LỜI NÓI ĐẦU
Đất nước ta đang trong thời kì đổi mới, phát triển kinh tế, ổn định chính trị
và xã hội đang là nhiệm vụ trọng tâm trong giai đoạn hiện nay. Từ một nền
kinh tế kém phát triển thu nhập bình quân đầu người thấp , cơ sở hạ tầng thấp
kém về mọi mặt do vậy để phát triển chúng ta cần phải có vốn. Đảng và nhà
nước ta đã xác định phát triển kinh tế ổn định và vững chắc có trọng tâm trong
đầu tư. Do đó chủ trương “ vốn trong nước là quyết định , vốn nước ngoài là
quan trọng” luôn được quán triệt trong quản lý kinh tế quản lý đầu tư và đặc
biệt trong hoạt động tín dụng đầu tư. Trong khi thị trường vốn ở nước ta chưa
phát triển thì kênh dẫn vốn quan trọng cho hoạt kinh tế nói chung và hoạt động
đầu tư đầu tư phát triển nói riêng hiện nay chính là hệ thống ngân hàng. Nhờ có
hệ thống này mà vốn được lưu chuyển từ nơi thừa sang nơi thiếu, giúp cho việc
lưu chuyển vốn hiệu quả, tạo vốn cho các công cuộc đầu tư góp phần thúc đẩy
kinh tế phát triển.
Thực hiện đường lối phát triển của Đảng và Nhà nước trong những năm
qua ngành ngân hàng nói chung và ngân hàng đầu tư đầu tư phát triển nói riêng
đã không ngừng đổi mới và hoàn thiện cho phù hợp với tình hình mới, tăng
cường công tác huy động mọi nguồn vốn cho đầu tư phát triển, đẩy mạnh cho
vay đối với các thành phần kinh tế, hiện đại hoá công nghệ ngân hàng....Chính
vì vậy đã góp phần quan trong vào công cuộc đầu tư thúc đẩy nền kinh tế tăng
trưởng với tốc đô cao, kiềm chế lạm phát và ổn định đời sống nhân dân. Song
bên những thành công và kết quả đạt được thì hệ thống ngân hàng nói chung và
ngân hàng đầu tư đầu tư phát triển nói riêng đang còn tồn tại nhiều yếu kém đó
là nguồn vốn huy động có thời gian dài cho đầu tư còn thiếu, công tác huy động
còn nhiều bất cập. Trong khi đó hoạt động cho vay đầu tư thì tỷ lệ nợ quá hạn
đang ở mức báo động, vốn cho vay ra bị sử dụng lãng phí, không hiệu quả do
vậy hiệu quả hoạt động cho vay đầu tư ngày càng giảm sút...Chính vì vậy: tăng
cường khả năng huy động vốn và sử dụng vốn cho đầu tư phát triển trong các
ngân hàng nói chung và đặc biệt là ngân hàng đầu tư phát triển nói riêng đang
là vấn đề thu hút sự quan tâm nghiên cứu của các nhà làm chính sách, các nhà
quản lý đầu tư và ngân hàng...
Nhận thức được vấn đề này, sau một thời gian thực tập tại ngân hàng đầu
tư phát triển Hà Tây, được tiếp cận với các hoạt động của ngân hàng, em đã
chọn đề tài nghiên cứu với nội dung:
“Một số giải pháp nhằm tăng cường khả năng huy động vốn và sử
dụng vốn cho đầu tư phát triển tại ngân hàng đầu tư phát triển Hà Tây.
Bài viết được chia làm ba phần:
Phần I. Lý luận chung về đầu tư, nguồn vốn đầu tư và hoạt động sử dụng
vốn cho đầu tư phát triển của ngân hàng đầu tư phát triển.
Phần II. Thực trạng và đánh giá thực trạng về huy động vốn và sử dụng
vốn cho đầu tư phát triển tại ngân hàng đầu tư phát triển Hà Tây.
Phần III. Giải pháp và kiến nghị nhằm tăng cường khả năng huy động
vốn và sử dụng vốn cho đầu tư phát triển tại ngân hàng đầu tư phát triển Hà
Tây.
Bài viết sử dụng phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng và vận
dụng phương pháp thống kê - tổng hợp, toán học và đồ thị trong phân tích số
liệu của ngân hàng nhằm làm rõ thực trạng hiệu quả hoạt động huy động và sử
dụng vốn cho đầu tư phát triển tại ngân hàng. Từ đó đưa ra biện pháp tích cực
và những kiến nghị đối với ngân hàng đầu tư phát triển Hà Tây và các cơ quan
ban ngành có liên quan nhằm tăng cường khả năng huy động vốn cho đầu tư
phát triển . Để hoàn thành bài viết này đặc biệt em xin chân thành cảm ơn Thạc
sỹ: Nguyễn Hồng Minh đã tận tình chỉ bảo và hướng dẫn, cùng các thầy cô giáo
và các cán bộ phòng Nguồn vốn kinh doanh Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà
Tây đã giúp đỡ trong quá trình thực hiện.
Hà Nội, ngày tháng năm
Sinh viên thực hiện:
Nguyễn Việt Cường
PHẦN I.
LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN, NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ
VÀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN VÀ SỬ DỤNG VỐN CHO ĐẦU
TƯ PHÁT TRIỂN CỦA NGÂN HÀNG ĐÂÙ TƯ PHÁT TRIỂN.
I. ĐẦU TƯ VÀ NGUỒN VỐN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN:
I. 1.Khái niệm, đặc điểm và vai trò của đầu tư phát triển.
I. 1.1. Khái niệm đầu tư
Thuật ngữ “đầu tư” được hiểu với nghĩa chung nhất là sự bỏ ra, sự hy
sinh những cái gì đó ở hiện tại ( tiền, của cải vật chất, sức lao động, trí tuệ...)
nhằm đạt được các kết quả có lợi cho người đầu tư trong tương lai. Đó có thể là
các mục tiêu kinh tế , xã hội, văn hoá,chính trị...
Đầu tư trên giác độ nền kinh tế là sự hy sinh giá trị hiện tại gắn với việc
tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế. Các hoạt động mua bán, phân phối lại,
chuyển giao tài sản hiện có dữa các cá nhân, các tổ chức, không phải là đầu tư
với nền kinh tế.
Còn trong hoạt động kinh doanh, đầu tư là sự bỏ vốn( tiền, nhân lực,
nguyên liệu, công nghệ vào các hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ nhằm
mục đích thu lợi nhuận. Đây được xem như bản chất cơ bản của các hoạt động
đầu tư. Kinh doanh cần nghiên cứu đầy đủ các khía cạnh khác nhau của hoạt
động đầu tư như : bản chất, đặc điểm, phân loại, vai trò... để có những đối sách
thích hợp đối với các đối tác đầu tư khác nhau.
Mặt khác, có thể hiểu đầu tư là việc đưa ra một khối lượng lớn vốn nhất
định vào qúa trình hoạt động kinh tế nhằm thu được một khối lượng lớn hơn
sau một khoảng thời gian nhất định.
Khái niệm đầu tư còn được hiểu theo quan niệm tái sản xuất mở rộng,
đầu tư thực tế là quá trình chuyển hoá vốn thành các yếu tố cần thiết cho việc
tạo ra năng lực tái sản xuất, tạo ra những yếu tố cơ bản, tiên quyết cho quá trình
sản xuất. Đây là hoạt động mang tính chất thường xuyên của nền kinh tế ...
Với đầu tư phát triển thì đây là hình thức đầu tư quan trọng và chủ yếu.
Loại đầu tư này, người có tiền bỏ tiền ra để xây dựng , sửa chữa nhà cửa và kết
cấu hạ tầng, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ, bồi dưỡng
nguồn nhân lực thực hiện chi phí thường xuyên gắn liền với sự hoạt động của
các tài sản này. Hoạt động đầu tư này nhằm nâng cao năng lực hiện có của các
cơ sở sản xuất hiện có cả về số lượng và chất lượng, tạo ra năng lực sản xuất
mới. Đây là hình thức tái sản xuất mở rộng. Hình thức đầu tư này tạo việc làm
mới, sản phẩm mới và thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Tóm lại, hoạt động đầu tư vốn là quá trình huy động và sử dụng mọi
nguồn vốn phục vụ sản xuất kinh doanh nhằm tạo ra sản phẩm cung cấp dich
vụ đáp ứng nhu cầu cá nhân và xã hội.
I. 1.2. Đặc điểm của đầu tư phát triển:
Đầu tư phát triển có những điểm khác biệt so với đầu tư tài chính và
đầu tư thương mại ở các điểm sau:
Thứ nhất : Tiền, vật tư, lao động cần cho công cuộc đầu tư là rất lớn.
Thứ hai : Thời gian cần thiết cho công cuộc đầu tư dài, do đó vốn ( tiền,
vật tư, lao động ) đầu tư phải nằm khê đọng, không tham gia vào quá trình chu
chuyển kinh tế và vì vậy, trong suốt thời gian này không sinh lời cho nền kinh
tế.
Thứ ba : Thời gian vận hành các kết quả đầu tư cho đến khi thu hồi đủ
lượng vốn đã bỏ ra hoặc thanh lý tài sản do vốn tạo ra cần và có thể thường là
vài năm, có khi hàng chục năm và có nhiều trường hợp là hoạt động vĩnh viễn.
Thứ tư : Nếu thành quả đầu tư là các công trình xây dựng thì nó sẽ được
sử dụng ngay tại nơi nó tạo ra.
Thứ năm : Các kết quả là hiệu quả hoạt động đầu tư chịu ảnh hưởng của
nhiều yếu tố không ổn định trong tự nhiên, trong hoạt động kinh tế xã hội như
các điều kiện địa lý, khí hậu, chính sách, nghiên cứu thị trường và quan hệ quốc
tế. Vì vậy, độ mạo hiểm của loại hình này cao.
Để đảm bảo cho mọi công cuộc đầu tư phát triển đạt hiệu quả kinh tế xã
hội cao, trước khi tiến hành đầu tư phải làm tốt công tác chuẩn bị. Sự chuẩn bị
này thể hiện trong việc soạn thảo các dự án đầu tư và mọi công cuộc đầu tư
phải tiến hành theo dự án.
I.1.3 Vai trò của đầu tư phát triển:
Lý thuyết kế hoạch hoá tập trung và lý thuyết kinh tế thị trường đều coi
đầu tư phát triển là nhân tố quan trọng để phát triển kinh tế, là chìa khoá của sự
tăng trưởng. Nó thể hiện các mặt sau:
Trên giác độ nền kinh tế:
-Đầu tư vừa có tác động đến tổng cung, vừa tác động đến tổng cầu : Đầu
tư là yếu tố chiếm tỷ trong lớn trong tổng cầu của toàn bộ nền kinh tế. Đối với
tổng cầu tác động của đầu tư là ngắn hạn, tổng cung chưa kịp thay đổi, sự tăng
lên của đầu tư làm cho tổng cầu tăng. Khi thành quả của đầu tư phát huy tác
dụng, các năng lực mới đi vào hoạt động thì tổng cung dài hạn tăng lên.
-Đầu tư có tác động hai mặt đến sự ổn định và phát triển kinh tế : Sự tác
động không đồng thời về mặt thời gian của đầu tư đối với tổng cung và tổng
cầu của nền kinh tế làm cho mỗi sự thay đổi của đầu tư, dù là tăng hay giảm
đều cùng một lúc vừa là yếu duy trì sự ổn định vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn định
của nền kinh tế của mỗi quốc gia. Chẳng hạn, khi đầu tư tăng, cần các yếu tố
của đầu tư tăng làm cho giá trị các hàng hoá liên quan tăng đến mức độ nào đó
dẫn đến tình trạng lạm phát. Đến lượt mình lạm phát làm cho sản xuất đình trệ,
đời sống người lao động khó khăn... Mặt khác, tăng đầu tư làm cho cầu các yếu
tố có liên quan tăng, sản xuất của các ngành này phát triển, thu hút thêm lao
động, giảm tệ nạn xã hội. Còn khi giảm đầu tư thì tác động ngược lại với hai
chiều hướng trên.
Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế. Kết quả
nghiên cứu của các nhà kinh tế cho thấy muốn giữ tốc độ tăng trưởng trung
bình thì tỷ lệ đầu tư phải đạt được tù 15-25% so với GDP tuỳ thuộc vào ICOR
của mỗi nước.
ICOR = Vốn đầu tư / Mức tăng GDP.
Từ đó suy ra :
Mức tăng GDP = Vốn đầu tư / ICOR.
Nếu ICOR không đổi, mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đầu
tư.
- Đầu tư tác động đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
Con đường tất yếu có thể tăng trưởng nhanh tốc độ mong muốn là tăng
cường đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển nhanh ở khu vực công nghiệp và dịch
vụ. Vì các ngành nông, lâm, ngư nghiệp bị hạn chế về đất đai và khả năng sinh
học. Do đó chính sách đầu tư quyết định quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở
các quốc gia nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh của toàn bộ nền kinh tế.
Bên cạnh đó đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối về phát
triển giữa các vùng, lãnh thổ, đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình
trạng đói nghèo, phát huy tối đa lợi thế so sánh về tài nguyên, kinh tế, chính
trị...
-Đầu tư tác động tới việc tăng cường khả năng khoa học và công nghệ đất
nước: Công nghệ là trung tâm của công nghiệp hoá và hiện đại hóa đất
nước.Đầu tư là điều kiện tiên quyết của sự phát triển và tăng cường công nghệ
của nước ta hiện nay.
Như chúng ta đã biết có 2 con đường cơ bản để công nghệ là nghiên cứu
phát minh ra công nghệ và nhập công nghệ từ nước ngoài. Dù tự nghiên cứu
hay nhập từ nước ngoài vào cần phải có tiền, cần phải có vốn đầu tư.
Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh và dịch vụ:
Đầu tư quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của mỗi cơ sở. Chẳng
hạn, để tạo dựng cơ sở vật chất- kỹ thuật cho sự ra đời của bất kỳ cơ sở nào đều
cần phải xây dựng nhà xưởng, cấu trúc hạ tầng, mua sắm và lắp đặt thiết bị... và
thực hiện chi phí khác với sự hoạt động trong một chu kỳ của các cơ sở vật
chất, kỹ thuật vừa tạo ra. Các hoạt động này chính là hoạt động đầu tư đối với
các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ đang tồn tại : sau một thời gian hoạt
động, các cơ sở vật chất kỹ thuật của các cơ sở này hao mòn hư hỏng. Để duy
trì hoặc đổi mới cũng có nghĩa là đầu tư.
Như vậy, đầu tư có vai trò rất lớn không chỉ với nền kinh tế mà còn đối
với các cơ sở sản xuất kinh doanh và dịch vụ. Tuy nhiên, khi đầu tư ta thường
đặt câu hỏi : vốn đầu tư lấy từ đâu ra và sử dụng vốn như thế nào ? Có rất nhiều
cách và con đường để có vốn và sử dụng vốn em xin đề cập ở phần sau.
I. 2.Vốn và nguồn vốn đầu tư:
I. 2.1.Nguồn vốn đầu tư:
Trong nền kinh tế mở nguồn vốn đầu tư được hình thành từ 2 nguồn đó là
nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài.
-Nguồn vốn trong nước: đó là nguồn vốn được hình thành và huy động
trong nước nó bao gồm 3 bộ phận: tiết kiệm của nhà nước (Sg), tiết kiệm của
các tổ chức doanh nghiệp ( Sc), tiết kiệm của khu vực dân cư ( Sh).
+ Nguồn vốn từ ngân sách nhà nước: Đó là phần còn lại của thu ngân
sách sau khi đã trừ đi các khoản chi thường xuyên củ nhà nước:
Sg= T - G.
Trong đó:
Sg là tiết kiệm của nhà nước.
T là tổng thu ngân sách nhà nước.
G là các khoản chi thường xuyên của nhà nước.
+Nguồn vốn từ các tổ chức doanh nghiệp: Đó là nguồn vốn được tạo ra
từ các tổ chức doanh nghiệp trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh. Nó
bao gồm lợi nhuận để lại doanh nghiệp ( lợi nhuận sau khi đã trừ đi các khoản
thuế và các khoản phải nộp khác ) và quỹ khấu hao của doanh nghiệp.
Sc = Dp + Pr.
Trong đó : Sc : là tiết kiệm của các doanh nghiệp.
Dp: là quỹ khấu hao của doanh nghiệp.
Pr : là lợi nhuận để lại doanh nghiệp.
+Nguồn vốn từ khu vực dân cư : Đó là nguồn vốn được hình thành từ thu
nhập sau thuế của dân cư sau khi đã trừ đi các khoản chi phí thường xuyên.
Sh = DI - C.
Trong đó :
Sh : là tiết kiệm từ khu vực dân cư.
DI : là thu nhập sau thuế của khu vực dân cư.
C : là chi thường xuyên của khu vực dân cư.
-Nguồn vốn nước ngoài: Bao gồm 2 hình thức chính là vốn đầu tư trực
tiếp và vốn đầu tư gián tiếp.
+ Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI): Đó là nguồn vốn đầu tư của các
tổ chức, cá nhân nước ngoài vào Việt Nam trong đó người bỏ vốn và người sử
dụng vốn là một chủ thể . Hình thức này hình thành các doanh nghiệp liên
doanh, doanh nghiêp 100% vốn nước ngoài và hợp đồng hợp tác kinh doanh.
+ Vốn đầu tư gián tiếp (Ví dụ: ODA): Đó là nguồn viện trợ phát triển
chính thức, là nguồn tài chính mang tính chất hỗ trợ phát triển kinh tế xã hội
của các nước hiện nay các tổ chức tài chính quốc tế cho các nước thuộc thế giới
thứ ba. Trong đó các tổ chức, các quốc gia bỏ vốn không trực tiếp sử dụng vốn
đầu tư . Các hình thức của đầu tư gián tiếp nước ngoài là viện trợ kinh tế không
hoàn lại và viện trợ có hoàn lại với lãi suất ưu đãi.
I.2.2. Vốn và vai trò của vốn đối với sự phát triển kinh tế .
-Vốn đầu tư:
Vốn đầu tư là tiền tích luỹ của xã hội, của các cơ sở sản xuất kinh doanh,
dịch vụ, là tiền tiết kiệm của dân và huy động từ các nguồn khác được đưa vào
sử dụng trong quá trình tái sản xuất xã hội nhằm duy trì tiềm lực sẵn có và tạo
tiềm lực mới cho nền sản xuất xã hội. Vốn đầu tư tạo điều kiện cho sự bắt đầu
hoạt động của các cơ sở vật chất kỹ thuật mới hoặc được đổi mới, nâng cấp
hiện đại hoá đồng thời tạo ra các tài sản lưu động lần đầu tiên gắn liền với các
tài sản cố định mới tạo ra hoặc được đổi mới.
-Vai trò của vốn đầu tư với sự phát triển kinh tế:
Vốn là yếu tố quan trọng nhất trong qúa trình phát triển kinh tế của mỗi
quốc gia.ở Việt nam, để đảm bảo cho nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng và phát
triển đạt 7-8% trong gia đoạn tới, vốn đầu tư là một trong các yếu tố hết sức
quan trọng. Theo tính toán của các nhà kinh tế , nguồn vốn cho đầu tư phát
triển gia đoạn 2001-2005 phải đạt ít nhất 58-59 tỷ USD : trong đó nguồn vốn
trong nước chiếm tỷ trọng 60%, cơ cấu nguồn vốn cho đầu tư phát triển bao
gồm vốn đầu tư từ ngân sách, vốn đầu tư tín dụng, vốn đầu tư của doanh
nghiệp, vốn đầu tư dân cư và vốn đầu tư nước ngoài. Dự tính trong vòng 5 năm
tới vốn của các doanh nghiệp tự đầu tư chiếm tỷ trọng 14-15% tổng số vốn đầu
tư xã hội, chủ yếu đầu tư vào đổi mới công nghệ để nâng cao hiệu quả sản xuất
kinh doanh. Ngoài ra theo tính toán của các nhà kinh tế trong giai đoạn 20012005, đòi hỏi tỷ lệ tiết kiệm nội địa phải đạt đến 25-26% GDP, trong đó tiết
kiệm từ khu vực ngân sách khoảng 6%, tiết kiệm từ khu vực dân cư và doanh
nghiệp là 19-20% GDP.Nguồn vốn huy động từ tiết kiệm trong nước để cho
đầu tư đạt 75% tổng tiết kiệm. Theo kinh nghiệm phát triển của thế giới, các
nước có đạt mức tăng trưởng kinh tế cao đều có mức huy động vốn đầu tư so
với GDP khá lớn. Nói cách khác là đều có tỷ lệ đầu tư phát triển trong GDP lớn
hơn những nước có tốc độ phát triển bình thường và chậm biểu sau đây có thể
minh hoạ ý kiến trên.
Quốc gia
Thời kỳ
Nhật Bản
Singapore
Mỹ
Canada
Thái Lan
1964-73
1965-93
1964-73
1964-74
1964-90
Mức tăng
GDP bình
quân năm %
9,28
8,80
3,95
5,55
7,64
Tỷ lệ đầu tư
phát triển
/GDP%
35,17
38,32
19,18
23,74
25,58
Số năm tăng
tốc độ cao
10
29
10
10
27
Nguồn : Tổng cục thống kê thời báo kinh tế Việt nam.
Theo lý thuyết tăng trưởng kinh tế của Harrad và Domar thì sự phụ thuộc
giữa mức tăng trưởng kinh tế và tỷ lệ vốn đầu tư trên GDP và hiệu quả và sử
dụng vốn được hiểu theo công thức sau:
G x K= I/K trong đó:
G - Tốc độ tăng trưởng / năm.
K - Hệ số ICOR ( vốn tăng thêm, hiệu quả vốn đầu tư).
I/K - Tỷ lệ vốn đầu tư trên GDP.
Như vậy, vốn đầu tư là một nhân tố quan trọng thiết yếu trong quá trình
phát triển kinh tế và nhiệm vụ đặt ra đối với các ngân hàng, các tổ chức tín
dụng là làm thế nào để có thể huy động và sử dụng có hiệu quả được các nguồn
vốn, phục vụ cho đầu tư phát triển kinh tế. Đối với Ngân hàng đầu tư nhiệm vụ
này càng quan trọng và khó khăn hơn vì hoạt động chính của Ngân hàng là huy
động và cho vay các nguồn trung, dài hạn là chủ yếu trong khi ngân hàng vẫn
phải đảm bảo giữa hiệu quả hoạt động kinh doanh của mình và hoạt động đầu
tư phát triển.
I. 3.Vai trò hoạt động huy động vốn và sử dụng vốn cho phát triển kinh tế.
I.3.1. Vai trò của hoạt động huy động vốn:
Như trên đã phân tích vốn đầu tư có ý nghĩa to lớn đối với nền kinh tế,
không những nó tạo ra của cải vật chất cho nền kinh tế, mà còn đưa đất nước
phát triển theo hướng ổn định, cân đối giữa các ngành nghề. Do vậyđể phát
triển kinh tế ta phải có vốn đầu tư, vậy vốn đầu tư lấy ở đâu và lấy bằng cách
nào ? Câu hỏi này đã được trả lời một phần ở trên ( bao gồm vốn đầu tư trong
nước và vốn đầu tư nước ngoài ). Muốn có nguồn vốn này, ta phải huy động.
Mặt khác mỗi doanh nghiệp, tổ chức kinh tế khi thành lập, không phải lúc nào
cũng có đủ vốn để hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong những tình huống
thiếu vốn thì họ phải huy động để đáp ứng nhu cầu này. Tuy nhiên, để có thể
huy động được số vốn mong muốn thì các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế phải
có các chiến lược huy động phù hợp với từng tình huống cụ thể, từng thời kỳ ...
Tóm lại hoạt động huy động vốn là rất quan trọng cho sự phát triển kinh
tế nói chung và đầu tư phát triển nói riêng, nó đẩy nhanh quá trình Công nghiệp
hoá -Hiện đại hoá đất nước, phát triển kinh tế hoà nhập với kinh tế thế giới.
Trong hoạt động huy động này thì hệ thống ngân hàng đóng góp một
phần quan trọng đặc biệt là ngân hàng đầu tư và phát triển ngân hàng với nhiệm
vụ chủ yếu là cung cấp vốn cho vay đầu tư phát triển.
I.3.2 Vai trò của hoạt động sử dụng vốn:
Như đã trình bày ở trên vốn và hoạt động huy động vốn cho sự nghiệp
phát triển kinh tế xã hội đất nước là rất quan trọng. Nhưng một phần cũng
không kém phần quan trọng đó là hoạt động sử dụng vốn huy động này sao cho
có hiệu quả để đảm đem lại lợi ích và hiệu quả cao nhất. Nếu chúng ta sử dụng
vốn hiệu quả thì các nguồn lực dành cho đầu tư xẽ phát huy được tối đa lợi ích
cho chủ đầu tư nói riêng và nền kinh tế nói chung và ngược lại nếu chúng ta sử
dụng vốn đầu tư không hiệu quả thì các kết quả của những đồng vốn mà chúng
ta bỏ ra sẽ không phát huy được tối đa cho nền kinh tế. Để làm được vấn này
đòi hỏi chúng ta phải làm tốt các chiến lược sử dụng vốn cho đầu tư như: quản
lý đầu tư, kế hoạch hoá đầu tư, cũng như các công tác thẩm định dự án và quản
lý dự án đầu tư.
II. NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ TRONG QUÁ TRÌNH HUY ĐỘNG VỐN VÀ SỬ DỤNG
CHO VỐN ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN.
II.1.Vai trò và định hướng của ngân hàng đầu tư trong công cuộc đầu tư
phát triển kinh tế .
II.1.1.Vai trò của ngân hàng đầu tư.
Ngân hàng đầu tư là một thể chế tài chính nhằm thu hút, tập trung các
nguồn vốn trung và dài hạn phục vụ cho đầu tư phát triển nền kinh tế. Mục tiêu
của ngân hàng không phải chỉ là lợi nhuận mà chủ yếu vẫn là :” hiệu quả chung
của toàn bộ nền kinh tế “. Từ những đặc điểm này ngân hàng đầu tư ở Việt
Nam và các ngân hàng đầu tư ở các nước khác có một số nét khác biệt cơ bản
như: Trong hoạt động huy động vốn: Được nhận, vay từ các nguồn tài trợ của
chính phủ, các tổ chức nước ngoài, ngân hàng ĐTTW ... Hoạt động sử dụng
vốn cũng chủ yếu tập trung vào các dự án kinh tế, kỹ thuật có tầm chiến lược,
then chốt của quốc gia, chủ yếu là các lĩnh vực mà tư nhân không đủ sức đầu tư
như: Giao thông, năng lượng, xây dựng thông tin...
Vấn đề đặt ra là ngân hàng đầu tư có nên thụ động dựa vào các nguồn tài
trợ từ ngân sách và các tổ chức quốc tế hay chủ động mở rộng hoạt động tìm
cách tạo nguồn vốn cho mình. Ngoài ra, trong hoạt động sủ dụng vốn ngân
hàng đầu tư cần phải chủ động nâng cao nghiệp vụ, sức cạnh tranh và uy tín để
thực hiện chiến lược phục vụ cho đầu tư phát triển nền kinh tế ngày càng hiệu
quả hơn.
II.1.2. Định hướng của ngân hàng đầu tư:
- Đối với việc huy động vốn cho đầu tư phát triển:
Ngân hàng đầu tư và phát triển chủ trương coi khâu tạo vốn là khâu mở
đường, tạo ra một nguồn vốn vững chắc cả VNĐ và ngoại tệ, Đa dạng các hình
thức, biện pháp, các kênh huy động từ mọi nguồn và xác định “ nguồn vốn
trong nước là quyết định, nguồn vốn nước ngoài là quan trọng ”. Với định
hướng không ngừng tăng tỷ trọng nguồn vốn trung và dài hạn để phục vụ đầu
tư phát triển. Thông qua huy động dưới các hình thức phát hành trái phiếu, kỳ
phiếu và tiền tiết kiệm có thời hạn dài. Mặt khác, tiếp tục tăng trưởng nguồn
tiền gửi có kỳ hạn của các tổ chức kinh tế, khai thác triệt để nguồn vốn nước
ngoài thông qua chức năng ngân hàng đại lý, Ngân hàng phục vụ để tiếp nhận
ngày càng nhiều vốn từ các nguồn tài trợ, cộng tác đầu tư từ các quỹ, các tổ
chức quốc tế, các chính phủ và phi chính phủ cho đầu tư phát triển.
- Đối với hoạt động sử dụng vốn cho đầu tư phát triển:
Ngân hàng đầu tư phát triển coi việc phục vụ trong sự nghiệp đầu tư phát
triển là một định hướng chính thể hiện vai trò ngân hàng đầu tư của mình.
Trong hoạt động cho vay đầu tư ngân hàng chú trọng quá trình tìm chọn dự án
hiệu quả, thực hiện tốt công tác thẩm định và quản lý dự án sau khi cho vay
cũng như thực hiện công tác tư vấn đầu tư giúp các chủ đầu tư hoạt động tốt
nhằm đảm bảo nguồn vốn cho vay của Ngân hàng.
Như vậy định hướng nhìn chung rất rõ ràng, cái khó hiện nay là các bước
đi và giải pháp cụ thể . Để có được những giải pháp hữu hiệu cần phải có sự
nghiên cứu hệ thống hoá có lý luận cũng như kinh nghiệm thực tiễn qua nhiều
năm để phục vụ tốt hơn cho đầu tư phát triển.
II.2. Hoạt động huy động vốn cho đầu tư phát triển ở Ngân hàng đầu tư
phát triển.
II. 2.1.Sự cần thiết của công tác huy động vốn ở Ngân hàng đầu tư & phát
triển.
Huy động vốn là một trong những hoạt động chủ chốt của Ngân hàng
đảm bảo cho ngân hàng có thể tồn tại và thực hiện chức năng của một trung
gian tài chính trong nền kinh tế, bởi chức năng hoạt động chủ yếu của ngân
hàng là “ đi vay để cho vay ”. Như chúng ta đã biết, một ngân hàng muốn thành
lập phải có đủ vốn ban đầu nhất định do ngân hàng nhà nước quy định. Nhưng
số vốn tự có chiếm khoảng 10% vốn hoạt động. Do vậy huy động vốn là điều
kiện cần cho hoạt động của ngân hàng.
Đối với ngân hàng đầu tư kể từ khi thực hiện chức năng như một ngân
hàng thương mại hoạt động chủ yếu phục vụ trong lĩnh vực đầu tư phát triển thì
để có vốn cho vay các dự án đầu tư đòi hỏi Ngân hàng phải huy động được
vốn. Phần vốn tự có của Ngân hàng chỉ đảm bảo năng lực pháp lý và năng lực
thị trường cho hoạt động huy động vốn của Ngân hàng. Pháp lệnh ngân hàng
quy định một ngân hàng được phép huy động một lượng vốn tối đa bằng 20 lần
vốn tự có của mình.
II.2.2. Các nguồn vốn ở Ngân hàng đầu tư & phát triển cho đầu tư phát
triển :
Nguồn vốn huy động của NH bao gồm : Ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.
Ngân hàng để có thể đóng góp vào hoạt động đầu tư phát triển thì lượng vốn
huy động đòi hỏi phải là vốn trung và dài hạn (hay có thời hạn trên 1 năm).
Nguồn vốn ngắn hạn chỉ có vai trò là vốn lưu động đảm bảo các khoản cho vay
ngắn hạn, và chỉ được dùng một phần nhỏ để cho vay dài hạn khi lượng vốn
ngắn hạn đủ lớn và ổn định.
Theo quan điểm của các nhà kinh tế thì các nguồn vốn sau đây ở
Ngân hàng mới có đóng góp chính vào đầu tư phát triển.
+Các khoản tiền tiết kiệm và tiền gửi có thời hạn đến 1 năm.
+Các kỳ phiếu, trái phiếu có thời hạn dài, phát hành trên thị trường trong
nước và quốc tế.
+Các khoản đi vay trung hạn và dài hạn của các tổ chức tín dụng trong
nước và nước ngoài.
+Các khoản thu nợ của các dự án cũ.
+ Một phần huy động ngắn hạn có thể cho vay trung và dài hạn.
+ Các khoản thu nhập dành cho cho vay đầu tư phát triển khác(lợi
nhuận,tiền thu bảo lãnh...)
Như vậy trên cơ sở các nguồn vốn này để Ngân hàng đầu tư có thể huy
động được vốn cho đầu tư phát triển ta phải có được những giải pháp để phát
triển các nguồn vốn này.
II.2.3.Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả công tác huy động vốn cho đầu tư
phát triển của Ngân hàng.
Nhằm đánh giá hiệu quả huy động vốn cho đầu tư phát triển( chủ yếu là
vốn trung và dài hạn ) tại Ngân hàng thì cần có các chỉ tiêu. Sau đây là các chỉ
tiêu chính phản ánh hiệu quả công tác này:
Chỉ tiêu 1. Khối lượng vốn lớn, tăng trưởng ổn định:
-Vốn huy động cho đầu tư ( chủ yếu là trung và dài hạn ) có sự tăng
trưởng ổn định về mặt số lượng. Nguồn vốn tăng đều qua các năm ( vốn năm
sau lớn hơn vốn năm trước ), thoả mãn nhu cầu tín dụng đầu tư.
-Tuy nhiên, nguồn vốn này phải ổn định về mặt thời gian ( đảm bảo tránh
rủi ro về mặt thời gian ) .Nếu ngân hàng huy động được một lượng vốn lớn cho
đầu tư nhưng không ổn định thường xuyên, khối lượng vốn dành cho đầu tư,
cho vay sẽ không lớn nhi đó ngân hàng thường xuyên đối đầu với vấn đề thanh
toán, ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng. Do đó, hiệu quả huy động vốn
sẽ không cao.
Chỉ tiêu 2. Chi phí huy động:
Chi phí huy động được đánh giá qua chỉ tiêu lãi suất huy động bình quân,
lãi suất huy động từng nguồn, chênh lệch lãi suất đầu vào đầu ra, đồng thời
cũng thông qua chi phí phát hành. Nếu ngân hàng giảm chi phí huy động bằng
cách hạ lãi suất huy động thì việc huy động vốn sẽ rất khó khăn. Do vậy khó có
thể thực hiện. Ngược lại nếu lãi suất huy động càng cao thì lãi suất cho vay
càng cao gây khó khăn cho người vay tiền và có thể gây ứ đọng vốn cho Ngân
hàng, khi đó ngân hàng cần phải trả lãi cho người gửi tiền trong khi khoản vốn
ứ đọng không sinh lãi.
Vì vậy ngoài việc tăng giảm lãi suất để có lợi cho người gửi tiền và
người vay tiền có thể giảm chi phí khác như : Chi phí in ấn phát hành, chi phí
quảng cáo, tiếp thị, trả lương cán bộ huy động, thuê địa điểm huy động ...
Chỉ tiêu 3 : Khả năng đáp ứng nhu cầu hoạt động kinh doanh của Ngân
hàng.
Chỉ tiêu này được đánh giá qua việc so sánh nguồn vốn huy động và nhu
cầu vay vốn vốn đầu tư phát triển ( chủ yếu là vốn trung dài hạn ) và các nhu
cầu khác. Từ đó xác định nguồn vốn có thể huy động được là bao nhiêu và
nguồn vốn cần phải huy động thêm là bao nhiêu để đáp ứng nhu cầu đó.
Để đạt đựơc mục tiêu này, Ngân hàng phải đặt ra cơ cấu huy động vốn
trung và dài hạn một cách hợp lý ( kỳ phiếu bao nhiêu ? trái phiếu lấy bao
nhiêu?... ).
Để đáp ứng nhu cầu sử dụng vốn đồng thời cũng đảm bảo cho ngân hàng
huy động được nguồn vốn này với chi phí thấp nhất có thể.
* Chỉ tiêu khác : Ngoài các chỉ tiêu trên hiệu quả công tác huy động vốn
cho đầu tư phát triển ở NH đầu tư còn được phản ánh qua các chỉ tiêu sau:
-Thời gian, mệnh giá huy động vốn cho đầu tư hợp lý.
-Mức độ thuận tiện cho khách hàng : Đánh giá qua các thủ tục nhận tiền
và làm các dịch vụ kèm theo.
-Thời gian hoàn thành số lượng vốn so với quy định.
-Số vốn bị rút trước hạn, hệ số sử dụng vốn.
Tóm lại, khi đánh giá hiệu quả công tác huy động vốn nói chung và huy
động vốn cho đầu tư phát triển nói riêng thì một chỉ tiêu không thể phản ánh
đầy đủ mà phải kết hợp nhiều chỉ tiêu đánh giá đúng hiệu quả sử dụng vốn.
II.2.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến tình hình huy động vốn.
II.2.4.1.Nhân tố chủ quan:
- Các hình thức huy động vốn: Đây là một trong những nhân tố quan trọng
ảnh hưởng đến tình hình huy động vốn của ngân hàng. Hình thức huy động
vốn của ngân hàng càng phong phú thì khả năng đáp ứng nhu cầu gửi tiền
của dân cư xẽ tăng và vốn ngân hàng huy động được xẽ nhiều hơn.
- Chính sách lãi xuất cạnh tranh: lãi suất là yếu tố quan trọng khiến hành động
gửi tiền của dân chúng và ngân hàng, hay gửi từ ngân hàng này sang ngân
hàng khác hoặc chuyển từ tiết kiệm sang đầu tư do vậy lãi suất có ảnh
hưởng rất lớn đến huy động vốn của ngân hàng.
- Chính sách khách hàng: Nếu ngân hàng có chính sách khách hàng tốt thì
khách hàng xẽ gửi tiền vào ngân hàng xẽ càng cao và ngược lại.
Công tác cân đối dữa huy động và cho vay: Chiến lược sử dụng vốn
đúng đắn và phù hợp còn phù thuộc vào chiến lược sử dụng vốn nếu sử dụng
vốn không hiệu quả thì ngân hàng cũng xẽ hạn chế khả năng huy động vốnvà
ngược lại.
- Công nghệ ngân hàng: Trong cạnh tranh NH không ngừng cải tiến công
nghệ, bởi lẽ các dịch vụ đặc biệt về chuyên môn NH xẽ đa dạng đổi mới
ngày càng tốt hơn đáp ứng nhu câù khách hàng.
- Chính sách cán bộ: Một đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn được đặt
đúng chỗ , luôn tạo nền tảng thành công của một tổ chức. Nói chung người
ta muốn giao dịch kinh doanh với một hãng có bề dày kinh nghiệm và có
đội ngũ cán bộ công nhân viên lịch thiệp và tận tình.
- Chính sách quảng cáo: Không thể phủ nhận vai trò to lớn của ngành quảng
cáo hiện nay. Ngân hàng nếu làm tốt công tác nay thì có khả năng huy động
được nhiều vốn hơn.
II.2.4.2. Nhân tố khách quan:
- Nhân tố tiết kiệm của nền kinh tế: Nguồn vốn huy động của ngân hàng chủ
yếu là nguồn vốn của dân cư, tổ chức kinh tế, ... do vậy nếu các đơn vị này
có tỷ lệ tiết kiệm cao thì nguồn vốn huy động được xẽ cao.
- Nhân tố thu nhập của dân cư: Nếu thu nhập của dân cư càng cao thì khả
năng có thể tiết kiệm càng cao và khi đó họ có tiền gửi vào các tổ chức tài
chính và mua các giấy tờ có giá sẽ càng cao và ngược lại.
- Nhân tố tâm lí tiêu dùng: Tiết kiệm và tiêu dùng là hai nhân tố đối lập nhau
nên tiêu dùng tăng thì tiết kiêm giảm và ngược lại . Do vậy nếu tâm lí thích
tiêu dùng của dân cư tăng thì tiền gửi vào ngân hàng xẽ giảm.
- Môi trường pháp lí: Nếu môi trường pháp lí ổn định cụ thể là cơ sở pháp lí
cho hoạt động của ngân hàng dược đảm bảo thì người dân xẽ an tâm gửi tiền
vào ngân hàng...
II.3.Hoạt động sử dụng vốn cho đầu tư phát triển của Ngân hàng đầu tư
phát triển.
II.3.1.Vai trò của hoạt động sử dụng vốn cho đầu tư phát triển của Ngân
hàng đầu tư phát triển.
Trong điều kiện nền kinh tế đang gặp phải nhiều vấn đề khó khăn như về
vốn cho đầu tư của các dự án và các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh
doanh cũng như nâng cao chất lượng của sử dụng vốn đối với các dự án và sử
dụng vốn đầu tư của các doanh ngiệp đang đòi hỏi cấp bách. Để cung cấp vốn
cho các dự án này và các doanh nghiệp thì ngân hàng đầu tư có một vai trò
quan trọng trong việc cung cấp vốn cho các đơn vị này nhằm đáp ứng nhu cầu
vốn cho các dự án và các doanh nghiệp mặt khác hoạt động sử dụng vốn của
ngân hàng cũng giúp cho bản thân ngân hàng có thể hoạt động được bởi hoạt
động của ngân hàng là đi vay để cho vay.
Tóm lại, hoạt động sử dụng vốn của ngân hàng có vai trò quan trọng
trong việc cung cáp vốn cho đầu tư phát triển của nền kinh tế mặt khác hoạt
động sử dụng vốn của ngân hàng cũng góp phàn cho việc hoạt động của các
doanh nghiệp và các dự án đầu tư hiệu quả hơn bởi khi tài trợ vốn cho các
doanh nghiệp và các dự án ngân hàng đã thực hiện rất kĩ khâu thẩm định, quản
lí vốn vay để đảm bảo cho dự án hoạt động hiệu quả.
II.3.2 Các loại hình cho vay và đặc điểm của hoạt động của hoạt động
cho vay vốn dầu tư phát triển của Ngân hàng đầu tư.
II.3.2.1 Các loại hình cho vay của NH.
Ngân hàng có thể cho vay dưới nhiều hình thức khác nhau sau đây:
* Theo mục đích sử dụng :
-Cho vay bất động tài sản.
-Cho vay công nghiệp và thương nghiệp.
-Cho vay nông nghiệp.
-Cho vay tiêu dùng.
* Theo mức độ tín nhiệm của khách hàng :
-Cho vay có bảo đảm.
-Cho vay không bảo đảm.
* Theo thời hạn cho vay.
-Cho vay ngắn hạn : Là loại cho vay có thời hạn dưới một năm, thường
được dùng để cho vay bổ sung thiếu hụt tạm thời về vốn lưu động của các
doanh nghiệp và cho vay phục vụ nhu cầu sinh hoạt tiêu dùng cá nhân.
-Cho vay trung hạn: Là loại hình cho vay có thời hạn trên 1 năm và dưới
5 năm. Loại cho vay này thường được dùng để mua sắm tài sản cố định, mở
rộng hoặc xây dựng công trình nhỏ.
-Cho vay dài hạn: Là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm được sử dụng
để cấp vốn xây dựng cơ bản, cải tiến và mở rộng sản xuất có quy mô lớn.
Đối với đầu tư phát triển thì hoạt động cho vay trung hạn và dài hạn mới
có tác dụng chủ yếu. Do vậy để tăng cường khả năng sử dụng vốn cho đầu tư
phát triển chủ yếu quan tâm đến 2 nguồn này.
II. 3.2.2 Đặc điểm khác biệt của hoạt động cho vay vốn đầu tư phát triển
so với cho vay ngắn hạn.
Sự khác biệt của hoạt động cho vay đầu tư với cho vay ngắn hạn được
thể hiện qua các đặc điểm sau:
-Về thời hạn cho vay : Cho vay ngắn hạn có thời hạn dưới 1 năm, cho
vay đầu tư thường có thời hạn dài hơn ít nhất là trên 1 năm.
-Về độ rủi ro : Với thời hạn cho vay dài hạn nên hoạt động cho vay đầu
tư có độ rủi ro cao hơn cho vay ngắn hạn.
-Về lãi suất: Do thời gian vay dài độ rủi ro của hoạt dộng cho vay đầu tư
có độ rủi ro cao hơn nên lãi suất của hoạt động cho vay đầu tư cao hơn lãi suất
cho vay ngắn hạn.
-Về mục đích: Hoạt động cho vay đầu tư dùng để đầu tư mở rộng sản
suất mua sắm trang thiết bị, xây dựng cơ sở hạ tầng... nói khác hơn là để đầu tư
vào những dự án chưa thể sinh lời trong thời gian ngắn. Còn mục đích của vay
ngắn hạn là để phục vụ chỉ tiêu, mua nguyên vật liệu, trả lương...tức là đáp ứng
nhu cầu thanh toán ngắn hạn.
-Nguồn trả nợ : Nguồn trả nợ của hoạt động cho vay đầu tư là nguồn từ
khấu hao và lợi nhuận để dành trước khi bước vào giai đoạn lạc hậu về công
nghệ. Còn nguồn để trả nợ cho vay ngắn hạn là nguồn từ vốn lưu động.
II.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động cho vay vốn đầu tư phát
triển.
II. 3.3.1. Nhân tố chủ quan:
Trong thực tế quá trình hoạt động của Ngân hàng, chúng ta thấy trong
cùng một thời gian, cùng một thị trường nhưng có những ngân hàng chất lượng
cao tổn thất ít. Nhưng cũng có những ngân hàng gặp nhiều khó khăn, tổn thất
cho vay lớn. Như vậy nhân tố cơ bản quyết định đến chất lượng cho vay chủ
yếu ngay bên trong ngân hàng. Chúng ta xem xét một số nhân tố chủ yếu sau:
a.Công tác thẩm định dự án vay vốn đầu tư phát triển:
Ngân hàng với tư cách “ bà đỡ “ về mặt tài chính cho các doanh nghiệp
và dự án đầu tư, thường xuyên thực hiện công tác thẩm định để ngoài việc đánh
giá hiệu quả dự án còn nhằm đảm bảo cho sự an toàn cho các nguồn vốn ngân
hàng tài trợ cho doanh nghiệp và các dự án.
Thẩm định là một khâu quan trọng nhất trong quy trình cho các dự án
đầu tư của Ngân hàng. Làm tốt công tác thẩm định sẽ góp phần quyết định
trong việc nâng cao hiệu quả vốn vay, giảm rủi ro của ngân hàng, góp phần
thúc đẩy sản suất phát triển.
Thật vậy, công tác thẩm định chính là xem xét, đánh giá các yếu tố về tư
cách pháp lý của người vay, năng lực tài chính của người vay, và xem xét tính
khả thi của dự án vay vốn. Qua đó ngân hàng có được những nét cơ bản về
khách hàng vay vốn và dự án vay vốn từ đó có được các kết quả để quyết định
cho vay và nâng cao được hiệu quả vay vốn...
Có thể khái quát công tác thẩm định dự án vay vốn đầu tư phát triển của
ngân hàng đầu tư và phát triển tập trung vào các vấn đề như sau:
* Ngân hàng thẩm định tư cách pháp lí của đơn vị vay vốn.
Người vay có đủ năng lực pháp lí theo quy định trong quan hệ vay
vốn của ngân hàng hay không.
Người vay có thuộc đối tượng vay vốn theo quy định hiện hành
của các chế độ, thể lệ cho vay không.
học vấn...
Tư cách của người đứng ra vay vốn: Khả năng quản lí, trình độ
Uy tín của đơn vị vay vốn : Chất lượng, giá cả hàng hoá, khả năng
chiếm lĩnh thị trường của sản phẩm trên thị trường, các quan hệ kinh tế tài
chính, vay vốn, trả nợ với khách hàng, bạn hàng và các ngân hàng.
* Tình hình tài chính của doanh nghiệp vay vốn:
Đánh giá chính xác về tình hình tài chính doanh nghiệp của đơn vị vay
vốn nhằm xác định sức mạnh tài chính. Khả năng độc lập, tự chủ tài chính
trong kinh doanh, khả năng thanh toán và khả năng trả nợ của người vay. Trong
phân tích tài chính doanh người ta thường áp dụng phương pháp tỷ lệ bởi ưu
điểm của nó là.
+ Việc tính toán các chỉ tiêu là tương đối dễ dàng, có thể lập trình cho
máy tính để tính một loạt các chỉ tiêu một cách nhanh chóng qua đó rút ngắn
thời gian thẩm định tình hình tài chính doanh nghiệp.
+ Các chỉ tiêu có thể được tính theo từng năm hoặc từng giai đoạn. Do đó
nó có thể so sánh đối chiếu với nhau để thấy được sự thay đổi theo chiều hướng
tích cực hay tiêu cực cũng như su hướng trong tương lai.
+ Phương pháp này chủ yếu dựa trên các báo cáo tài chính, Đây là nguồn
thông tin sẵn có mà hầu như tất cả các doanh nghiệp đều có. Nếu các báo cáo
tài chính có độ chính xác cao thì thì kết quả tính toán theo phương pháp này có
thể chấp nhận được.
Tuy vậy phương pháp này đòi hỏi phải đề ra các ngưỡng, các định mức
làm cơ sở để so sánh các giá trị tỷ lệ tính được của doanh nghiệp làm tham
chiếu. Các tỷ lệ dùng để tính toán thường là 4 nhóm chỉ tiêu sau.
Tỷ lệ khả năng thanh toán các nghĩa vụ tài chính: Đây là nhóm chỉ
tiêu được sử dụng để đánh giá khả năng đáp ứng các khoản nợ của doanh
nghiệp.
+ Tỷ lệ thanh toán hiện hành: Cho biết khả năng thanh toán của các
khoản nợ thường xuyên.
Tài sản lưu động
Khả năng thanh toán hiện hành =
Nợ ngắn hạn.
( Hệ số này nên lớn hơn hoặc bằng 1)
Tài sản lưu động có
+ Tỷ lệ:
Tài sản lưu động nợ
Thông thường tỷ lệ này bằng 2/1 hoặc 4/1 thì đảm bảo tính khả thi.
- Tỷ lệ khả năng cân vốn: Đo lường phần vốn góp của chủ sở hữu doanh
nghiệp.
+ Tỷ lệ nợ trong tổng tài sản : Xác định nghĩa vụ của chủ sở hữu doanh
nghiệp đối với chủ nợ trong việc góp vốn vào dự án.
Tổng số nợ
Hệ số nợ =
Tổng tài sản
Đây là tỷ lệ mà ngân hàng rất quan tâm vì tỷ lệ nợ cao thì khả năng thanh
toán của doanh nghiệp sẽ gảm sút . Thông thường tỷ lệ nợ này không quá 50%.
+ Tổng tài sản nợ trên tổng vốn sở hữu: Xác định khả năng trả nợ của
doanh nghiệp bằng vốn chủ sở hữu.
- Tỷ lệ khả năng hoạt động: Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của các đơn vị vay
vốn.
+ Hiệu xuất sử dụng tài sản cố định: Cho biết một đồng tài sản cố định
đem lại bao nhiêu đồng doanh thu( Tài sản cố định tính theo giá còn lại tại thời
điểm báo cáo)
Tổng doanh thu của doanh nghiệp
Hiệu suất sử dụng tài sản cố định =
Giá trị tài sản cố định
+ Hiệu suất sử dụng tổng tài sản: Cho biết một đồng tài sản đem lại bao
nhiêu đồng doanh thu:
Doanh thu tiêu thụ
Doanh thu tiêu thụ sản phẩm =
Tổng tài sản
Tỷ lệ khả năng sinh lãi: Phản ánh hiệu quả quản lí xản suất kinh
doanh và khả năng tiêu thụ sản xuất kinh doanh và hiệu năng quản lý của
doanh nghiệp.
+ Khả năng sinh lời của tài sản.
+ Doanh lợi thu từ sản phẩm = Lợi nhuận sau thuế / Doanh thu tiêu thụ.
+ Tỷ suất sinh lợi vốn đầu tư = Lợi nhuận trước thuế và lãi( hoặc lợi
nhuận sau thuế) / Tổng tài sản.
+ Doanh lợi vốn tự có = Lợi nhuận sau thuế / Vốn tự có
* Tính pháp lí của dự án.
+ Dự án có phù hợp với mục tiêu phát triển và có được pháp luật cho
phép không.
+ Về quản lý dự án có thể thực hiện được không.
+ Về mặt môi trường có hợp lí không...
* Các chỉ tiêu hiệu quả tài chính của dự án.
Một dự án làm ăn không hiệu quả, rủi ro lớn thì khả năng hoàn trả lại
món nợ cho ngân hàng là rất khó khăn. Chất lượng của hoạt động cho vay vốn
các dự án đầu tư phụ thuộc rất nhiều vào các chỉ tiêu hiệu quả tài chính của dự
án. Việc đánh giá các chỉ tiêu hiệu quả tài chính dự án xét trên quan điểm ngân
hàng xem xét trên các chỉ tiêu sau:
Chỉ tiêu thu nhập thuần(NPV): Dùng để đánh giá quy mô lợi ích của
dự án. Thường tính tổng thu nhập thuần về mặt bằng hiện tại hoặc mặt
bằng tương lai. Chỉ tiêu này đánh giá quy mô lợi nhuận của dự án.
n
NPV
i 1
Bi Ci
(1 r ) i
Bi : Thu nhập năm i của dự án:
Ci : Chi phí năm i của dự án:
Sử dụng: - NPV được dùng để đánh giá hiệu quả của một dự á, dự án
được chấp nhận khi NPV> 0.
- Trong so sánh dự án đầu tư: Đối với dự án độc lập thì dự án
được chọn là dự án có NPV>0. Còn đối với nhiều dự án lựa cho chọn dự
ns có NPV max trong trường hợp dự án có tuổi thọ và đời dự án là như
nhau.
Hạn chế: Chỉ tiêu này không thấy được lợi ích từ một đồng vốn bỏ ra
và nó phụ thuộc rất lớn vào tỷ suất triết khấu.
- Chỉ tiêu thời gian thu hồi vốn(T): Thời gian thu hồi vốn là thời gian
mà dự án cần hoạt động để thu hồi đủ vốn bỏ ra. Thường ưu tiên cho
những dự án có thời gian thu hồi vốn ngắn nếu các yếu tố khác như
nhau. Chỉ tiêu này được xem xét trên hai góc độ:
+ Thời gian thu hồi vốn đầu tư từ lợi nhuân thuần:
Theo phương pháp cộng dồn:
T
W
I 0
iPV
I v 0
Lợi nhuận hàng năm của dự
Chỉ tiêu doanh lợi vốn = án
x 100%
Doanh thu hàng năm của dự
án.
Chỉ tiêu này càng lớn thì khả năng sinh lợi của dự án càng cao.
Điểm hoà vốn: Khả năng sinh lời và mức độ hoạt động an toàn của
các dự án thường được diễn đạt bằng việc phân tích điểm hoà vốn. Trị số của
- Xem thêm -