Bình Dƣơng công chúa, Yên Hoa công chúa. + Thánh phi: Giáp Thị Tuấn [11, tr34]. - Trong bài viết Bảo tồn di sản văn hoá lễ hội ở Bắc Giang của Tiến sỹ Bùi Văn Thành (Trích trong cuốn văn hoá Bắc Giang, 2002), tác giả mới chỉ giới thiệu sơ lƣợc về lễ hội đền Hả (Hồng Giang-Lục Ngạn - Bắc Giang) với những nghi thức trong phần lễ và phần hội. Bài viết thiên về góc độ văn hoá của di tích nhiều hơn là xét về lịch sử. Qua đó đóng góp tiếng nói vào việc bảo tồn di sản văn hoá dân tộc [62]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 9 - Ngoài ra trong Lễ hội Bắc Giang - Sở VHTT Bắc Giang, 2002. Các tác giả đã trình bày khá chi tiết về lễ hội đền Hả, từ thời gian tổ chức đến các thành phần tham gia [73]. Trong cuốn Văn nghệ dân gian Bắc Giang - Hội VHNT Bắc Giang (2005) có bài viết Truyền thuyết lịch sử của tác giả Nguyễn Đình Bƣu. Tác giả giới thiệu khái quát về mối liên hệ giữa nhân vật lịch sử Vũ Thành và lễ hội Đền Hả. Theo tác giả, Vũ Thành là một vị tƣớng nhà Lý đã có công dẹp giặc Phƣơng Bắc (giặc Tống). Ngoài ra, qua sự thất trận của Vũ Thành, tác giả đã đề cập đến tinh thần dân tộc " truyền thống nêu cao tinh thần chiến đấu và chiến công của Vũ Thành bằng cách lý giải vì sao Vũ Thành thua trận và chỉ khi nào mới chịu chết. Dường như các tác giả dân gian muốn lý giải mối quan hệ giữa việc nhà, việc nước " [9, tr20]. Nhƣ vậy, trong bài viết, tác giả Nguyễn Đình Bƣu cũng đã tiếp cận vấn đề trên góc độ soi chiếu của văn học dân gian. Nhƣ vậy vấn đề nghiên cứu truyền thuyết Vũ Thành (tức Thân Cảnh Phúc) và mối quan hệ giữa các truyền thuyết với lễ hội đền Hả là chƣa từng đƣợc nghiên cứu một cách hệ thống. Đề tài này sẽ phát triển kết quả của các công trình nghiên cứu trƣớc đó và mở rộng thêm tầm giá trị của truyền thuyết. 3. MỤC ĐÍCH NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU 3.1. Mục đích Mục đích chính là thực hành khoa học, vận dụng lý thuyết chuyên ngành vào nghiên cứu một trƣờng hợp cụ thể, củng cố, nâng cao kiến thức và phƣơng pháp nghiên cứu. Khảo tả lễ hội từ điểm nhìn truyền thuyết để làm sáng tỏ mối quan hệ truyền thuyết và lễ hội. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 10 Luận văn đƣa ra cái nhìn toàn diện về nhân vật từ góc độ văn học dân gian, đồng thời chỉ ra mối liên hệ giữa truyền thuyết Vũ Thành và lễ hội này. Qua đó, đƣa ra một căn cứ bổ sung để cho chính quyền cũng nhƣ nhân dân trong vùng thấy đƣợc giá trị của di tích từ đó có biện pháp bảo tồn và phát triển những nét đẹp văn hoá của quê hƣơng. 3.2. Nhiệm vụ Giới thiệu khái quát vùng đất Bắc Giang, truyền thuyết về Vũ Thành trên quê hƣơng Bắc Giang. Trên cơ sở đó khẳng định Bắc Giang là một vùng văn hoá lịch sử còn lƣu giữ dấu ấn tên tuổi ngƣời anh hùng Vũ Thành. Thu thập tƣ liệu, tạo dựng một cách có hệ thống truyền thuyết Vũ Thành, khảo sát đặc điểm, nội dung và các mô tip cơ bản của hệ thống truyền thuyết đó. Mô tả chi tiết, cụ thể lễ hội đền Hả để chỉ ra mối quan hệ giữa truyền thuyết và lễ hội cũng nhƣ nét riêng của lễ hội này. 4. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU 4.1. Đối tƣợng nghiên cứu Là các truyền thuyết xoay quanh cuộc đời, sự nghiệp và thân thế của nhân vật lịch sử Vũ Thành, do đặc điểm của truyền thuyết về ngƣời anh hùng chống xâm lƣợc là thƣờng gắn liền với các mùa và nghi lễ tế thần ở đình, đền, miếu... Nên ngƣời viết đồng thời khảo tả lễ hội ở đền Hả (Hồng Giang Lục Ngạn - Bắc Giang) trong mối quan hệ với thần tích Vũ Thành. Cụ thể là khảo sát một hệ thống tƣ liệu nhƣ sau: + Hội Từ Hả + Lý lịch di tích đền Hả + Lễ hội Bắc Giang + Những tài liệu ghi chép về văn hoá, văn học và lịch sử qua điền dã. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 11 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn tìm hiểu, phân tích, đánh giá các giá trị tƣ tƣởng thẩm mỹ của những truyền thuyết về Vũ Thành dƣới góc độ khoa học văn học dân gian trên hai phƣơng diện: Giá trị tƣ tƣởng qua nội dung phản ánh và ý thức nghệ thuật qua các mô típ cơ bản. Đồng thời, để làm đƣợc điều này, theo đặc trƣng thể loại truyền thuyết luận văn khảo tả chi tiết lễ hội tƣởng niệm Vũ Thành ở đền Hả xã Hồng Giang - Lục Ngạn - Bắc Giang. 5. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Trong quá trình nghiên cứu đề tài, chúng tôi sử dụng một số phƣơng pháp để triển khai các vấn đề nhƣ sau. 5.1. Phƣơng pháp thống kê + Dùng để tập hợp các bản kể Truyền thuyết Vũ Thành. + Xác định số lƣợng các mô típ, các tình tiết của cốt truyện để rút ra nhận xét thông qua những con số cụ thể. 5.2. Phƣơng pháp điền dã + Trực tiếp gặp gỡ và trao đổi với các cụ già thƣờng xuyên đến lễ ở đền. + Đến xóm làng, khu phố để tìm hiểu qua các cụ cao niên + Trực tiếp dự lễ hội để có thể tƣờng trình, mô tả diễn biến, những nét riêng của lễ hội Vũ Thành ở đền Hả. 5.3. Phƣơng pháp tiếp cận hệ thống Xem xét truyền thuyết Vũ Thành là một hệ thống các bản kể. + Đặt các bản kể trong sự đối sánh với nhau và cả hệ thống văn hoá dân gian Lục Ngạn, giải quyết vấn đề theo một cái nhìn lịch sử (từ Vũ Thành đến Thân Cảnh Phúc). 5.4. Phƣơng pháp so sánh loại hình Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 12 + Thông qua sự phân tích cấu trúc của các bản kể, chúng tôi so sánh từng đơn vị bản kể để tìm ra các mô tip khác nhau. Từ đó chúng tôi sẽ tìm hiểu ý nghĩa từng mô típ. 5.5. Phƣơng pháp liên ngành Do văn hoá dân gian nói chung truyền thuyết nói riêng có đặc trƣng là tính nguyên hợp, tính chất sinh hoạt thực hành nên khi tiến hành đề tài này chúng tôi phải vận dụng các phƣơng pháp thuộc các lĩnh vực lịch sử, dân tộc, tôn giáo, tín ngƣỡng để có thể lý giải một số vấn đề liên quan đến đề tài. 6. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI Luận văn là công trình khoa học đầu tiên đi sâu vào nghiên cứu các vấn đề chính của truyền thuyết Vũ Thành và lễ hội đền Hả một cách khá toàn diện trên phƣơng diện một thể loại văn học dân gian. Đặc điểm nội dung và mô típ kết cấu của truyền thuyết Vũ Thành đƣợc kiến giải và đánh giá trên cơ sở những tiến bộ khoa học nghiên cứu văn học dân gian hiện nay. Lễ hội tƣởng niệm thƣợng tƣớng công Vũ Thành ở đền Hả đƣợc khảo tả chi tiết, cụ thể: phần lễ, phần hội, qua đó thấy đƣợc mối quan hệ giữa truyền thuyết và lễ hội. Trên cơ sở kế thừa các tài liệu đã nghiên cứu về nhân vật lịch sử Vũ Thành và lễ hội đền Hả, luận văn đóng góp một phần nhỏ vào việc bảo lƣu và phát triển vốn văn học dân gian của quê hƣơng nói riêng và dân tộc nói chung. 7. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung chính của luận văn đƣợc trình bày trong 3 chƣơng. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 13 Chƣơng 1: Văn hoá dân gian Lục Ngạn - cái nôi của truyền thuyết Vũ Thành và lễ hội đền Hả. Chƣơng 2: Truyền thuyết Vũ Thành ở Lục Ngạn - Bắc Giang. Chƣơng 3: Lễ hội đền Hả ở Lục Ngạn - Bắc Giang. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 14 PHẦN NỘI DUNG Chƣơng I VĂN HOÁ DÂN GIAN LỤC NGẠN - CÁI NÔI CỦA TRUYỀN THUYẾT VŨ THÀNH VÀ LỄ HỘI ĐỀN HẢ 1. KHÁI QUÁT VỀ VĂN HOÁ LỤC NGẠN - BẮC GIANG 1.1. Quan niệm về vùng văn hoá Vùng văn hoá là hiện tƣợng xã hội - lịch sử đƣợc các nhà văn hoá học nghiên cứu và phân định. Trong quá trình hình thành, tồn tại và phát triển của mỗi nền văn hoá của một quốc gia hay một cộng đồng dân tộc, thƣờng đƣợc hợp thành bởi các vùng văn hoá với những đặc trƣng, sắc thái riêng làm thành tính thống nhất và đa dạng của các nền văn hoá. Việt Nam là quốc gia đa dân tộc và đa vùng miền, Kết quả nghiên cứu của các nhà lịch sử và văn hoá học Việt Nam đã phân chia nƣớc ta có khoảng từ 6 đến 9 vùng văn hoá, với những đặc trƣng và sắc thái riêng, làm thành tính thống nhất, đa dạng và phong phú của văn hoá Việt Nam. Trong các vùng văn hoá lại phân chia thành các tiểu vùng. Nhƣ vậy, việc phân vùng văn hoá không căn cứ và tuỳ thuộc vào đơn vị hành chính hiện tại, mà căn cứ vào quá trình hình thành các vùng không gian văn hoá do những đặc điểm địa lý và điều kiện lịch sử xã hội cụ thể của mỗi vùng đã hình thành nên các vùng văn hoá với những đặc trƣng và sắc thái riêng đƣợc phản ánh ở các lĩnh vực văn hoá vật thể và phi vật thể. Hay nói nhƣ phó giáo sƣ - tiến sĩ Hoàng Nam; "Tự nhiên và con người hoà đồng, kết thành một thể thống nhất, dù là thống nhất tương đối, tạo thành các vùng văn hoá" [28, tr 59]. Cùng với Bắc Ninh, Bắc Giang thuộc vùng văn hoá châu thổ Bắc Bộ. Đây là vùng văn hoá đặc sắc và độc đáo của Việt Nam. Tiếp đến, hai vùng đất này, hợp thành một tiểu vùng văn hoá đƣợc gọi bằng các khái niệm văn hoá Kinh Bắc, văn hoá xứ Bắc. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn 15 Vị thế và đặc điểm lịch sử xã hội đặc biệt đó đã khiến xứ Bắc - Kinh Bắc trở thành một trong những vùng đất tiêu biểu của nền văn hiến Việt cổ, sớm tạo nhân cách Việt Nam, với những sắc thái, đặc trƣng riêng, phản ánh trong truyền thống của con ngƣời vùng Kinh Bắc.Ở đây tinh thần đoàn kết cộng đồng đƣợc hình thành sớm và bền chặt, sớm có lòng yêu nƣớc và tinh thần cách mạng, tính cần cù, năng động, truyền thống hiếu học và khoa bảng, lòng say mê và sáng tạo trong các hoạt động văn hoá nghệ thuật, tinh thần nhân ái và tình nghĩa trong ứng xử "tứ hải giao tình"; "tình chung một khắc, nghĩa dài trăm năm”. Trong không gian văn hoá vùng Kinh Bắc, Bắc Giang có những đặc trƣng riêng độc đáo, quyến rũ. Tìm hiểu về truyền thuyết Vũ Thành và lễ hội đền Hả không thể bỏ qua sự so sánh, đối chiếu với những đặc điểm của văn hoá Bắc Giang. Bởi một lẽ, truyền thuyết Vũ Thành vừa là sản phẩm của quá trình sáng tạo văn hoá vùng Kinh Bắc, vừa là sự kết tinh cho nét đẹp về đời sống tâm hồn của nhân dân Lục Ngạn nói riêng, nhân dân tỉnh Bắc Giang nói chung. 1.2. Lục Ngạn - Bắc Giang - vùng văn hoá dân gian đặc sắc, cái nôi của truyền thuyết Vũ Thành Là ngƣời con của mảnh đất Lục Ngạn - Bắc Giang, Vũ Thành đã hội tụ trong mình khí thiêng sông núi quê hƣơng. Sự toả sáng của ông trong lịch sử dân tộc cũng chính là sự thăng hoa của văn hoá vùng Bắc Giang. Làm nên nét đặc trƣng cho văn hoá nơi đây trƣớc hết phải kể đến yếu tố tạo nên điều kiện tự nhiên. 1.2.1. Điều kiện tự nhiên Bắc Giang là vùng đất phía Đông Bắc của Kinh Bắc, tiếp giáp với xứ Lạng, vừa có đồng bằng, đồi gò và núi rừng xen lẫn, khe động hiểm trở. Nhƣ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan