VIỆN THƯƠNG MẠI VÀ KINH TẾ QUỐC TẾ
BỘ MÔN KINH DOANH QUỐC TẾ
~~~~~~*~~~~~~
BÀI TẬP NHÓM
Môn: Môi trường kinh tế toàn cầu đối với doanh nghiệp
Đề tài:
VIỆT NAM CÓ THỂ VÀ CÓ NÊN TRỞ THÀNH
CÔNG XƯỞNG CỦA THẾ GIỚI?
Giảng viên
: TS. Nguyễn Anh Minh
Thành viên nhóm
: Phạm Khánh Chi (CH250570)
Nguyễn Thị Hải Yến (CH250583)
Lớp
: QTKDQT K25
HÀ NỘI – 2018
Mở đầu
MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh toàn cầu hóa sâu rộng, nền kinh tế cùng với sự khác biệt về lợi thế
cạnh tranh giữa các quốc gia, các hoạt động tạo ra giá trị trong chuỗi sản xuất đang có
xu hướng chuyển dịch sang các quốc gia khác nhau tương ứng với lợi thế so sánh của
quốc gia đó để doanh nghiệp đạt được lợi thế cạnh tranh cao hơn. Từ đó hình thành
các công xưởng của thế giới - nơi thực hiện các công việc gia công, lắp ráp sản phẩm
lớn nhất thế giới, không yêu cầu công nhân có trình độ cao – khâu cần nhiều sức lao
động và mang lại giá trị gia tăng ít nhất trong chuỗi sản xuất. Việt Nam hiện đang thực
hiện phần lớn công việc thuộc khâu này, vậy Việt Nam có thể và có nên trở thành công
xưởng của thế giới?
I. TỔNG QUAN VỀ CÁC CÔNG XƯỞNG CỦA THẾ GIỚI
1. Các công xưởng của thế giới
1.1. Anh
Từ năm 1760 đến năm 1840, ở Anh diễn ra quá trình chuyển biến từ sản xuất nhỏ
thủ công sang sản xuất lớn bằng máy móc. Đây là cuộc cách mạng công nghiệp hay
công nghiệp hóa việc sản xuất. Cách mạng công nghiệp đã làm thay đổi bộ mặt của
nước Anh : nhiều trung tâm đô thị mới và thành thị đông dân xuất hiện. Sản xuất bằng
máy đã nâng cao năng suất lao động và ngày càng xã hội hóa quá trình lao động của
chủ nghĩa tư bản. Cách mạng công nghiệp cũng góp phần thúc đẩy những chuyển biến
mạnh mẽ trong những ngành kinh tế khác. Nhu cầu công nghiệp hóa khiến nông
nghiệp nhanh chóng chuyển sang phương thức chuyên canh hoặc thâm canh, đồng thời
quá trình cơ giới hóa nông nghiệp góp phần giải phóng nông dân, bổ sung một lực
lượng lao động lớn cho thành phố. Cùng với đó, những phát minh về máy móc (James
Hargreaves phát minh ra máy kéo sợi Gien ni năm 1764; James Watt phụ tá thí nghiệm
của một trường đại học đã phát minh ra máy hơi nước năm 1784; linh mục Edmund
Cartwright cho ra đời một phát minh quan trọng trong ngành dệt là máy dệt vải năm
1785) Anh đã chuyển từ sản xuất nhỏ sang sản xuất lớn bằng máy móc. Trong những
thập niên đầu thế kỷ 19, hàng hóa sản xuất ở Anh thống trị thị trường thế giới. Anh là
cái “lò” của nhiều hàng hóa sản xuất hàng loạt hơn bất kỳ nơi nào khác. Các ngành
công nghiệp đều phát triển với một tốc độ cực kỳ nhanh, các ngành công nghiệp dệt,
than, sắt phát triển mạnh. Năm 1850, Anh đã sản xuất 1/2 sản lượng gang, hơn 1/2 sản
lượng than đá và gần 1/2 sản lượng bông của thế giới. Những trung tâm khai thác than
lớn ở Anh là: New Castle, Cadiff, Glasgow. Ngành dệt phát triển vượt bậc, số suốt sử
dụng trong máy dệt gấp 6 lần Pháp, 20 lần Phổ (30 triệu ống suốt). Các trung tâm dệt:
Manchester, Liverpool đã sử dụng 80% sản lượng bông vải của thế giới. Anh còn cung
cấp tàu biển cho thế giới. Thời bấy giờ, nước Anh được gọi là '‘công xưởng của thế
giới”.
Ngày nay nước Anh không còn giữ được vị trí số 1 của mình nữa, có điều cái tên
“Công xưởng của thế giới” vẫn tồn tại như một nét đặc trưng khó quên.
2
Từ đó đến nay, nền kinh tế toàn cầu có những thay đổi to lớn về quy mô, tốc độ tăng
trưởng kinh tế. Xu hướng toàn cầu hóa đã xác lập một nền kinh tế thế giới thống nhất
và có tính phụ thuộc lẫn nhau ngày càng cao giữa các quốc gia.
Trong mấy thập kỷ qua, làn sóng đầu tư từ các nền kinh tế phát triển sang các nước
đang phát triển và mới công nghiệp hóa, nhằm tận dụng nhân công giá rẻ tại các nước
đang phát triển, đã tạo ra nhiều "công xưởng của thế giới" trong đó không thể không
kể tới Trung Quốc - đại công xưởng của thế giới.
1.2. Trung Quốc
1.2.1. Bối cảnh lịch sử
Năm 1949, khi mới thống nhất đất nước, Trung Quốc là một trong những quốc gia
nghèo và kém phát triển nhất thế giới. 90% dân số vào thời điểm này sống tại nông
thôn và phần lớn đều nghèo khó.
Năm 1956, 99% nền kinh tế Trung Quốc thuộc sở hữu nhà nước. Phần lớn dân số
tiếp tục sống tại nông thôn và tham gia sản xuất nông nghiệp. Bất chấp những nỗ lực
công nghiệp hóa của Chính phủ, kết quả đạt được rất khiêm tốn.
Kinh tế Trung Quốc chỉ bắt đầu vươn lên sau cuộc cải cách toàn diện năm 1978 mà
mấu chốt là chính sách thu hút đầu tư nước ngoài. Năm 1980, Coca Cola là một trong
những công ty đa quốc gia đầu tiên đầu tư vào Trung Quốc.
Chính sách khuyến khích nông nghiệp của Chính phủ Trung Quốc bắt đầu phát huy
hiệu quả, giúp tăng sản lượng, đồng thời giải phóng một lượng lao động khỏi khu vực
này. Những nhân lực này trở thành một lực lượng bổ sung dồi dào cho các nhà máy và
xưởng sản xuất. Chính phủ Trung Quốc tiến hành xây dựng các đặc khu công nghiệp
nhằm khuyến khích hoạt động sản xuất hàng hóa. Thâm Quyến được coi là hình mẫu
thành công nhất của chính sách này. Từ một thị trấn ngư nghiệp nhỏ với 30.000 dân
năm 1984, Thâm Quyến trở thành một thành phố hiện đại với 8 triệu dân vào năm
2007. Hàng trăm triệu người Trung Quốc chuyển từ nông thôn ra thành phố. Những
năm 50 của thế kỷ trước, chưa đầy 13% dân số nước này sống tại đô thị, con số hiện
tại là 40% và dự kiến đạt 60% vào năm 2030. GDP tăng trung bình 10% một năm
trong suốt 25 năm qua.
Đầu thế kỷ XXI, Trung Quốc trở thành “công xưởng của thế giới”. Trong những
năm qua, thông qua hoạt động sản xuất và xuất khẩu sang các nước, Trung Quốc đã
vươn mình trỗi dậy mạnh mẽ đồng thời tạo ra những thay đổi sâu sắc trong nền kinh tế
thế giới.
Năm 1990, giá trị của các sản phẩm mà Trung Quốc làm ra chỉ chiếm vỏn vẹn 3%
sản lượng sản xuất toàn cầu. Hiện nay, con số đó đã nhảy vọt lên 25%. Sự phát triển
nhanh chóng của Trung Quốc đã góp phần hình thành nên chuỗi cung ứng ở Đông
Nam Á, được mệnh danh là "Công xưởng châu Á" khi chiếm đến một nửa nguồn sản
xuất hàng hóa trên toàn cầu. Điển hình:
- Sản lượng máy điều hòa không khí tính trên đầu người của Trung Quốc cao gấp 17
lần phần còn lại của thế giới. Sản lượng máy điều hòa không khí của Trung Quốc: 109
3
triệu chiếc. Tỷ lệ của Trung Quốc so với toàn cầu: 80%. Tính trung bình, Trung Quốc
sản xuất 81,1 chiếc điều hòa không khí tính trên 1.000 người mỗi năm, so với mức
trung bình 4,8 chiếc của phần còn lại của thế giới.
- Sản lượng máy tính cá nhân của Trung Quốc lớn gấp 40 lần phần còn lại của thế
giới. Sản lượng máy tính cá nhân của Trung Quốc: 320,4 triệu chiếc. Tỷ lệ của Trung
Quốc so với toàn cầu: 90,6%. Trung Quốc sản xuất bình quân 238,3 chiếc máy tính cá
nhân/1.000 người mỗi năm, so với mức 5,9 chiếc/1.000 người mỗi năm của phần còn
lại của thế giới.
- Sản lượng giày bình quân đầu người của Trung Quốc lớn gấp 7 lần phần còn lại
của thế giới. Sản lượng giày của Trung Quốc: 12,6 tỷ đôi. Sản lượng giày của Trung
Quốc: 12,6 tỷ đôi. Tỷ lệ của Trung Quốc so với toàn cầu: 63%. Trung Quốc sản xuất
trung bình 9,4 đôi giày/người/năm, so với mức trung bình 1,3 đôi/người/năm của phần
còn lại của thế giới.
- Sản lượng điện thoại di động bình quân đầu người của Trung Quốc lớn gấp 10 lần
thế giới. Sản lượng điện thoại di động của Trung Quốc: 1,1 tỷ chiếc. Sản lượng điện
thoại di động của Trung Quốc: 1,1 tỷ chiếc. Tỷ lệ của Trung Quốc so với toàn cầu:
70,6%. Tính bình quân, Trung Quốc sản xuất được 840,7 điện thoại di động/1.000
người/năm, so với tỷ lệ 83,6 chiếc/1.000 người của phần còn lại của thế giới.
1.2.2. Những lý do khiến Trung Quốc trở thành “công xưởng của thế giới”
a. Lợi thế tĩnh.
Vị trí địa lý thuận lợi
Sản xuất công nghiệp không diễn ra một cách độc lập mà dựa vào mạng lưới các
nhà cung cấp, các nhà sản xuất linh kiện, các nhà phân phối, các cơ quan chính phủ và
khách hàng tham gia vào quá trình sản xuất thông qua cạnh tranh và hợp tác. Trung
Quốc với đường bờ biển dài , nhiều cảng biển tự nhiên thuận lợi, là một cường quốc
lục địa lẫn hải dương. Miền duyên hải của Trung Quốc nằm gần Nhật và các quốc gia
lãnh thổ công nghiệp mới: Hàn Quốc, Đài Loan, Đông Nam Á, khu vực có hoạt động
kinh tế sôi động trên thế giới thuận lợi cho giao lưu trao đổi hàng hoá. Vị trí địa lý đắc
địa tạo cho Trung Quốc một lợi thế cạnh tranh so với các nước trong khu vực Châu Á
để trở thành công xưởng của thế giới. Trung Quốc trở thành mắt “vệ tinh” trong chuỗi
sản xuất cung ứng toàn cầu. Trên thực tế, chuỗi cung ứng ở Trung Quốc đã phát triển
khá nhiều trong ba mươi năm qua.
Ví dụ, Thâm Quyến, một thành phố giáp với Hồng Kông ở phía Đông Nam, đã phát
triển thành trung tâm của ngành công nghiệp điện tử. Nó có một hệ thống cung ứng để
hỗ trợ chuỗi sản xuất, bao gồm các nhà sản xuất linh kiện, công nhân có chi phí thấp,
lực lượng kỹ thuật, nhà cung cấp lắp ráp và khách hàng. Các công ty Mỹ như Apple đã
tận dụng hiệu quả của chuỗi cung ứng ở đại lục để giữ chi phí thấp và lợi nhuận cao.
Foxconn (công ty chính sản xuất các sản phẩm của Apple) có nhiều nhà cung cấp và
nhà sản xuất linh kiện ở các vị trí gần đó và sẽ không khả thi về mặt kinh tế nếu đưa
các thành phần vào Hoa Kỳ lắp ráp sản phẩm cuối cùng. Để Foxcon có thể lắp ráp
4
iPhone, nó đòi hỏi nhiều nhà sản xuất và nhà cung cấp linh kiện của điện thoại phải
được đặt gần nhà lắp ráp. Những nhà cung cấp tương tự cũng cung cấp cho các nhà
sản xuất điện thoại thông minh lớn khác, vì vậy tổng chi phí sản xuất giảm xuống. Về
cơ bản, tất cả các điện thoại thông minh và máy tính bảng đều được sản xuất tại Thâm
Quyến với một số ngoại lệ, ví dụ: HTC ở Đài Loan và một số mẫu Samsung ở Hàn
Quốc, nhưng phần lớn các thành phần họ sử dụng đến từ Trung Quốc.
b. Lợi thế động
Chi phí nhân công giá rẻ
Với dân số khoảng 1,35 tỷ người Trung Quốc trở thành nước đông dân nhất trên thế
giới. Theo quy luật cung - cầu lao động khi cung lao động lớn hơn cầu về lao động thì
tiền lương sẽ ở mức thấp. Hơn nữa, phần lớn dân số Trung Quốc thuộc tầng lớp nông
thôn và trung lưu. Chỉ cho đến cuối thế kỷ 20 khi làn sóng di cư từ nông thôn tới thành
thị diễn ra mạnh mẽ tại Trung Quốc thì người dân mới chuyển đến các thành phố công
nghiệp sẵn sàng làm việc tăng ca chỉ với mức nhân công giá rẻ.
Chính sách thuế của chính phủ
Chính sách hoàn lại thuế xuất khẩu đã được Trung Quốc khởi xướng vào năm 1985
như là một cách để tăng khả năng cạnh tranh của xuất khẩu bằng cách bãi bỏ thuế đánh
vào hàng xuất khẩu. Hàng hoá xuất khẩu phải chịu thuế giá trị gia tăng bằng 0%
(VAT), có nghĩa là họ được hưởng chính sách miễn thuế hoặc hoàn lại thuế GTGT.
Điều này đã thu hút các nhà đầu tư nước ngoài khiến họ đặt các nhà máy gia công, lắp
ráp tại Trung Quốc.
Chính sách tiền tệ
Trung Quốc đã có những động thái làm giảm giá trị của đồng nhân dân tệ để tạo ra
một lợi thế cho xuất khẩu của hàng hóa Trung Quốc đối với hàng hoá tương tự do một
đối thủ cạnh tranh của nước ngoài sản xuất. Nhân dân tệ được ước tính bị đánh giá
thấp bởi 30% so với đồng đô la vào cuối năm 2005.
Không tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của chính phủ về luật laođộng và bảo vệ
môi trường
Các nhà sản xuất ở phương Tây luôn luôn tuân thủ các hướng dẫn cơ bản về lao
động trẻ em, lao động không tự nguyện, các tiêu chuẩn về sức khoẻ và an toàn, luật về
tiền lương và giờ, và bảo vệ môi trường trong khi các nhà máy Trung Quốc được biết
đến vì không tuân theo hầu hết các luật và hướng dẫn này, ngay cả trong môi trường
pháp lý cho phép. Các nhà máy của Trung Quốc sử dụng lao động trẻ em, có những
giờ làm việc dài và người lao động không được bảo hiểm bồi thường. Luật bảo vệ môi
trường thường bị bỏ qua, do đó các nhà máy Trung Quốc cắt giảm chi phí quản lý chất
thải. Đây là một trong những yếu tố góp phần khiến các DN Trung Quốc đạt được lợi
thế về chi phí so với các DN nước ngoài khi kinh doanh cùng một ngành nghề.
1.2.3. Trung Quốc có tiếp tục giữ được vị thế “công xưởng của thế giới”?
Theo dự đoán của Công ty Deloit, trong 5 năm tới, Trung Quốc đang mất dần lợi
thế cạnh tranh để tiếp tục trở thành công xưởng của thế giới. Nhóm MITI-V hay còn
5
gọi là Mighty Five sẽ lọt vào danh sách này sau khi trở thành những công xưởng thế
giới mới.
Trung Quốc đã không còn lợi thế cạnh tranh trong sản xuất hàng hóa xuất khẩu với
giá nhân công rẻ, chi phí sản xuất thấp khiến lợi nhuận công ty giảm. Mức lương của
người lao động Trung Quốc đang dần tăng lên qua từng năm. Sản xuất hàng hóa tại
Trung Quốc chỉ rẻ hơn sản xuất tại Mỹ ở mức 4% do mức lương của người lao động
đã tăng 80% kể từ năm 2010 cho đến nay.
Theo nghiên cứu của IHS Markit, một cuộc khảo sát năm 2016 cho thấy, tỷ lệ các
doanh nghiệp chọn Trung Quốc là nơi gia công giá rẻ đã giảm xuống dưới 50% so với
70% năm 2012. Số liệu của Bộ Thương mại Trung Quốc công bố cho biết, trong tháng
1 năm nay, đầu tư nước ngoài vào Trung Quốc giảm 14,73%, chỉ có 120 tỷ USD.
Trong 2 năm trở lại đây, hàng loạt các công ty, tập đoàn đã cắt giảm lao động hoặc
đóng cửa nhà máy tại Trung Quốc như: McDonald’s đã bán 80% cổ phần tại Trung
Quốc và Hongkong cho tập đoàn Citic Group và Carlyle Group LP; nhà máy sản xuất
ổ cứng lớn nhất thế giới Seagate công bố việc đóng cửa nhà máy ở Tô Châu, sa thải
gần 2.000 người; Công ty điện tử Philips đóng cửa và sa thải nhân viên của công ty
được đặt tại Thâm Quyến, Trung Quốc; Nokia đóng cửa 5 nhà máy ở Trung Quốc.
Hình 1. Chi phí nhân công của các nước so với Mỹ
Không chỉ nằm ở chi phí sản xuất cao, làn sóng đầu tư nước ngoài tại Trung Quốc
hạ nhiệt do chịu tác động từ sự cạnh tranh khốc liệt của các doanh nghiệp trong nước
và nền kinh tế không còn các chỉ số hấp dẫn về tăng trưởng. Để đối phó với tình trạng
này, từ một quốc gia tiếp nhận đầu tư nước ngoài, Trung Quốc chuyển thành quốc gia
6
đầu tư vốn ra nước ngoài và hướng tới một nền sản xuất ở nội địa, phục vụ chính nhu
cầu trong nước với hơn 1 tỷ người. Từ một nền công nghiệp có công nghệ trung bình,
từng dựa vào sản xuất hàng hoá giá rẻ để xuất khẩu thì nay Trung Quốc đã chú trọng
hơn đến việc phát triển nền công nghiệp có công nghệ cao.
1.3. So sánh Anh và Trung Quốc
Đều được coi là những công xưởng của thế giới, tuy nhiên bản chất “ công xưởng
của thế giới” của Anh và Trung Quốc cũng có những sự khác nhau nhất định:
- Anh: Những năm 70 của thế kỉ 20, Anh là nước dẫn đầu thế giới về công nghệ,
tiên phong trong cuộc cách mạng công nghệ. Vì vậy, lợi thế về công nghệ, trình độ sản
xuất đã khiến Anh sản xuất được những mặt hàng mà các quốc gia khác không sản
xuất được, cung cấp cho quốc gia khác và trở thành công xưởng của thế giới.
- Trung Quốc: Tuy không phải là quốc gia dẫn đầu thế giới về công nghệ nhưng
Trung Quốc có lợi thế nhất định về chi phí nhân công giá rẻ, thị trường tiêu thụ nội địa
rộng lớn. Công nghệ sản xuất của Trung Quốc không phải công nghệ nguồn nhưng đã
được chuẩn hóa nhờ việc sao chép, bắt chước những công nghệ sản xuất tiên tiến nhất
của các quốc gia khác. Nhờ đó, Trung Quốc trở thành nơi cung cấp linh kiện cho nhiều
tập đoàn đa quốc gia, lắp ráp và cung ứng cho thị trường thế giới nhiều mặt hàng tiêu
dùng với giá cả cạnh tranh.
II. VIỆT NAM CÓ THỂ VÀ CÓ NÊN TRỞ THÀNH CÔNG XƯỞNG CỦA THẾ
GIỚI?
2.1. Điều kiện để trở thành công xưởng của thế giới
Điều kiện khách quan
Vị trí địa lý: Đây là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu. Vị trí địa lý thuận
lợi sẽ giúp thu hút được nhiều nhà đầu tư; tạo điều kiện cho các hoạt động kinh doanh
phát triển; tiết kiệm chi phí vận chuyển, thông thương hàng hóa.
Trình độ lao động: Khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển đòi hỏi đội ngũ lao động
cần có trình độ nhất định đảm bảo việc vận hành máy móc, phục vụ quá trình sản xuất
diễn ra thống suốt.
Điều kiện chủ quan
Dân số và lao động: Để có thể trở thành công xưởng của thế giới, quốc gia cần có
lực lượng lao động dồi dào với số người trong độ tuổi lao động đông bởi đây là nguồn
nhân lực chính trong tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh.
Chi phí nhân công: Đây là vấn đề được các nhà đầu tư quan tâm hàng đầu. Chi phí
nhân công rẻ sẽ giúp các công ty tiết kiệm được đáng kể chi phí, tăng lợi nhuận cho
công ty. Vì thế, quốc gia nào có chi phí nhân công rẻ sẽ có lợi thế lớn để trở thành
công xưởng của thế giới.
Môi trường chính trị - xã hội: Môi trường chính trị - xã hội là một trong những yếu
tố quan trọng trong thu hút đầu tư và phát triển kinh tế. Môi trường chính trị - xã hội
ổn định có ý nghĩa quyết định đến việc huy động và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư,
7
đặc biệt là đầu tư nước ngoài. Ngược lại, tình hình chính trị không ổn định sẽ ảnh
hưởng đến hiệu quả đầu tư, lợi ích của các nhà đầu tư giảm sút, làm mất lòng tin của
các nhà đầu tư. Hơn nữa, tình hình chính trị - xã hội không ổn định, Nhà nước không
đủ khả năng kiểm soát hoạt động của các nhà đầu tư nước ngoài, hậu quả là các nhà
đầu tư hoạt động theo mục đích riêng, không theo định hướng chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội của nước sở tại, do đó hiệu quả sử dụng vốn đầu tư rất thấp.
Chính sách của nhà nước: Bên cạnh các yếu tố về chính trị, lao động, vị trí địa lý
thì các chính sách của quốc gia về đầu tư phát triển cũng quyết định mức độ hấp dẫn
của quốc gia đó với các nhà đầu tư nước ngoài. Chính sách càng rộng mở, mang lại
nhiều ưu đãi sẽ càng thu hút được nhiều nhà đầu tư, tạo điều kiện để quốc gia trở thành
công xưởng của thế giới.
Cơ sở hạ tầng: Cơ sở hạ tầng (điện, đường, giao thông...) của quốc gia cần đáp ứng
được nhu cầu sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Cơ sở hạ tầng tốt sẽ giúp
việc sản xuất kinh doanh cũng như vận chuyển hàng hóa diễn ra thuận lợi, tiết kiệm
chi phí, thu hút được nhiều nhà đầu tư và ngược lại.
2.2. Việt Nam có thể trở thành công xưởng của thế giới ?
2.2.1. Phân tích điều kiện Việt Nam
a. Thuận lợi
So với nhiều nước đang phát triển, Việt Nam có khá nhiều lợi thế về các khía cạnh:
vị trí địa lý, lao động, tình hình chính trị, chính sách đầu tư, tốc độ tăng trưởng kinh
tế...
Vị trí địa lý
Việt Nam nằm trên trục giao thương quốc tế, thuận lợi để phục vụ sản xuất và xuất
khẩu hàng hóa quy mô lớn. Việt Nam có vị trí địa lý chiến lược trong khu vực, là cầu
nối trên đất liền giữa phần lớn nhất của lục địa Á, Âu với khu vực Đông Nam Á với
hơn 3.200km đường bờ biển, tiếp giáp với Vịnh Bắc Bộ, Biển Đông và Vịnh Thái Lan.
Trong đó, Biển Đông được đánh giá là tuyến hàng hải quan trọng bậc nhất thế giới – là
tuyến giao thông huyết mạch nối liền Thái Bình Dương với Ấn Độ Dương, giữa châu
Á với châu Âu và Trung Đông. Thống kê cho thấy, hiện có hơn 90% lượng vận tải
thương mại của thế giới thực hiện bằng đường biển và 45% trong số đó phải đi qua
vùng Biển Đông. Ngoài ra, Việt Nam nằm trong khu vực Châu Á-Thái Bình Dương,
khu vực có nền kinh tế năng động của thế giới nên dễ dàng tiếp thu vốn, kỹ thuật, công
nghệ hiện đại cũng như học hỏi kinh nghiệm quý báu của các nước trong phát triển
kinh tế đất nước. Tiếp giáp biển Đông và nằm trong vành đai sinh khoáng Thái Bình
Dương nên Việt Nam còn có nguồn tài nguyên biển và tài nguyên thiên nhiên vô cùng
phong phú, taọ điều kiện thuận lợi cho phát triển nhiều ngành kinh tế.
Dân số và lao động
8
Việt Nam là nước có dân số đông với lực lượng lao động dồi dào. Dân số Việt Nam
tăng hàng năm với tỷ lệ tăng dân số trung bình là 1.07%/ năm. Trong giai đoạn 20112016, dân số Việt Nam tăng từ 86,9 triệu người lên đến 92,7 triệu người (Hình 2) cho
thấy Việt Nam có mức tăng trưởng dân số nhanh chóng, hứa hẹn về một thị trường tiêu
thụ nội địa lớn. Đây là một trong những điểm hấp dẫn thu hút nhiều nhà đầu tư nước
ngoài đến với Việt Nam.
Hình 2. Dân số trung bình của Việt Nam giai đoạn 2011-2016
Nguồn: Niên giám thống kê 2016
Ngoài ra, Việt Nam còn có cơ cấu dân số vàng với lực lượng lao động hùng hậu.
Theo thống kê, số người trong độ tuổi 15-49 giai đoạn 2010-2016 trung bình khoảng
40 triệu người/năm, chiếm trên 80% lực lượng lao động, trong đó số người trong độ
tuổi 25-49 chiếm tỷ lệ cao nhất với 60%. Đây là lực lượng lao động chính, tạo ra giá
trị kinh tế nhiều nhất cho xã hội. Hơn nữa, chi phí nhân công và chi phí sản xuất ở Việt
Nam luôn ở mức thấp, chỉ bằng một nửa so với mức chi phí của công xưởng thế giới
hiện nay là Trung Quốc. Lực lượng lao động dồi dào cùng với chi phí nhân công rẻ
đang là lợi thế so sánh hàng đầu của Việt Nam, giúp Việt Nam trở thành điểm đến hấp
dẫn và là cơ hội sinh lời cho các công ty đa quốc gia và nhà đầu tư nước ngoài. Nhiều
công ty thuộc nhóm ngành thâm dụng lao động đang chuyển hướng đầu tư từ Trung
Quốc sang Việt Nam để tận dụng lợi thế này, điển hình là Samsung, Intel, ScanCom
International...
Hình 3. Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên phân theo nhóm tuổi
9
Nguồn: Niên giám thống kê 2016
Môi trường chính trị - xã hội
Việt Nam có ưu thế nổi trội là một quốc gia có nền chính trị ổn định, hòa bình. Từ
năm 1990 trở lại đây, hầu hết các quốc gia trong khu vực (trừ Singapore) đều trải qua
các cuộc đảo chính hay khủng hoảng chính trị, trong khi đó nền chính trị của Việt Nam
luôn ổn định, đây là một đảm bảo cho sự gắn kết để thực hiện chính sách kinh tế nhất
quán. Tình hình chính trị ổn định giúp tăng trưởng kinh tế Việt Nam luôn đạt mức cao
(6,21% năm 2016). Điều này cũng là một điểm sáng giúp tăng thu hút đầu tư nước
ngoài vào Việt Nam.
Chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
Chính sách thu hút FDI tại Việt Nam được đánh giá là khá thuận lợi cho các nhà
đầu tư với những ưu đãi về đất đai, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế xuất nhập khẩu,
chính sách ngoại hối và chính sách giá. Cụ thể, các doanh nghiệp FDI được miễn hoặc
được giảm tiền thuê đất, thời gian cho thuê dài (trên 50 năm), được hưởng mức thuế
thu nhập doanh nghiệp ưu đãi, được miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hóa bao gồm
thiết bị máy móc, vật tư, phương tiện vận tải và hàng hóa khác để thực hiện dự án đầu
tư ở Việt Nam, được hưởng ưu đãi liên quan đến chính sách ngoại hối như hỗ trợ cân
đối ngoại tệ...Kết quả, thu hút trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam ngày càng tăng qua
các năm cả về tổng vốn đăng ký và tổng vốn thực hiện (hình 4 & 5).
Hình 4. Số dự án FDI được cấp phép Hình 5. Vốn FDI giai đoạn 2010-2016
10
giai đoạn 2010-2016
Nguồn: Niên giám thống kê 2016
Giai đoạn 2010-2016 chứng kiến sự tăng lên đáng kể về số dự án FDI tại Việt Nam,
số dự án FDI năm 2016 tăng hơn 2 lần so với năm 2010, từ 1237 dự án năm 2010 lên
đến 2613 năm 2016. Số vốn đăng ký và số vốn thực hiện cũng tăng cao. Năm 2010, số
vốn đăng ký và số vốn thực hiện lần lượt là 19,8 tỷ USD và 11 tỷ USD. Đến năm
2016, con số này tăng lên lần lượt là 26,9 tỷ USD và 15,8 tỷ USD. Điều này cho thấy,
Việt Nam đang ngày càng thu hút được nhiều FDI và hứa hẹn là một điểm đến hấp dẫn
của nhiều nhà đầu tư nước ngoài trong tương lai.
b. Khó khăn
Bên cạnh những mặt thuận lợi, Việt Nam cũng còn tồn tại một số khó khăn như sau:
Diện tích nhỏ, quy mô dân số tuy lớn nhưng còn tương đối nhỏ so với các quốc gia
có hơn 1 tỷ người như Ấn Độ và châu Phi, vì vậy thị trường tiêu thụ nội địa khá nhỏ,
chưa hoàn toàn đáp ứng được yêu cầu của các công ty đa quốc gia hiện nay.
Khó khăn lớn nhất của Việt Nam là trình độ của lực lượng lao động còn thấp. Số
lượng lao động trong độ tuổi lao động đã qua đào tạo chưa nhiều. Mặc dù việc giáo
dục, đào tạo cho lực lượng lao động luôn được quan tâm, chú trọng, bằng chứng là tỷ
lệ lao động trong độ tuổi lao động đã qua đào tạo liên tục tăng qua các năm, từ 15,3%
năm 2010 đến 22,2% năm 2016 (hình 6), tuy nhiên tỷ lệ này vẫn chưa cao.Trong tương
lai, ngành công nghiệp toàn cầu có xu hướng sử dụng ngày càng nhiều lao động có
trình độ cao để đáp ứng tốc độ phát triển công nghệ ngày càng nhanh. Vì vậy, lao động
Việt Nam cần phải nỗ lực không ngừng đểnâng cao trình độ nhằm duy trì lợi thế của
mình, hướng tới thu hút ngày càng nhiều dự án đầu tư phát triển.
Hình 6. Tỷ lệ lao động trong độ tuổi lao động đã qua đào tạo giai đoạn 2010-2016
11
Nguồn: Niên giám thống kê 2016
c. Cơ hội
Thu hút đầu tư nước ngoài vào khu vực châu Á tăng mạnh trong những năm gần
đây đã tạo cơ hội phát triển cho các nước, trong đó có Việt Nam.
Cơ hội lớn nhất để Việt Nam có thể trở thành công xưởng thế giới tiếp theo là dòng
vốn đầu tư quốc tế đang có sự dịch chuyển từ Trung Quốc sang các nước Đông Nam
Á, trong đó có Việt Nam. Vốn giải ngân từ nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
năm 2016 của Việt Nam ước tính đạt 15,8 tỷ USD, cao kỷ lục và tăng 9% hằng năm.
Số dự án được cấp phép năm 2016 là 2.613 với tổng vốn đăng ký 26,9 tỷ USD, tăng
27% về số dự án. Theo báo cáo của Savills Việt Nam về tình hình hoạt động của các
khu công nghiệp trên cả nước cho thấy, đang diễn ra sự dịch chuyển vốn đầu tư từ
Trung Quốc sang các nước khối ASEAN để tận dụng cơ hội từ các Hiệp định Thương
mại tự do trong khu vực trong thời gian tới. Minh chứng là so với 10 năm trước thì số
doanh nghiệp Hàn Quốc tìm đến đầu tư tại Trung Quốc đã giảm mạnh, từ khoảng
2.300 doanh nghiệp thành lập mới (năm 2006) giảm xuống còn 700 doanh nghiệp
(năm 2014). Số liệu do Bộ Tài chính Hàn Quốc công bố cuối năm 2015 cũng cho thấy,
đầu tư của Hàn Quốc vào Trung Quốc đã giảm đến 32,1% trong 6 tháng đầu năm
2015.
Đáng chú ý là Tập đoàn Microsoft đã công bố đóng cửa hai nhà máy sản xuất điện
thoại Nokia ở Trung Quốc để chuyển sang Việt Nam và nâng quy mô đầu tư lên đến
210 triệu USD tại Khu công nghiệp Việt Nam – Singapore (Bắc Ninh), theo đó số
lượng nhân công sẽ tăng gấp 3 lần so với 2 nhà máy cũ. Một ví dụ điển hình khác, đó
là công ty điện tử Samsung cũng đã đầu tư xây dựng và đưa vào hoạt động 2 nhà máy
sản xuất điện thoại tại Việt Nam, trong đó Công ty điện tử Samsung – Thái Nguyên
được đầu tư xây dựng để trở thành công ty sản xuất điện thoại lớn nhất của Samsung
trên thế giới với mục đích chuyển toàn bộ nhà máy sản xuất điện thoại từ Trung Quốc
sang Việt Nam nhằm tận dụng lợi thế về lao động dồi dào và chi phí nhân công rẻ của
12
Việt Nam. Ngoài ra, sự hiện diện của rất nhiều công ty lớn tại Việt Nam hiện nay như
Intel, Coca-cola, Canon, Honda ... cho thấy Việt Nam có cơ hội rất lớn trong việc thu
hút ngày càng nhiều vốn đầu tư nước ngoài trong tương lai.
d. Thách thức
Cơ hội lớn, song thách thức cũng nhiều. Thách thức lớn nhất là sự trỗi dậy mạnh mẽ
của các nước đang phát triển trong khu vực như Malaysia, Ấn Độ, Thái Lan, Indonesia
(MITI), trong đó Ấn Độ được đánh giá là quốc gia tiềm năng nhất, nền kinh tế có khả
năng thỏa mãn nhiều điều kiện nhất để thay thế Trung Quốc trở thành công xưởng thế
giới mới. Lợi thế của Ấn Độ là khá rõ ràng khi có một nguồn lao động dồi dào, cả
trình độ cao lẫn thấp với một thị trường tiêu dùng 1,2 tỷ dân. Mặc dù đa phần người
dân Ấn Độ là nghèo nhưng thu nhập bình quân đầu người của nước này lại đang tăng
lên. Thêm vào đó, tỷ lệ người có bằng đại học tại Ấn Độ là khá lớn. Đây là một lợi thế
khi các nhà máy sản xuất rất cần kỹ sư công nghệ, kỹ sư thiết kế, quản lý... Các chính
sách của Ấn Độ cũng đang giúp đỡ phát triển rất nhiều cho ngành sản xuất. Ngay từ
năm 2014, chính phủ nước này đã phát động chương trình “Made in India” nhằm gia
tăng tỷ lệ sản xuất trong nước. Năm 2015, Ấn Độ đã vượt qua Trung Quốc để trở
thành nước nhận được nhiều nguồn vốn trực tiếp nước ngoài (FDI) nhất thế giới trong
khi hàng loạt công ty quốc tế có đánh giá hành chính công của nước này đã có những
cải thiện đáng kể về năng suất. Tuy nhiên, Ấn Độ cũng có những khó khăn của mình.
Để có thể làm việc tại các nhà máy sản xuất, ít nhất lao động cần phải biết đọc, viết để
có thể vận hành máy móc. Trong khi đó, người dân Ấn Độ có trình độ biết đọc, viết
khá thấp khi chỉ xếp thứ 105 trong bảng xếp hạng nhân lực toàn cầu (HCI) của Liên
Hiệp Quốc năm 2016, thấp hơn bất kỳ nước nào trong nhóm MITI. Cơ sở hạ tầng của
Ấn Độ cũng không khá hơn khi đang xuống cấp nghiêm trọng, nhất là hệ thống giao
thông, năng lượng khi xếp hạng những cơ sở này của Ấn Độ còn thấp hơn nhiều nền
kinh tế mới nổi.Một điểm yếu nữa của Ấn Độ là hành chính công khi độ trễ bàn giao
mặt bằng cho các dự án sản xuất đã khiến hơn 270 công trình nhà máy tại nước này bị
lùi thời hạn. Dẫu vậy, Ấn Độ vẫn có lợi thế rất lớn trong việc trở thành công xưởng giá
rẻ tiếp theo của thế giới.
Mặc dù, Ấn Độ có nhiều lợi thế, song nhiều doanh nghiệp đang chuyển nhà máy
sang Malaysia, Indonesia, Thái Lan và Việt Nam khi những quốc gia này cũng có một
số ưu điểm không kém Ấn Độ. Tuy nhiên, Thái Lan hay Malaysia thiên hướng ngành
sản xuất công nghệ cao hơn là thay thế vai trò công xưởng giá rẻ từ Trung Quốc.
Trong khi đó, địa hình bất lợi của Indonesia khi có quá nhiều hòn đảo khiến việc xây
dựng nhà máy và di chuyển khó khăn cũng cản trở lớn đến việc giúp Indonesia trở
thành công xưởng của thế giới. Việt Nam có lợi thế về vị trí địa lý thuận lợi, môi
trường chính trị ổn định, cơ sở hạ tầng tốt hơn Indonesia và đặc biệt có khoảng cách
gần hơn để di chuyển nhà máy từ Trung Quốc sang. Như vậy, trong nhóm nước đang
phát triển mạnh mẽ tại khu vực Đông Nam Á, Việt Nam được đánh giá là nước có tiềm
năng nhất để cạnh tranh với Ấn Độ trong cuộc đua trở thành công xưởng thế giới mới
sau Trung Quốc.
13
Một thách thức lớn khác là trình độ lao động. Khoa học công nghệ ngày càng phát
triển dẫn đến thiết bị, máy móc ngày càng phức tạp, yêu cầu đòi hỏi công nhân cần có
trình độ nhất định để có thể vận hành máy móc phục vụ quá trình sản xuất. Chính vì
vậy, nhu cầu về lực lượng lao động có trình độ cao là xu hướng tất yếu trong tương lai.
Trình độ lao động ở Việt Nam tuy đã được nâng cao hơn, song vẫn còn tương đối thấp
so với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Việt Nam cần chú trọng đào tạo,
nâng cao trình độ cho lực lượng lao động để giải quyết được thách thức này.
Từ phân tích trên đây dễ dàng nhận thấy với những lợi thế về dân số đông; lực
lượng lao động trẻ, dồi dào, có trình độ tối thiểu; chi phí nhân công rẻ, chính sách thu
hút đầu tư hấp dẫn, môi trường chính trị ổn định, tăng trưởng kinh tế khá, tiềm năng
thu hút đầu tư nước ngoài lớn, vị trí địa lý thuận lợi và cơ sở hạ tầng tương đối tốt so
với các quốc gia trong khu vực, Việt Nam hoàn toàn có thể trở thành công xưởng của
thế giới.
2.3. Việt Nam có nên trở thành “công xưởng của thế giới” hay không?
Như đã phân tích ở trên, Việt Nam có đủ lợi thế và điều kiện để trở thành công
xưởng của thế giới, tuy nhiên Việt Nam có nên trở thành công xưởng của thế giới hay
không?
Trong bối cảnh hiện nay, công xưởng thế giới được hiểu là nơi thực hiện các phần
công việc đơn giản, không yêu cầu công nhân có trình độ cao – khâu cần nhiều sức lao
động và mang lại giá trị gia tăng ít nhất trong chuỗi sản xuất (hình 7).
Hình 7. Đường cong nụ cười
Theo đường cong nụ cười của Stan Shih, chủ tịch hãng Acer, gia công, lắp ráp là
khâu nằm dưới đáy của đường cong, là vị trí đạt lợi nhuận thấp nhất. Doanh nghiệp
muốn gia tăng lợi nhuận thì tránh sa đà tập trung vào việc tập trung gia công và lắp
14
ráp, thay vào đó cần không ngừng đẩy mạnh hoạt động về hai phía đường cong đó là
các khâu nghiên cứu phát triển sản phẩm, sản xuất linh phụ kiện, marketing, bán hàng,
dịch vụ sau bán hàng. Tương tự, một quốc gia nếu trở thành công xưởng của thế giới
tức là quốc gia đó đang nằm ở vị trí thấp nhất trong chuỗi giá trị sản xuất của thế giới.
Tuy số lượng sản phẩm được sản xuất ra nhiều nhưng giá trị kinh tế mang lại không
cao do các khâu quan trọng, mang lại nhiều giá trị kinh tế không nằm tại quốc gia đó.
Một quốc gia chỉ tập trung vào khâu gia công, lắp ráp sản phẩm rất dễ trở thành “bãi
rác công nghệ” của thế giới. Nhận thức rõ về điều này nên nhiều quốc gia trên thế giới
hiện nay đang có những biện pháp, chính sách để dịch chuyển dần sang các khâu mang
lại nhiều giá trị gia tăng hơn trong chuỗi giá trị, tiêu biểu như Trung Quốc – quốc gia
được mệnh danh là đại công xưởng của thế giới trong nhiều năm cũng đang chuyển
dịch sang các lĩnh vực sản xuất mang lại giá trị kinh tế cao hơn cho đất nước.
Đối với Việt Nam, trong điều kiện hiện tại, Việt Nam chỉ có thể thực hiện phần công
việc thấp nhất trong chuỗi giá trị, đó là gia công, lắp ráp. Lợi ích lớn nhất khi Việt
Nam trở thành nơi gia công, lắp ráp của thế giới là tạo được nhiều việc làm cho người
lao động, giúp họ có nguồn thu nhập ổn định để trang trải cuộc sống. Tuy nhiên, Việt
Nam cũng phải gánh chịu khá nhiều bất lợi khi chỉ thực hiện phần việc có “chất xám
thấp”, không có nhiều giá trị gia tăng, dẫn đến thu nhập không cao. Bên cạnh đó, Việt
Nam cũng phải đối mặt với nhiều vấn đề đáng quan ngại khác đó là ô nhiễm môi
trường, nguy cơ trở thành bãi rác công nghệ khi các công ty chuyển giao các công
nghệ cũ, lạc hậu sang để phục vụ sản xuất, thu nhập của người lao động thấp và trình
độ của người lao động không có điều kiện, cơ hội để nâng cao. Do đó, Việt Nam chỉ
nên trở thành công xưởng thế giới khi có định hướng phát triển cụ thể cho từng giai
đoạn. Cụ thể, trong điều kiện hiện tại, Việt Nam có thể bắt đầu với việc gia công, lắp
ráp để đảm bảo việc làm và thu nhập tối thiểu cho người lao động. Tiếp đó, Việt Nam
cần có các biện pháp nâng cao, cải thiện tất cả các nguồn lực cũng như nội lực của đất
nước để mở rộng dần sang hai phía của đường cong, tham gia vào tất cả các khâu
trong chuỗi sản xuất, góp phần phát triển bền vững kinh tế đất nước, mang lại đời sống
cao cho người dân. Muốn vậy, Nhà nước cần ban hành những chính sách cụ thể, hợp lý
hỗ trợ từng giai đoạn phát triển như: (1) đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, giải
quyết các rào cản đối với nhà đầu tư, nhà sản xuất nước ngoài; (2) nâng cao chất lượng
công tác xây dựng pháp luật, đẩy nhanh tiến độ ban hành các văn bản hướng dẫn thi
hành, nâng cao chất lượng quy hoạch từ trung ương đến địa phương; (3) tập trung đầu
tư phát triển kết cấu hạ tầng, đặc biệt là các công trình, dự án có tính kết nối khu vực
và quốc tế; (4) phát triển nguồn nhân lực cả về chất lẫn về lượng, đổi mới mạnh mẽ
quản lý Nhà nước về phát triển nhân lực; (5) tăng cường tiềm lực quốc gia, đổi mới
quản lý Nhà nước đối với phát triển khoa học công nghệ với nhu cầu thực tế của thị
trường; (6) đẩy mạnh phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ, từng bước phát triển lên
công nghiệp hỗ trợ công nghiệ cao; (7) quan tâm, chăm lo các vấn đề xã hội, tiếp tục
nghiên cứu, hoàn thiện, ban hành các chính sách chương trình giáo dục y tế, an sinh xã
hội.
15
KẾT LUẬN
Việt Nam đang đứng trước thách thức lớn khi trở thành "công xưởng của thế giới".
Tuy nhiên nếu trở thành công xưởng của thế giới chỉ với vị trí địa lý thuận lợi, nhân
công giá rẻ, trong khi kiểm soát môi trường không gắt gao, sử dụng tài nguyên lãng
phí là điều rất đáng quan ngại. Trước mắt, chúng ta vẫn cứ phải tiếp nhận các khâu có
gia trị gia tăng thấp để “lấy ngắn, nuôi dài” tức là để người lao động có việc làm, gắn
với lộ trình để năng cao năng lực công nghệ cho doanh nghiệp. Đồng thời với các lĩnh
vực công nghệ cao mà Việt Nam chưa có, thì chúng ta nên có những ưu đãi mạnh khi
thu hút đầu tư, nhưng kèm theo đó là yêu cầu nhà đầu tư nước ngoài phải có lộ trình
chuyển giao công nghệ, hỗ trợ doanh nghiệp nội địa..., từ đó phát triển lực lượng công
nghệ hạ tầng của Việt Nam. Điều này sẽ giúp VN trong tương lai trở thành công xưởng
theo nghĩa thực hiện sản phẩm ở tất cả các khâu trong chuỗi sản xuất, từ thấp đến cao.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Băng Tâm (2017), Không phải Việt Nam, đây mới là quốc gia sắp thay thế vai trò
công xưởng giá rẻ của Trung Quốc. http://cafef.vn/khong-phai-viet-nam-day-moila-quoc-gia-sap-thay-the-vai-tro-cong-xuong-gia-re-cua-trung-quoc20170303102604942.chn
2. Bích Ngọc (2012), Lợi thế nhân công giá rẻ tại Việt Nam. http://infonet.vn/loi-thenhan-cong-gia-re-tai-viet-nam-post45083.info
3. Chen Xiangguo, 2007, Is China the factory of the world.
https://www.apu.ac.jp/rcaps/uploads/fckeditor/publications/workingPapers/RCAPS_
Occasional_Paper_07-4.pdf
4. China economic weekly (2013), China giving new meaning to “world factory”.
http://en.people.cn/90778/8165022.html
5. Đoan Nhật (2012), Nước Anh và nickname “Phân xưởng của thế giới”.
https://tinnong.thanhnien.vn/du-hi/nuoc-anh-va-nickname-phan-xuong-cua-the-gioi52348.html
6. Hiep Nguyen (2017), Trung Quốc và con đường trở thành “số 2” thế giới.
https://cpm-vietnam.com/Trung-Quoc-va-con-duong-tro-thanh-so-2-the-gioi/
7. Julian Righetti (2014), 5 reasons why China will remain the world’s factory.
https://www.linkedin.com/pulse/20140821060820-94090867-5-reasons-why-chinawill-remain-world-s-factory
8. Kevin
Honglin
Zhang,
2006.
China
as
the
world
factory.
https://books.google.com.vn/books?
id=SH6TAgAAQBAJ&pg=PA257&lpg=PA257&dq=WORLD+FACTORY&source
=bl&ots=gws1mDkEfz&sig=dS7s2UjmwbtXkZTVoF_f5h2i1Bs&hl=vi&sa=X&ve
d=0ahUKEwi1ocqZprXAhUChbwKHf1CCD04ChDoAQg7MAM#v=onepage&q=WORLD
%20FACTORY&f=false
16
9. Kim Thoa (2015), Việt Nam đang tranh thủ lợi thế của cơ cấu dân số vàng.
http://giaoducthoidai.vn/gia-dinh/viet-nam-dang-tranh-thu-loi-the-cua-co-cau-danso-vang-1459396.html
10.
Lê Thị Bích Lan (2016), Trở thành “công xưởng mới” của thế giới: Bối cảnh
khu vực và nội lực của Việt Nam, Tạp chí Tài chính kỳ 2 tháng 3/2016.
http://tapchitaichinh.vn/nghien-cuu--trao-doi/trao-doi-binh-luan/tro-thanh-congxuong-moi-cua-the-gioi-boi-canh-khu-vuc-va-noi-luc-cua-viet-nam-80572.html
11.
Prableen Bajpai, CFA, Why China is “The world’s factory”.
http://www.investopedia.com/articles/investing/102214/why-china-worldsfactory.asp
12.
Phương Anh (2013), “Công xưởng của thế giới” lớn cỡ nào?
http://dantri.com.vn/kinh-doanh/cong-xuong-cua-the-gioi-lon-co-nao1360827998.htm
13.
Tổng cục thống kê, 2016. Niên giám thống kê 2016. Hà Nội: Nhà xuất bản
Thống kê
14.
Tuấn Anh (2015), Việt Nam nên trở thành “công xưởng” của thế giới?
http://enternews.vn/viet-nam-nen-tro-thanh-cong-xuong-cua-the-gioi-756.html
15.
Thế giới và Việt Nam (2015), Trung Quốc tiếp tục là công xưởng của thế giới.
http://beta.ndh.vn/trung-quoc-tiep-tuc-la-cong-xuong-cua-the-gioi2015031406469951p145c151.news
16.
Trường Dũng (2017), Kinh tế Việt Nam 2017 phát triển nhanh nhất Đông Nam
Á. http://baoquocte.vn/kinh-te-viet-nam-2017-phat-trien-nhanh-nhat-dong-nam-a44027.html
17
- Xem thêm -