THƯ
VIỆN
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
-------o0o-------
Nguyễn Thanh Hiếu
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG CUỘC SỐNG DÂN CƯ TỈNH
VĨNH LONG
TRONG THỜI KÌ HỘI NHẬP
Chuyên ngành: Địa lý học
Mã số: 60 31 95
LUẬN VĂN THẠC SĨ ĐỊA LÝ HỌC
Người hướng dẫn khoa học
PGS. TS. PHẠM XUÂN HẬU
Thành phố Hồ Chí Minh – 2010
LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS. Phạm Xuân Hậu, người đã tận tình
hướng dẫn, giúp đỡ và động viên tôi rất nhiều trong quá trình làm luận văn.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các Thầy Cô đã nhiệt tình giảng dạy, đóng góp nhiều ý kiến xác
đáng, giúp chúng tôi có những cảm nhận và tiếp thu một cách tốt nhất về chuyên ngành theo học.
Tôi cũng xin gởi lời cảm ơn chân thành đến:
Ban lãnh đạo và chuyên viên phòng KHCN - SDH, ban chủ nhiệm và giảng viên khoa Địa
lý của trường ĐHSP Tp. Hồ Chí Minh đã tạo thuận lợi cho chúng tôi trong suốt khoá học vừa qua.
Các cơ quan trong tỉnh Vĩnh Long đã nhiệt tình hỗ trợ và cung cấp các tài liệu liên quan
đến đề tài tôi thực hiện.
Ban giám hiệu và các đồng nghiệp trong tổ Địa lý trường THPT Chêguêvara (Mỏ Cày –
Bến Tre) đã tạo điều kiện và hỗ trợ để tôi có thể hoàn thành luận văn này.
Lời cảm ơn chân thành đến các bạn cùng khóa đã luôn chia sẽ cùng tôi những buồn vui và khó
khăn trong quá trình học tập.
Cuối cùng, tận đáy lòng, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đến những người thân yêu
trong gia đình tôi, những bạn bè tâm giao của tôi. Họ, những người đã luôn ở bên tôi mọi lúc và chính
là động lực để tôi hoàn tất tốt luận văn.
Nguyễn Thanh Hiếu
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BQĐN
:
bình quân đầu người
CCKT
:
cơ cấu kinh tế
CEPAL
:
ủy ban kinh tế
CLCS
:
chất lượng cuộc sống
CLCSDC
:
chất lượng cuộc sống dân cư
CNH – HĐH
:
công nghiệp hóa – hiện đại hoá
ĐBSCL
:
đồng bằng sông Cửu Long
GDP
:
tổng sản phẩm quốc nội
GNP
:
tổng sản phẩm quốc gia
FAO
:
tổ chức lương thực Thế giới
HDI
:
chỉ số phát triển con người
IMF
:
quỹ tiền tệ Quốc tế
LLLĐ
:
lực lượng lao động
THCS
:
trung học cơ sở
THPT
:
trung học phổ thông
UNDP
:
liên Hợp Quốc
UNESCO
:
tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá
UNEP
:
chương trình Môi trường
WB
:
ngân hàng Thế giới
WHO
:
tổ chức Y tế Thế giới
MỞ ĐẦU
1.
Lý do chọn đề tài
Chất lượng cuộc sống dân cư phản ảnh trình độ phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia ở các
lĩnh vực kinh tế văn hóa và phúc lợi xã hội. Đồng thời, CLCSDC và tăng trưởng kinh tế - xã hội có
mối quan hệ khắng khít, chặt chẽ với nhau. CLCSDC vừa là động lực thúc đẩy tăng trưởng vừa là
thước đo trình độ văn minh và sự phát triển nhiều mặt của một quốc gia. Chính vì vậy, nhiều quốc gia
trên thế giới không ngừng thực hiện các chính sách phát triển toàn diện về kinh tế - xã hội để nâng cao
CLCSDC, nhằm khẳng định vị trí của mình trên trường quốc tế.
Ngay từ những ngày đầu xây dựng Đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm đến việc nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng
(năm 1991) đã khẳng định: “Mục tiêu của chính sách xã hội thống nhất với mục tiêu phát triển kinh tế,
đều nhằm phát huy sức mạnh của nhân tố con người và vì con người. Kết hợp hài hòa giữa sự phát
triển kinh tế và sự phát triển xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần của nhân dân...”. Vì
vậy, CLCSDC trong những năm gần đây đã tăng lên đáng kể, thể hiện qua các chỉ tiêu về chất lượng
cuộc sống dân cư.
Chẳng hạn, chỉ số HDI tăng liên tục qua các năm, từ 0,62% (năm 1990) lên 0,733% (năm 2007),
xếp thứ 105/177 quốc gia; GDP BQĐN từ thứ hạng 133 (năm 1999) vượt lên hạng 118 (năm 2005);
tuổi thọ trung bình tăng nhanh, từ 67,4 tuổi năm 2001 lên 72,8 tuổi năm 2009. Tuổi thọ tăng phản ánh
mức sống dân cư và công tác chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân được triển khai tốt. Ngoài ra, công tác
xoá đói giảm nghèo thực hiện tốt được thế giới đánh giá cao; các lĩnh vực giáo dục, nhà ở, điện, nước,
văn hóa – thể thao phát triển mạnh cả về số lượng và chất lượng.
Nhìn chung, đời sống vật chất và tinh thần của người dân đã được nâng lên rất nhiều trong thời
gian qua, nhưng vẫn còn ở mức thấp. Chênh lệch mức sống còn cao giữa thành thị - nông thôn, giữa
các vùng trong cả nước, đặc biệt là các địa phương vùng sâu, vùng xa, miền núi. Mặt khác, nếu so sánh
với một số nước trong khu vực và trên thế giới, CLCSDC ở nước ta còn khá khiêm tốn.
Vĩnh Long là tỉnh nằm ở trung tâm ĐBSCL, vùng trọng điểm lương thực – thực phẩm lớn nhất
nước ta. Nằm giữa hai con sông lớn nhất vùng, sông Tiền và sông Hậu là cửa ngõ ra biển, lại có quốc
lộ 1A chạy qua tỉnh, nối hai thành phố Hồ Chí Minh và Cần Thơ. Những lợi thế trên tạo điều kiện cho
Vĩnh Long mở rộng giao lưu kinh tế, văn hóa – xã hội, đẩy mạnh phát triển sản xuất hàng hóa, thực
hiện công cuộc CNH – HĐH, từ đó hội nhập với nền kinh tế cả nước và đẩy mạnh hợp tác quốc tế.
Thế nhưng, từ sau khi tiến hành cải cách, chuyển sang nền kinh tế thị trường, Vĩnh Long vẫn chỉ
là tỉnh nông nghiệp. Ngành nông nghiệp chiếm tỷ trọng cao trong tổng GDP của tỉnh, với khoảng 70%
dân số sống dựa vào sản xuất nông nghiệp, trên 80% dân cư nông thôn có thu nhập thấp. Hơn nữa,
phần lớn đời sống kinh tế nơi đây vẫn còn nhiều khó khăn, mức sống dân cư còn thấp; các lĩnh vực văn
hóa, xã hội và dịch vụ phát triển chậm. Trong thời kỳ phát triển kinh tế thị trường theo định hướng Xã
hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, chúng ta không thể hài lòng với cuộc sống như hiện tại, trong khi
tiềm năng địa phương có nhiều thuận lợi cho sự phát triển. Vĩnh Long cần phải có chiến lược phát
triển, những bước đi phù hợp, những giải pháp hợp lý mới hy vọng nâng cao CLCSDC, đó cũng chính
là phát triển toàn diện nền kinh tế - xã hội địa phương.
Được sinh ra và trưởng thành tại Vĩnh Long, trăn trở với những gì đang diễn ra nơi đây, và mong
muốn được đóng góp một phần nhỏ vào công cuộc xây dựng, phát triển quê nhà, tôi đã chọn nghiên
cứu đề tài “Một số giải pháp nâng cao chất lượng cuộc sống dân cư tỉnh Vĩnh Long trong thời kỳ
hội nhập”.
2.
Mục đích - nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích
Hệ thống hóa cơ sở lý luận về chất lượng cuộc sống dân cư và vận dụng vào việc phân tích chất
lượng cuộc sống dân cư ở một địa phương.
Từ nghiên cứu thực trạng chất lượng cuộc sống dân cư đề xuất phương hướng và giải pháp phát
triển kinh tế - xã hội nhằm nâng cao CLCSDC tỉnh Vĩnh Long trong thời kỳ hội nhập.
2.2. Nhiệm vụ
Hệ thống hóa và phân tích các chỉ tiêu cơ bản đánh giá CLCSDC.
Phân tích thực trạng CLCSDC tỉnh Vĩnh Long trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế dựa trên các
điều kiện đặc thù của tỉnh.
Đưa ra các giải pháp phát triển kinh tế - xã hội nhằm nâng cao CLCSDC theo quan điểm phát
triển bền vững và phát triển con người.
3.
Giới hạn nghiên cứu đề tài
Về thời gian: luận văn sử dụng nguồn tư liệu tổng hợp từ năm từ năm 2000 đến năm 2008.
Về không gian: tỉnh Vĩnh Long có sự phân hóa theo cấp huyện thị.
Về nội dung: một số nội dung cơ bản như chỉ số phát triển con người, GDP/người, nghèo đói, y
tế, giáo dục, các điều kiện về nhà ở – điện – nước, văn hóa, thể dục – thể thao và môi trường.
4.
Lịch sử nghiên cứu đề tài
CLCS vẫn luôn là vấn đề được nhiều người quan tâm, có rất nhiều bài viết, báo cáo trong và ngoài
nước trực tiếp hoặc gián tiếp nói đến CLCS, chẳng hạn:
– “Một số vấn đề cơ bản về giáo dục dân số” - Dự án VIE/94/P01- Hoàng Đức Nhuận (chủ biên),
đề cập đến chất lượng cuộc sống thông qua nội dung “Mối quan hệ giữa phát triển dân số và chất lượng
cuộc sống”.
– Các “Báo cáo phát triển con người” của Liên Hợp Quốc hằng năm, đề cập gián tiếp về chất
lượng cuộc sống qua chỉ số phát triển con người (HDI).
– Các “Cuộc điều tra mức sống và điều tra dân số” do Tổng cục Thống kê Trung ương và địa
phương tiến hành qua các năm, nhưng chỉ phản ánh thuần túy về tăng trưởng kinh tế, thu nhập BQĐN,
giáo dục, sức khỏe, nhà ở,...
– Một số đề tài luận văn thạc sĩ như: “Chất lượng cuộc sống dân cư tỉnh Bình Thuận - Hiện trạng
và giải pháp”, “Chất lượng cuộc sống dân cư tỉnh Nghệ An”,... đã đề cập trực tiếp đến chất lượng cuộc
sống dân cư của địa phương.
Tuy nhiên, việc đưa ra những giải pháp nâng cao chất lượng cuộc sống dân cư ở tỉnh Vĩnh Long
trong thời kỳ hội nhập như hiện nay vẫn chưa có đề tài, bài viết tổng thể nào đề cập.
5.
Quan điểm nghiên cứu
5.1. Quan điểm tổng hợp hệ thống
Vấn đề CLCSDC bao hàm nhiều thành phần kinh tế - xã hội khác nhau và các vấn đề này có mối
quan hệ mật thiết với nhau theo một hệ thống. Khi nghiên cứu, cần có sự nhận định tổng hợp giữa các
hợp phần trong một hệ thống và giữa các hệ thống với nhau để có sự đánh giá vấn đề một cách chi tiết
và khái quát.
5.2. Quan điểm lãnh thổ
Khi nghiên cứu CLCSDC cần xem xét, phân tích các mối quan hệ trên một lãnh thổ thống nhất, từ
đó có nhận xét chính xác về đối tượng nghiên cứu. Chẳng hạn, có sự phân biệt giữa thành phố, thị trấn
hay xã, ấp,... khi xem xét các điều kiện về nhà ở, điện nước, vệ sinh môi trường…
5.3. Quan điểm lịch sử - viễn cảnh
Khi nghiên cứu CLCSDC tỉnh Vĩnh Long, cần quán triệt quan điểm lịch sử viễn cảnh để nắm
được quá khứ của đối tượng nghiên cứu thì mới có thể giải thích được sự phát triển hiện tại, cũng như
dự báo một cách chính xác hơn cho tương lai.
5.4. Quan điểm sinh thái
Khi nghiên cứu cần tính đến yếu tố môi trường, làm thế nào để có môi trường sống tốt hơn? Đó
cũng chính là một giải pháp nâng cao chất lượng sống.
5.5. Quan điểm phát triển bền vững
Mọi sinh vật tồn tại và phát triển phụ thuộc vào điều kiện sinh thái nhất định. Cho nên ngoài việc
đẩy mạnh phát triển kinh tế, xã hội,… cần gắn với bảo vệ môi trường nhằm đảm bảo sự phát triển bền
vững về mặt kinh tế - xã hội và môi trường.
6.
Các phương pháp nghiên cứu
6.1. Phương pháp thu thập và phân tích tổng hợp tài liệu, tư liệu
Để thực hiện luận văn này, tác giả đã thu thập tài liệu từ nhiều nguồn khác nhau như: báo tạp chí,
các tài liệu viết, tài liệu thống kê, các trang web,... sau đó, tiến hành phân tích nhằm phục vụ cho mục
đích nghiên cứu.
6.2. Phương pháp phân tích – so sánh
Phân tích khái quát thực trạng CLCSDC cả nước và thực trạng CLCSDC tỉnh. Sau đó, tiến hành
so sánh và phân tích để đưa ra các kết luận, nhận định vấn đề nghiên cứu.
6.3. Phương pháp thống kê toán học
Từ những số liệu tìm được, tác giả tiến hành tính toán để có thể đưa ra những nhận định, dự báo
hợp lý cho vấn đề nghiên cứu.
6.4. Phương pháp bản đồ
Sử dụng các bản đồ, biểu đồ, đồ thị, bảng số liệu,... để minh họa, dẫn chứng, hay chứng minh cho
vấn đề, nhằm giúp người đọc theo dõi thuận lợi hơn.
6.5. Phương pháp cân đối
Khi phát triển kinh tế, xã hội và các dịch vụ xã hội,… cần đảm bảo sự phát triển trong mối quan
hệ cân đối, hài hòa.
7.
Cấu trúc luận văn
Nội dung luận văn gồm 3 phần: mở đầu, nội dung và kết luận. Trong đó, phần nội dung gồm 3
chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận nghiên cứu chất lượng cuộc sống dân cư.
Chương 2: Thực trạng chất chất lượng cuộc sống dân cư tỉnh Vĩnh Long.
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao chất lượng cuộc sống dân cư tỉnh Vĩnh Long trong thời kỳ
hội nhập.
Chương 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN NGHIÊN CỨU CHẤT LƯỢNG
CUỘC SỐNG DÂN CƯ
1.1. Các khái niệm
1.1.1. Chất lượng (Quality)
Là những thuộc tính bản chất vốn có của sự vật, làm cho sự vật này phân biệt với sự vật khác.
Chất lượng là thuộc tính khách quan của sự vật. Chất lượng biểu hiện ra bên ngoài qua các thuộc tính
của nó. Chất lượng của sự vật cũng gắn liền với số lượng, mỗi sự vật bao giờ cũng là sự thống nhất của
chất lượng và số lượng [11, tr.52].
1.1.2. Dân cư
Là tập hợp những con người cùng cư trú trên một lãnh thổ nhất định gọi là dân cư của vùng đó.
Lãnh thổ ở đây có thể là xã, huyện, tỉnh, cả nước, một Châu lục hay toàn bộ Trái Đất,… Chẳng hạn
như dân cư Hà Nội, dân cư miền núi, dân cư Việt Nam,… Như vậy, khi nói đến dân cư là nói đến quy
mô, cơ cấu và các vấn đề kinh tế, văn hóa, sức khỏe, ngôn ngữ,…
1.1.3. Chất lượng cuộc sống dân cư
CLCSDC là một phạm trù rất rộng bao gồm nhiều yếu tố đa dạng và phức tạp, biến động theo thời
gian và lãnh thổ. Vì vậy, khó có thể định nghĩa một cách hoàn chỉnh, có nhiều quan niệm khác nhau về
khái niệm CLCSDC.
Quan niệm của giáo sư Vũ Khiêu:
“CLCSDC là khả năng đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần của con người trong hoạt động
sống nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng của con người về vật chất – tinh thần”.
Quyển “Một số vấn đề cơ bản về giáo dục dân số, Dự án VIE/94/P01-Hà Nội, 1995 do giáo
sư Hoàng Đức Nhuận chủ biên, thể hiện:
“CLCSDC là điều kiện sống được cung cấp đầy đủ nhà ở, giáo dục, dịch vụ y tế, lương thực,
vui chơi, giải trí cho nhu cầu của con người. Điều kiện này làm con người dễ dàng đạt được sự hạnh
phúc, an toàn gia đình, khỏe mạnh về thể chất và tinh thần” [12, tr.114].
Tuy hiện nay chưa có một khái niệm thống nhất vì CLCSDC thay đổi tùy theo quan niệm văn
hóa xã hội và truyền thống của mỗi dân tộc, mỗi cộng đồng và từng cá nhân trong từng giai đoạn phát
triển của xã hội. Nhưng theo tôi, khái niệm CLCSDC trong quyển “Một số vấn đề cơ bản về giáo dục
dân số…” có thể xem là khái niệm cơ bản và khái quát nhất.
1.2. Các chỉ tiêu xác định chất lượng cuộc sống
Việc đưa ra các chỉ số xác định hay chuẩn mực sống của con người cũng rất khác nhau ở mỗi
quốc gia.
Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) đưa ra một số chỉ tiêu: Chỉ số phát triển
con người (HDI) và một số chỉ số khác cũng được xem xét để đánh giá CLCSDC như: chỉ số nghèo
khổ, lương thực bình quân đầu người, các dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe, nhà ở, chất lượng môi
trường sống.
Trong quyển “Một số vấn đề cơ bản về giáo dục dân số, Dự án VIE/94/P01-Hà Nội, 1995
do giáo sư Hoàng Đức Nhuận chủ biên đưa ra các chỉ tiêu: Phát triển kinh tế, lương thực - dinh
dưỡng, giáo dục, sức khỏe và phương tiện y tế, nhà ở, giao thông, an toàn xã hội, giải trí và các dịch
vụ xã hội khác...[12, tr.115].
Ngoài ra, còn rất nhiều quan niệm khác nhưng chung quy lại đều xoay quanh các chỉ số về vật
chất và tinh thần. Căn cứ vào tình hình phát triển hiện nay, chúng ta có thể nhận ra rằng con người thực
sự trở thành mục tiêu của sự phát triển, với phương châm hành động “phát triển vì con người”. Việc
nâng cao CLCS con người về thể chất và trí tuệ, tinh thần và vật chất là đích phấn đấu của mỗi quốc
gia. Vì vậy, các thước đo CLCS con người chính là thu nhập BQĐN (GDP/người), giải quyết vấn đề
xóa đói giảm nghèo, lương thực BQĐN, lao động - việc làm, giáo dục, sức khỏe và phương tiện y tế,
môi trường sống, và các dịch vụ xã hội khác (nhà ở – điện – nước; văn hóa, thể dục thể thao, vui chơi
giải trí)... được xác định bằng chỉ số phát triển con người.
1.2.1. Chỉ số phát triển con người (HDI)
Chỉ số phát triển con người là một chỉ số mô tả bức tranh khá hoàn chỉnh về sự phát triển của một
nước. Và đồng thời, đây cũng là chỉ số tổng hợp làm tiêu chí xác định CLCSDC.
Từ năm 1990, Liên Hợp Quốc (UNDP) dùng chỉ số HDI để đánh giá và so sánh trình độ phát triển
của các nước trên mặt bằng thống nhất, chỉ số này bao gồm ba yếu tố:
Một cuộc sống lâu dài khỏe mạnh, được đo bằng tuổi thọ trung bình từ lúc sinh.
Kiến thức, được đo bằng tỉ lệ người lớn biết chữ (với quyền số 2/3) và tỷ lệ nhập học các cấp giáo
dục tiểu học, trung học và đại học (với quyền số 1/3).
Mức sống đo bằng GDP thực tế đầu người theo sức mua tương đương tính bằng đôla Mỹ
(PPP/USD).
Các chỉ số trên đều nhận giá trị từ 0 đến 1, các chỉ số càng gần tới 1 có nghĩa là trình độ phát triển
và xếp hạng càng cao (với 1 là thứ hạng cao nhất), và ngược lại các chỉ số càng gần 0 có nghĩa là trình
độ phát triển và xếp hạng càng thấp. Từ đó, người ta căn cứ vào chỉ số HDI để xếp hạng các nước
trong khoảng từ 0 – 1 như sau:
– HDI < 0,500: thấp
– HDI từ 0,501 – 0,799: trung bình
– HDI > 0,800: cao
Xếp hạng theo chỉ số HDI ở một số nước có sự khác biệt đáng kể so với xếp hạng theo GDP
(GNP) thực tế đầu người. Hiệu số giữa thứ bậc xếp hạng về GDP và thứ bậc xếp hạng về HDI của một
nước cho thấy mức độ thành công (hay thất bại) của nước này so với nước khác trong việc chuyển các
lợi ích của tăng trưởng kinh tế vào CLCSDC của mình. Hiệu số âm có nghĩa là một nước đang làm tốt
hơn về khía cạnh phát triển con người so với thu nhập BQĐN và hiệu số dương có ý nghĩa ngược lại
(xem bảng 1.1).
Bảng 1.1. Tương quan giữa phát triển kinh tế và phát triển con người của các nước ASEAN,
2007
Hiệu số vị trí xếp
HDI
GDP
Các nước
hạng giữa GDP và
ASEAN
Chỉ số HDI
Xếp hạng Chỉ số
Xếp hạng
Singapo
0,922
0,950
25
19
-6
Brunây
0, 894
0,941
30
22
-8
Malayxia
0,811
0,783
63
57
-6
Thái Lan
0,781
0,745
78
65
-13
Philippin
0,771
0,657
90
101
11
Việt Nam
0,733
0,572
105
123
18
Inđônêxia
107
0,728
0,609
113
6
Lào
0,601
0,503
130
141
11
Campuchia
0,598
0,552
131
125
-6
Mianma
132
0,583
0,389
167
35
Đôngtimo
0,514
0,390
151
167
16
Nguồn: Báo cáo phát triển con người của UNDP 2007/2008.
Hiệu số vị trí xếp hạng giữa GDP và HDI cho thấy Singapo, Brunây, Malayxia, Thái Lan đã định
hướng các tiềm năng kinh tế của mình sát với những nhu cầu của tiến bộ con người. Tuy nhiên cần
nhấn mạnh một lần nữa rằng, HDI chỉ phản ánh được một vài trong số các lựa chọn của con người, bỏ
qua nhiều vấn đề quan trọng khác như quyền tự do về kinh tế - xã hội - chính trị, quyền được bảo vệ
trước tội phạm, trước sự xâm phạm và mất ổn định.
Ở nước ta, theo công bố hàng năm của Liên Hợp Quốc, chỉ số HDI tăng liên tục qua các năm từ
0,539 năm 1992 lên 0,709 năm 2006, và đạt 0,733 năm 2007; dẫn đến xếp hạng HDI tăng theo từ thứ
122/174 quốc gia năm 1992 lên 105/177 quốc gia năm 2007 (xem biểu đồ 1.1). Trong khu vực Đông
Nam Á, thứ bậc về HDI của Việt Nam cũng tăng từ thứ 7 lên thứ 6; ở khu vực Châu Á tăng từ thứ 32
lên thứ 28. Điều đó chứng tỏ việc tăng trưởng kinh tế đã hướng vào sự phát triển xã hội và con người.
Tỷ lệ
0.74
0.733
0.73
0.72
0.704
0.71
0.7
0.69
0.688
0.688
0.691
101
162
109
173
109
175
112
177
2001
2002
2003
2004
0.682
0.68
0.67
0.66
0.709
108
177
109
177
2005
2006
105
177
0.65
2007
Năm
Biểu đồ 1.1: Chỉ số phát triển con người Việt Nam giai đoạn
2001 - 2007
Chỉ số HDI của nước ta đạt được kết quả trên là nhờ sự đóng góp của cả ba chỉ số, trong đó chỉ số
tuổi thọ và chỉ số giáo dục là đáng kể nhất (0,81), cao hơn chỉ số GDP/người (0,572) vào năm 2007.
Mặc dù, chỉ số HDI của nước ta không ngừng tăng lên nhưng vẫn còn nằm trong nhóm nước có thứ
hạng chỉ số HDI trung bình.
Ngoài ra, theo báo cáo phát triển con người Việt Nam xây dựng năm 2006 cho tám vùng kinh tế,
thì chỉ có vùng Đông Nam Bộ đạt mức độ tương thích về phát triển kinh tế - phát triển con người, các
vùng khác chưa đạt được đều này. Nếu tính cho 64 tỉnh thành phố của cả nước thì chỉ có Bà Rịa –
Vũng Tàu, TP. Hồ Chí Minh đạt mức độ tương thích trung bình giữa phát triển con người – phát triển
kinh tế. Hà Nội, Bình Dương và Đồng Nai mới ở mức xấp xỉ trung bình giữa phát triển con người –
phát triển kinh tế.
Chỉ số HDI của nước ta được đánh giá là tiến bộ nhanh nhất trong các nước Đông Nam Á, tuy
nhiên để theo kịp các nước trong khu vực và trên thế giới, nước ta cần phải giải quyết thêm nhiều vấn
đề liên quan.
1.2.2. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP)
Tổng sản phẩm quốc nội phản ánh sự tăng trưởng kinh tế và mức sống dân cư qua thu nhập
BQĐN (GDP/người).
Định nghĩa:
“Là tổng sản lượng hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng cuối cùng mà một nền kinh tế tạo ra bởi cả
dân sự và phi dân sự, không phân biệt do người trong nước hay người nước ngoài tạo ra. GDP không
bao gồm phần khấu trừ đối với khoản khấu hao vốn vật chất hay sự suy giảm và xuống cấp của tài
nguyên thiên nhiên” [40, tr.152].
Cùng với GDP, người ta còn sử dụng chỉ tiêu GNP để đánh giá trình độ phát triển kinh tế và mức
sống giữa các nước với nhau. GNP được định nghĩa như sau: “tổng sản phẩm quốc gia (GNP) gồm
GDP cộng thu nhập từ nước ngoài thuần, tức là khoảng thu nhập mà người dân nhận từ nước ngoài do
cung cấp các dịch vụ vật chất (lao động, vốn), trừ các khoản thanh toán cùng loại cho những người
không cư trú thường xuyên đã đóng góp vào nền kinh tế trong nước” [40, tr.153].
GDP, GNP là hai con số thống kê thường dùng, nhưng GNP chỉ khác là bao gồm các phần giá trị
của người trong nước được tạo ra ở nước ngoài và những phần giá trị của nước ngoài được tạo ra trong
lãnh thổ quốc gia. Chính vì vậy, có nhiều quốc gia trên thế giới rơi vào trường hợp GNP lớn hơn GDP
hoặc ngược lại. Tuy nhiên, hai chỉ tiêu này chỉ có giá trị so sánh khi tính đến cùng một quy mô dân số.
Cho nên, cần phải tính GDP (GNP) ra BQĐN theo sức mua tương đương (PPP/USD). PPP cho phép so
sánh chuẩn về giá thực tế giữa các quốc gia, cũng như tính tiện dụng của chỉ số giá cho phép so sánh
giá trị thực theo thời gian. Người ta dùng GDP/người để biểu thị quy mô kinh tế trong nội bộ quốc gia,
còn GNP/người để biểu thị thực chất sức mạnh kinh tế của một nước.
Dựa vào GDP/người (GNP/người), Ngân hàng Thế giới (năm 2003) phân loại các quốc gia và
vùng lãnh thổ thành 4 nhóm:
Nhóm thu nhập thấp: từ 765 USD/người/năm trở xuống
Nhóm thu nhập trung bình thấp: từ 766 – 3035 USD/người/năm
Nhóm thu nhập trung bình cao: từ 3036 – 9385 USD/người/năm
Nhóm thu nhập cao: từ 9386 USD/người/năm trở lên.
Hay còn dùng nhóm nước đang phát triển (nước có thu nhập thấp và trung bình) và nhóm nước
phát triển hay công nghiệp (nước có thu nhập cao).
Căn cứ vào sự phân loại trên, nhận thấy có sự chênh lệch lớn về GDP BQĐN giữa các nước phát
triển và các nước đang phát triển (xem bảng 1.2).
Bảng 1.2: GDP bình quân đầu người ở một số nước trên thế giới, 2004
(Đơn vị: USD)
Các nước phát triển
Các nước đang phát triển
Tên nước
GDP/người
Tên nước
GDP/người
Đan Mạch
An-ba-ni
45.008
2.372
Thụy Điển
Cô-lôm-bi-a
38.489
2.150
Anh
In-đô-nê-xi-a
35.861
1.194
Ca-na-da
Việt Nam
30.714
638
Hoa Kì
Ấn Độ
28.020
637
Niu Di-lân
Ê-ti-ô-pi-a
24.314
112
Thế giới: 6.393
Nguồn: Sách giáo khoa Địa lý 11, NXB Giáo Dục, 2007, tr.7.
Các nước phát triển có thu nhập BQĐN rất cao, cao hơn mức trung bình của thế giới và cao gấp
nhiều lần so với nhóm nước đang phát triển, điển hình như Đan Mạch cao gấp hàng trăm lần so với Êti-ô-pi-a và gấp 7 lần so với thu nhập BQĐN toàn thế giới. Trong khi đó, nhóm nước đang phát triển có
thu nhập BQĐN thấp, thấp hơn mức trung bình của thế giới, chẳng hạn như Ê-ti-ô-pi-a có thu nhập
BQĐN thấp hơn mức trung bình của thế giới khoảng 57 lần. Thu nhập BQĐN ở các nước đang phát
triển đã thấp lại có mức tăng dân số cao (cao hơn mức trung bình của thế giới), điều đó càng làm cho
các nước đang phát triển khó khăn hơn trong việc nâng cao thu nhập và cải thiện mức sống dân cư, dẫn
đến sự phân hóa giàu nghèo giữa ác nhóm nước ngày càng sâu sắc.
Việt Nam, sau khi thực hiện đổi mới, được thế giới đánh giá là quốc gia có tốc độ tăng trưởng
kinh tế nhanh và thuộc loại cao, đặc biệt trong vòng 17 năm trở lại đây (từ năm 1990 đến năm 2007),
với mức tăng bình quân mỗi năm là 7,3%. Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và dân số giảm nên
GDP/người/năm tăng lên đáng kể, đạt 820 USD vào năm 2007, tăng 600 USD so với năm 1990 (xem
biểu đồ 1.2).
Mặc dù, thu nhập BQĐN của Việt Nam có tăng nhưng vẫn còn ở mức thấp, thấp hơn mức trung
bình của thế giới khoảng 10,0 lần (năm 2004); so với các nước phát triển, thu nhập BQĐN của nước ta
còn kém xa. Nhưng đến năm 2008, thu nhập BQĐN đạt 1.024 USD/người/năm, với con số này Việt
Nam được xóa tên khỏi danh sách những quốc gia có thu nhập thấp chuyển sang nhóm nước có thu
nhập trung bình. Tuy nhiên, bức tranh về thu nhập là rất khác nhau giữa thành thị và nông thôn, giữa
các vùng lãnh thổ.
900
800
700
600
500
400
300
200
100
0
USD
8.4
7.1
638
5.1
8.4
8.5
820
720
402
220
1990
2000
GDP bình quân đầu người
2005
2006
2007
%
9
8
7
6
5
4
3
2
1
0
Năm
Tốc độ tăng trưởng GDP
Biểu đồ 1.2: Tốc độ tăng trưởng GDP và GDP bình quân đầu người,
1990 - 2007
– Khu vực thành thị có mức thu nhập BQĐN/tháng cao hơn so với khu vực nông thôn, từ 517
nghìn đồng (năm 1999) lên 1.605 nghìn đồng (năm 2008), trong khi đó nông thôn từ 225 nghìn đồng
(năm 1999) lên 762 nghìn đồng, (xem biểu đồ 1.3). Khoảng cách chênh lệch về thu nhập giữa thành thị
và nông thôn còn rất lớn và xu hướng rút ngắn rất chậm, nếu năm 1999, thu nhập của khu vực thành thị
cao gấp 2,3 lần so với nông thôn và gấp 1,8 lần so với cả nước thì đến năm 2008 khoảng cách này lần
lượt là 2,1 lần và 1,6 lần.
Nghìn đồng
2000
1605
1500
1000
500
0
517
295225
622
356275
1999
2002
Cả nước
815
1058
484378
636
506
2004
2006
Nông thôn
995
762
2008
Năm
Thành thị
Biểu đồ 1.3: Thu nhập bình quân đầu người/tháng của cả nước, nông
thôn và thành thị, 1999 - 2008
– Đông Nam Bộ là vùng có thu nhập bình quân đầu người trên tháng cao nhất, đạt 1.773 nghìn
đồng năm 2008; tiếp theo là vùng đồng bằng sông Hồng, đạt 1.064 nghìn đồng năm 2008, cao hơn
trung bình của cả nước qua các năm (xem bảng 1.3). Các vùng còn lại đều có mức thu nhập thấp và
tăng chậm qua các năm, thấp hơn mức trung bình của cả nước, thất nhất là vùng trung du miền núi phía
Bắc, đạt 656 nghìn đồng năm 2008, tiếp đến là Bắc Trung Bộ và duyên hải Nam Trung Bộ chỉ đạt 728
nghìn đồng năm 2008. Tuy chênh lệch về thu nhập ở các vùng so với cả nước là không lớn (cao nhất
chỉ có vùng Đông Nam Bộ là 1,8 lần, kế là vùng đồng bằng sông Hồng là 1,1 lần) nhưng chênh lệch
giữa vùng có thu nhập cao nhất so với vùng có thu nhập thấp nhất là rất lớn, và xu hướng rút ngắn rất
chậm. Năm 1999, vùng Đông Nam Bộ cao gấp 2,9 lần so với vùng Trung du và miền núi phía Bắc
(vùng có thu nhập bình quân đầu người thấp nhất) và gấp 2,5 lần so với vùng Bắc Trung Bộ và duyên
hải Nam Trung Bộ (vùng có thu nhập bình quân đầu người thấp thứ 2); đến năm 2008, khoảng cách
này lần lượt là 2,7 lần và 2,4 lần.
Bảng 1.3: Thu nhập bình quân đầu người/tháng ở các vùng, 1999 – 2008
(Đơn vị: nghìn đồng)
Năm
200
1999
2
Chênh lệch về
thu nhập ở các
2004 2006 2008
vùng so với cả
nước, 2008
Cả nước
295
356
484
636
995
Đồng bằng Sông Hồng
282
358
498
666
1064
1,1
Trung du miền núi phía Bắc
199
237
327
442
656
0,7
229
268
361
476
728
0,7
345
244
390
522
794
0,8
Đông Nam Bộ
571
667
893
1146 1773
1,8
ĐBSCL
342
371
471
628
0,9
Vùng
Bắc Trung Bộ và duyên hải
Nam Trung Bộ
Tây Nguyên
Nguồn: Niên giám thống kê 2008, TCTK, 2009.
939
Ở các nhóm thu nhập, cũng thể hiện mức tăng nhưng rất khác nhau. Chẳng hạn, trong giai đoạn
1999 - 2008, nhóm 1 và nhóm 5 đều tăng gần gấp 3 lần, nhóm 1 tăng từ 863 nghìn đồng lên 2.458
nghìn đồng, còn nhóm 5 tăng từ 97 nghìn đồng lên 275 nghìn đồng. Hơn nữa, sự chênh lệch giữa nhóm
5 và nhóm 1 ngày càng lớn (xem bảng 1.4).
Bảng 1.4: Thu nhập bình quân đầu người/tháng của các nhóm thu nhập ở Việt Nam, 1999 – 2008
(Đơn vị: nghìn đồng)
Năm
1999 2004 2006 2008*
Nhóm 1
Nhóm 2
Nhóm 3
Nhóm 4
Nhóm 5
97
181
254
347
863
142 184
241 319
347 459
514 679
1182 1542
275
477
670
1067
2458
Chênh lệch của
nhóm 5 so với các
nhóm, năm 1999
(lần)
8,9
4,8
3,4
2,5
…
Chênh lệch của
nhóm 5 so với
các nhóm, năm
2008 (lần)
8,9
5,2
3,7
2,3
…
Nguồn: Niên giám thống kê 2000, 2007, 2008, TCTK. * Điều tra mức sống hộ gia đình 2008.
Do thu nhập BQĐN tăng nên tổng chi tiêu cho đời sống tăng lên rất nhiều, từ 239 nghìn đồng
(năm 1999) lên 793 nghìn đồng (năm 2008); tổng chi của năm 2008 tăng 3,3 lần so với năm 1999, và
tăng 1,6 lần so với năm 2006. Trong đó, thành thị có mức tăng cao hơn nông thôn và cả nước, vùng
đồng bằng sông Cửu Long tăng chậm nhất, còn Bắc Trung Bộ thì tăng cao nhất. Cơ cấu chi tiêu có sự
chuyển biến theo hướng giảm chi cho ăn, uống hút và tăng chi cho không phải ăn, uống hút, chi tiêu
khác. Xu hướng này cho thấy mức sống dân cư nước ta được cải thiện và có xu hướng nâng lên.
Nhìn chung trên phạm vi cả nước, thu nhập BQĐN ở nước ta tăng liên tục qua các năm, nhưng
vẫn còn biểu hiện của một nước có thu nhập thấp vì có khoảng trên 60% dân số sống ở nông thôn có
thu nhập BQĐN khoảng 300 USD. Mức sống chưa cao vì tỷ trọng chi cho ăn uống còn khá cao (chiếm
tới 47,1% vào năm 2008). Hơn nữa, khoảng cách chênh lệnh về thu nhập giữa thành thị và nông thôn,
giữa các vùng và các nhóm thu nhập là rất lớn.
1.2.3. Vấn đề nghèo đói
Hiện nay, đói nghèo đang trở thành một vấn đề cấp bách của nhiều quốc gia trên thế giới. Muốn
phát triển xã hội bền vững không thể không giải quyết vấn đề nghèo đói, ngoài ra nghèo đói cũng là
một trong các chỉ tiêu để đo lường chất lượng cuộc sống.
Khái niệm
Nghèo đói là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn những nhu cầu
cơ bản của con người, mà những nhu cầu này đã được xã hội thừa nhận theo trình độ phát triển kinh
tế - xã hội và phong tục tập quán của từng địa phương, từng vùng, từng quốc gia.
Liên Hợp Quốc chia nghèo đói thành 2 loại:
– Nghèo tuyệt đối: là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn đầy đủ
những nhu cầu cơ bản của cuộc sống như: ăn, mặc, ở, đi lại, y tế, giáo dục…
– Nghèo tương đối: là tình trạng một bộ phận dân cư có mức sống thấp hơn mức sống trung
bình của cộng đồng dân cư được xem xét.
Nghèo tuyệt đối là hệ quả của thu nhập thấp, còn nghèo tương đối là kết quả của việc so sánh
mức thu nhập giữa các nhóm dân cư trong một cộng đồng dân cư xác định. Cùng với quá trình tăng
trưởng và kinh tế phát triển, cải tiến phương thức phân phối thu nhập thì tình trạng nghèo tuyệt đối sẽ
giảm dần, song tình trạng nghèo tương đối sẽ tồn tại lâu dài do tương quan về thu nhập giữa các nhóm
dân cư khác nhau trong xã hội.
Chuẩn nghèo đói
Nghèo đói là một phạm trù lịch sử gắn với điều kiện cụ thể và trình độ phát triển kinh tế - xã
hội của từng quốc gia trong từng thời kỳ nhất định. Vì vậy, khó có thể đưa ra chuẩn mực chung để
đánh giá nghèo đói cho mọi quốc gia. Tuy nhiên, để có thể hoạch định được một chính sách xóa đói
giảm nghèo trên phạm vi thế giới và từng quốc gia, cần phải có chuẩn đói nghèo cụ thể.
Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF) đưa ra chuẩn nghèo áp dụng đối
với các nước đang phát triển như sau:
– Thu nhập BQĐN/ngày (hay trên tháng hoặc trên năm): ngưỡng là 1USD/người/ngày
– Lượng kcalo BQĐN/ngày
Bộ Lao động, Thương binh – xã hội Việt Nam đưa ra trong từng giai đoạn như sau:
– Trong giai đoạn 2001 – 2005: mức thu nhập BQĐN của hộ cho từng vùng như sau:
80.000đ/người/tháng đối với vùng nông thôn miền núi, hải đảo; 100.000đ đối với vùng nông thôn đồng
bằng; 150.000đ/người/tháng đối với dân cư khu vực thành thị.
– Trong giai đoạn 2006 – 2010: ở mức 260.000đ cho thành thị và 200.000đ cho tất cả các
vùng nông thôn.
Ở nước ta, căn cứ vào chuẩn nghèo mới của Chính phủ, tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm liên tục
trong giai đoạn 2002 – 2008. Năm 2008, tỷ lệ hộ nghèo còn 13,4%, giảm 15,5% so với năm 2002.
Trong đó, khu vực nông thôn có mức giảm khá nhanh khoảng 19,5%, từ 35,6% (năm 2002) xuống còn
16,1% (năm 2008); khu vực thành thị có tỷ lệ hộ nghèo thấp hơn khu vực nông thôn, nhưng tỷ lệ ấy lại
có xu hướng tăng lên, năm 2002 là 6,6% đến lại tăng lên 8,6% vào năm 2004 (tăng 2,0%), và giảm còn
6,7% vào năm 2008, tuy nhiên vẫn còn cao hơn so với năm 2002. Nhóm lao động nhập cư vào khu vực
thành thị và một số đối tượng nghèo mới ở những vùng đang đô thị hoá thường gặp nhiều khó khăn
hơn và phải chấp nhận mức thu nhập thấp hơn lao động sở tại.
Đông Nam Bộ là vùng có tỷ lệ hộ nghèo thấp nhất, kế đến là đồng bằng sông Hồng và đồng
bằng sông Cửu Long. Các vùng còn lại có tỷ lệ hộ nghèo cao hơn so với cả nước, chẳng hạn, năm
2008, Trung du và miền núi phía Bắc cao nhất gấp 1,87 lần, Tây Nguyên gấp 1,56 lần; Bắc Trung Bộ
và duyên hải Nam Trung Bộ gấp 1,43 lần. Tuy vậy, tỷ lệ hộ nghèo ở các vùng này đã có xu hướng
giảm mạnh, giảm nhanh nhất là vùng Tây Nguyên, kế đến là Bắc Trung Bộ và duyên hải Nam Trung
Bộ và Trung du miền núi phía Bắc. (xem bảng 1.5).
Bảng 1.5: Tỷ lệ hộ nghèo ở thành thị, nông thôn và các vùng, 2002 – 2008
(Đơn vị: %)
Năm
2002
28,9
6,6
35,6
2004
18,1
8,6
21,2
2006
15,5
7,7
17,7
Các vùng lãnh thổ
Trung du và miền núi phía Bắc
47,9
Đồng bằng sông Hồng
21,5
Bắc Trung Bộ và Duyên hải Nam Trung Bộ
35,7
Tây Nguyên
51.8
Đông Nam Bộ
8,2
Đồng bằng sông Cửu Long
23.4
29,4
12,7
25,3
29,2
4,6
15,3
27,5
10,0
22,2
24,0
3,1
13,0
Cả nước
Thành thị
Nông thôn
2008
13,4
6,7
16,1
25,1
8,6
19,2
21,0
2,5
11,4
Nguồn: Niên giám thống kê năm 2008, và Khảo sát mức sống hộ gia đình 2008, TCTK, 2009.
Sự chênh lệch giữa vùng có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất với vùng có tỷ lệ hộ nghèo thấp nhất vẫn
khá lớn và có xu hướng gia tăng khoảng cách, chẳng hạn năm 2002, vùng Tây Nguyên chỉ gấp 6,3 lần
và Trung du và miền núi phía Bắc chỉ gấp 5,8 lần so với vùng Đông Nam Bộ, và so với cả nước thì hai
vùng này lần lượt gấp 1,8 lần và 1,7 lần. Đến năm 2008, Trung du và miền núi phía Bắc có tỷ lệ nghèo
cao nhất gấp 10,0 lần, Tây Nguyên là 8,4 lần so với Đông Nam Bộ; so với cả nước lần lượt gấp 1,9 và
1,6 lần.
Việt Nam được xem là nước dẫn đầu thế giới về công tác xóa đói, giảm nghèo. Đạt được kết
quả này là do những chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước, cộng với sự giúp đỡ của
cộng đồng quốc tế và sự nỗ lực của nhân dân. Nhưng bức tranh về xoá đói giảm nghèo ở nước ta chưa
đồng đều và chưa thật sự bền vững. Phần lớn những hộ nghèo tập trung ở các vùng có nhiều yếu tố bất
lợi như điều kiện tự nhiên khắc nghiệt, kết cấu hạ tầng thấp kém, trình độ dân trí thấp, trình độ sản xuất
manh mún, sơ khai. Đây là những điều kiện cơ bản làm gia tăng yếu tố tái nghèo và tạo ra sự không
đồng đều trong tốc độ giảm nghèo giữa các vùng, như các vùng Tây Bắc, Bắc Trung Bộ và Tây
Nguyên có tốc độ giảm nghèo nhanh nhất, song đây cũng là những nơi có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất.
Trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường thì sự phân hóa giàu nghèo ở nước ta
là khó tránh khỏi, đây cũng là một nguyên nhân làm hạn chế sự phát triển của đất nước.
1.2.4. Về lao động - việc làm
Việc làm là nhu cầu bức thiết của xã hội, là yếu tố quan trọng nhất tác động đến mức sống dân cư
thông qua tạo thu nhập, góp phần cải thiện và nâng cao CLCSDC.
Khái niệm:
Mọi hoạt động tạo ra nguồn thu nhập và không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc
làm. Việc làm là một khái niệm rộng, nó bao gồm nhiều loại công việc khác nhau trong mọi thành phần
kinh tế, không hạn chế không gian và thời gian.
Hiện nay, tình hình phát triển kinh tế ở các quốc gia và khu vực trên thế giới đang rơi vào tình
trạng khủng hoảng mà nguyên nhân chủ yếu là do suy thoái nền kinh tế toàn cầu, dẫn đến tình trạng
thất nghiệp và thiếu việc làm ngày càng gia tăng ở các nước và khu vực (xem bảng 1.6).
Bảng 1.6: Tỷ lệ thất nghiệp ở một số nước và khu vực trên thế giới, 2008
(Đơn vị: %)
Khu vực
Đông Âu, Trung Âu, *
Bắc Phi
Trung Đông
Đông Nam Á
Hoa Kỳ
Nhật Bản
Việt Nam
Thế giới
Tỷ lệ thất nghiệp
8,8
10,3
9,4
3,8
6,8
4,5
2,38
7,4
Nguồn: http:www.dangcongsan.vn/cpv.* Gồm các nước ở Trung Âu và các quốc gia độc lập nhưng không tính các
nước nằm trong Liên Minh Châu Âu.
Ở nước ta, bức tranh về lao động, việc làm tuy có khá hơn nhưng vẫn là một vấn đề nan giải. Thời
gian qua, tuy tỷ suất gia tăng dân số giảm nhanh nhưng quy mô dân số và nguồn lao động vẫn còn tăng
với nhịp độ cao, bình quân mỗi năm tăng thêm 1 triệu người và có khoảng 1,2 triệu người bước vào
tuổi lao động. Nguồn lao động đông là điều kiện thuận lợi để phát triển nền kinh tế. Nhưng đây cũng là
khó khăn, trở ngại lớn khi giải quyết việc làm và tạo thu nhập cho người lao động.
Năm 2008, tỷ lệ thất nghiệp cả nước giảm còn 2,38%, và 5,1% thiếu việc làm, nhưng tình trạng
này rất khác nhau ở thành thị, nông thôn và ở các vùng (xem bảng 1.7).
Bảng 1.7: Tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm phân theo thành thị, nông thôn và theo vùng trong
cả nước, 2008
(Đơn vị:%)
Tỷ lệ thất nghiệp
Vùng
Tỷ lệ thiếu việc làm
Chung
Thành
thị
Nông
thôn
Chung
Thành
thị
Nông
thôn
Cả nước
2,38
4,65
1,53
5.1
2,34
6,1
ĐB. Sông Hồng
2,29
5,35
1,29
5,85
2,13
8,23
TD & MN phía Bắc
1,13
4,17
0,61
2,55
2,47
2,56
BTB & DH.NTB
1,24
4.77
1,53
5,71
3,38
6,34
Tây Nguyên
1,42
2,51
1,0
5,12
3,72
5,65
Đông Nam Bộ
3,47
4,89
2,05
2,13
3,69
3,69
ĐB. Sông Cửu Long
2,71
4,12
2,35
6,0
7,11
7,11
Nguồn: Niên giám thống kê 2008, Tổng cục thống kê, NXB Thống kê, Hà Nội, 2009.
Số liệu trên cho thấy, thành thị có tỷ lệ thất nghiệp cao gấp 1,95 lần so với cả nước và gấp 3,0 lần
so với nông thôn. Ngược lại, tình trạng thiếu việc làm ở nông thôn cao gấp 1,2 lần so với cả nước và
gấp 2,6 lần so với thành thị. Đông Nam Bộ và vùng đồng bằng sông Cửu Long có tỷ lệ thất nghiệp cao
nhất (hơn mức trung bình của cả nước), thấp nhất là trung du miền núi phía Bắc, Bắc Trung Bộ &
duyên hải Nam Trung Bộ (dưới mức trung bình của cả nước). Cả thành thị lẫn nông thôn của vùng
đồng bằng sông Cửu Long lại thiếu việc làm nghiêm trọng
Hiện nay, thách thức lớn nhất đối với nước ta không phải chỉ ở tình trạng thất nghiệp và thiếu việc
làm mà còn ở khía cạnh chất lượng nguồn lao động (xem bảng 1.8).
Bảng 1.8: Cơ cấu lao động có việc làm phân theo trình độ chuyên môn kỹ thuật cả nước qua một
số năm.
(Đơn vị:%)
Năm
Trình độ
Chưa qua đào tạo
Đã qua đào tạo
Có chứng chỉ nghề sơ cấp
Trung học chuyên nghiệp
Cao đẳng, đại học và trên đại học
1996
2005
2009(*)
87,7
12,3
Trong đó
6,2
3,8
2,3
75,0
25,0
74,6
25,4
15,5
4,2
5,3
7.3
12,1
6.0
Nguồn: Sách giáo khoa địa lí 12, NXBGD, 2008, tr.73. * Điều tra dân số năm 2009.
Lao động chưa qua đào tạo đang làm việc trong các ngành kinh tế chiếm tỷ lệ rất cao (trên
74,6%). Lao động đã qua đào tạo chỉ bằng khoảng 1/3 tỷ lệ trên, trong đó, lao động có trình độ cao
đẳng, đại học và trên đại học chỉ gần bằng 1/3 lao động có trình độ sơ cấp và trung học chuyên nghiệp.
Hơn nữa, lao động có trình độ lại phân bố không đồng đều ở các vùng. Đông Nam Bộ có tỷ lệ lao
động tốt nghiệp THPT cao nhất (32,7%), kế đến là đồng bằng sông Hồng (28,8%); thấp nhất là đồng
bằng sông Cửu Long (11,4%), tiếp theo là Tây Bắc (11,6%). Bên cạnh đó, các vùng có lực lượng lao
động mù chữ nhiều là Tây Nguyên (10,5%), Tây Bắc (17,6%), và ít nhất là đồng bằng sông Hồng
(0,6%), Bắc Trung Bộ (1,9%). Các vùng còn lại có tỷ lệ lao động mù chữ dao động từ 2,6% đến 5,9%.
Do trình độ lao động còn thấp nên năng suất và thu nhập không cao, điều này còn được thể hiện qua
phân bố nguồn lao động trong các ngành kinh tế.
Lao động trong khu vực nông – lâm – ngư nghiệp chiếm tỷ trọng rất cao so với khu vực công
nghiệp – xây dựng và dịch vụ và xu hướng chuyển dịch rất chậm. Từ năm 2000 đến năm 2008, tỷ lệ
lao động trong khu vực nông – lâm – ngư nghiệp chỉ giảm 14,3%; công nghiệp – xây dựng và dịch vụ
lần lượt tăng khoảng 7,2% và 7,1%. Lao động trong các thành phần kinh tế cũng thể hiện sự chênh lệch
rất lớn, song trong những năm gần đây, đã có sự chuyển dịch nhưng tốc độ còn rất chậm. Năm 2000,
lao động ở các thành phần kinh tế trong nước chiếm tỷ trọng rất cao (trên 90%), còn lao động ở các
thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước lại chiếm tỷ lệ rất thấp (chỉ có 0,6%). Đến năm 2008, lao động ở
các thành phần kinh tế trong nước có xu hướng giảm, đặc biệt lao động ở khu vực kinh tế Nhà nước,
còn lao động ở khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng lên 3,7%. (xem bảng 1.9).
Bảng 1.9: Cơ cấu lao động đang làm việc phân theo ngành kinh tế và thành phần kinh tế, 2000 –
2008
(Đơn vị: %)
Năm
2000
2005
2008
Ngành kinh tế
Tổng số
100
100
100
Nông – lâm – ngư nghiệp
65,1
57,3
50,8
Công nghiệp – xây dựng
13,1
18,2
20,3
Dịch vụ
21,8
24,5
28,9
Thành phần kinh tế
Tổng số
100
100
100
Nhà nước
9,3
9,5
9,1
Ngoài Nhà nước
90,1
88,9
87,2
Có vốn đầu tư nước ngoài
0,6
1,6
3,7
Nguồn: Điều tra mức sống hộ gia đình 2008, TCTK, 2009
Trong điều kiện nền kinh tế hội nhập cần nhiều lao động có trình độ chuyên môn và tay nghề cao,
nếu không đáp ứng kịp thời sẽ dễ dẫn đến tình trạng thấp nghiệp, hoặc thiếu việc làm. Thất nghiệp và
thiếu việc làm không chỉ khiến người lao động không có thu nhập để trang trải cuộc sống, khó thoát
khỏi nghèo đói, mà còn dễ dẫn đến các vấn đề như di dân, bạo lực, và các tệ nạn xã hội khác, tăng chi
phí xã hội (các chương trình an sinh xã hội cho người thất nghiệp),… Đây cũng chính là nguồn gốc
tiềm tàng lớn nhất của bất ổn định về kinh tế và xã hội. Như vậy, về lâu dài vẫn phải tính đến giải pháp
“việc làm hợp lý” để đảm bảo hiệu quả kinh tế - xã hội, và cải thiện CLCSDC.
1.2.5. Về giáo dục
Giáo dục được coi là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của nâng cao CLCS, phát triển nguồn
nhân lực đáp ứng yêu cầu của CNH, HĐH đất nước, đồng thời còn là nền tảng của văn hóa, là điều
kiện quan trọng cho một nền chính trị dân chủ, ổn định. Ngày nay, ở nước ta và nhiều quốc gia trên thế
giới coi giáo dục là quốc sách hàng đầu, thực hiện nền giáo dục toàn dân và tất cả cho giáo dục.
- Xem thêm -