BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
CAO TIẾN SỸ
PHẢN BIỆN CHÍNH SÁCH CÔNG
Ở VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN CÁC TỈNH
MIỀN TRUNG, TÂY NGUYÊN
LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH CÔNG
HÀ NỘI - 2019
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ NỘI VỤ
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
CAO TIẾN SỸ
PHẢN BIỆN CHÍNH SÁCH CÔNG
Ở VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN CÁC TỈNH
MIỀN TRUNG, TÂY NGUYÊN
Chuyên ngành : Quản lý hành chính công
Mã số
: 62 34 82 01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH CÔNG
Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS Nguyễn Hữu Hải
2. TS. Trần Trọng Đức
HÀ NỘI - 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận
án là trung thực. Những kết luận khoa học của
luận án chưa từng được ai công bố trong bất
kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Cao Tiến Sỹ
MỤC LỤC
Trang
1
MỞ ĐẦU
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VỀ PHẢN BIỆN
CHÍNH SÁCH CÔNG
7
1.1.
Các công trình nghiên cứu về phản biện xã hội
7
1.2.
Các công trình nghiên cứu về phản biện chính sách công
19
1.3.
Những kết quả nghiên cứu đã đạt được
33
1.4.
Những vấn đề đặt ra cần được nghiên cứu làm sáng tỏ trong luận án
37
Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHẢN BIỆN CHÍNH SÁCH CÔNG
39
2.1.
Khái niệm phản biện xã hội và phản biện chính sách công
39
2.2.
Tính tất yếu khách quan của phản biện chính sách công
50
2.3.
Vai trò của phản biện chính sách công
63
2.4.
Quy trình, hình thức, công cụ và nguyên tắc phản biện chính sách công
67
2.5.
Các yếu tố ảnh hưởng và điều kiện đảm bảo chất lượng, hiệu quả
phản biện chính sách công
74
Chương 3: THỰC TRẠNG PHẢN BIỆN CHÍNH SÁCH CÔNG TẠI CÁC
TỈNH THUỘC KHU VỰC MIỀN TRUNG, TÂY NGUYÊN
3.1.
82
Khái quát chung về kinh tế - xã hội các tỉnh thuộc khu vực miền
Trung, Tây Nguyên
82
3.2.
Thực trạng khung pháp lý về phản biện chính sách công
84
3.3.
Hoạt động phản biện chính sách công tại các tỉnh thuộc khu vực
miền Trung, Tây Nguyên
3.4.
Thực trạng về quy mô, phạm vi, hình thức, công cụ và quy trình vận
hành hoạt động phản biện chính sách công tại khu vực
3.5.
93
105
Những vấn đề đặt ra đối với phản biện chính sách công ở Việt Nam
hiện nay từ thực tiễn khu vực miền Trung, Tây Nguyên
125
Chương 4: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG PHẢN BIỆN CHÍNH
SÁCH CÔNG Ở VIỆT NAM
4.1.
Quan điểm định hướng nâng cao chất lượng phản biện chính sách công
140
140
4.2.
Giải pháp nâng cao chất lượng phản biện chính sách công
133
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
161
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
166
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
167
PHỤ LỤC
174
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
HĐND
: Hội đồng nhân dân
KH&CN
: Khoa học và công nghệ
KH&KT
: Khoa học và kỹ thuật
MTTQ
: Mặt trận Tổ quốc
MTTQVN : Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
PBCSC
: Phản biện chính sách công
PBXH
: Phản biện xã hội
UBND
: Ủy ban nhân dân
UBTVQH
: Ủy ban Thường vụ Quốc hội
VBQPPL
: Văn bản quy phạm pháp luật
XHDS
: Xã hội dân sự
XHCN
: Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
Tên bảng
Trang
bảng
1.1
Đặc trưng của tham gia công dân
26
2.1
Thang bậc tham gia công dân
56
2.2
Sự tham gia của công dân, NGOs trong chu trình chính sách ở
62
châu Âu
2.3
Khung khổ lựa chọn hình thức tham vấn, phản biện chính sách
69
2.4
Tham vấn công của NGOs trong tiến trình chính sách
70
2.5
Các cấp độ, hình thức và công cụ trong phản biện chính sách
73
DANH MỤC CÁC HÌNH
Số hiệu
Tên hình
Trang
hình
1.1
Tam giác sắt (Iron Triangle)
21
1.2
Cụm quyền lực (Power Clusters)
22
2.1
Thang bậc tham gia công dân (Ladder of Citizen Participation)
55
2.2
Cấp độ tham gia
57
2.3
Chu trình chính sách công
59
2.4
Quy trình phản biện chính sách công
67
2.5
Quan hệ giữa tổ chức XHDS và nhà nước
78
3.1
Mô hình hoạch định chính sách công theo đa số
110
3.2
Các bước xây dựng và thực hiện chính sách
113
3.3
Mô hình chi tiết quy trình phản biện gián tiếp
116
3.4
Phản biện trực tiếp của nhân dân trong quy trình chính sách
120
3.5
Mô hình chi tiết quy trình phản biện trực tiếp
123
4.1
Quy trình chung
140
4.2
Yêu cầu phản biện trong các bước chính sách
141
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của luận án
Chính sách công là công cụ định hướng quá trình phát triển kinh tế, xã hội
của nhà nước; hệ thống chính sách của một quốc gia có hợp lý hay không sẽ quyết
định đến sự phát triển hay suy thoái của cả nền kinh tế hoặc của từng vùng, từng địa
phương. Để có được những chính sách tốt, bên cạnh chủ trương, đường lối đúng thì
việc huy động sự tham gia, đóng góp của cộng đồng vào quá trình chính sách được
xem là giải pháp tích cực giúp hạn chế ý chí chủ quan, lợi ích nhóm trong hoạch
định chính sách. Đồng thời, tạo nên sự đồng thuận xã hội về mục tiêu, biện pháp
thực thi và chuẩn bị về tư tưởng, dư luận xã hội ủng hộ cho việc triển khai chính
sách. Giúp phát hiện những điểm mù chính sách và là căn cứ thực tiễn để đo lường,
đánh giá chính sách; phát huy dân chủ, tạo điều kiện để nhân dân tham gia tích cực
hơn vào hoạt động quản lý nhà nước.
Trên thực tế, công tác xây dựng và thực thi chính sách công ở nước ta
những năm qua còn những hạn chế như: xác định mục tiêu, biện pháp chính sách
chưa sâu sát với tình hình thực tiễn; việc huy động trí tuệ, nguồn lực xã hội vào quá
trình xây dựng và thực thi chính sách chưa cao, nhất là việc thu hút trí tuệ, nguồn
lực của nhân dân vào hoạch định, thực thi chính sách còn chưa được coi trọng.
Những bất cập này đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng và hiệu quả của
các chính sách công cũng như các mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội.
Một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến hạn chế trên trên là hoạt động
tham vấn, phản biện xã hội (PBXH) đối với quá trình xây dựng và thực thi chính
sách của các cấp chính quyền chưa được đặt đúng tầm mức; thiếu cơ chế, biện pháp
thích hợp để tạo nên sự thống nhất cao trong xã hội. Hoạt động phản biện chính
sách còn bó hẹp trong các tổ chức thuộc hệ thống chính trị, thiếu sự tham gia tích
cực của người dân. Thực tế cho thấy những chính sách nào có sự tham vấn, PBXH
rộng rãi, công khai, dân chủ đều tạo được sự đồng thuận và mang tính khả thi cao.
Phản biện chính sách công (PBCSC) là hoạt động PBXH của công dân và
tổ chức xã hội dân sự (XHDS) đối với toàn bộ quá trình hoạch định và thực thi
chính sách công của nhà nước, từ bước khởi sự đến quy phạm hóa chính sách thành
2
văn bản pháp lý, tổ chức thực hiện, đánh giá và kết thúc chu trình chính sách. Năng
lực phản biện của xã hội và hiệu quả PBCSC tỷ lệ thuận với chất lượng chính sách.
Không thể có chính sách tốt nếu thiếu sự tham gia phản biện tích cực và hiệu quả
của người dân trong toàn bộ quá trình chính sách. Tiến trình cải cách nền hành
chính nhà nước theo hướng trong sạch, vững mạnh, hiệu lực và hiệu quả tất yếu dẫn
đến việc mở rộng sự tham gia của người dân vào công việc của chính quyền. Thực
hiện phản biện đối với quá trình hoạch định và thực thi chính sách công sẽ nâng cao
tính minh bạch và trách nhiệm giải trình của nền hành chính, xây dựng nền hành
chính công thực sự của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Nghiên cứu về PBCSC đã tồn tại và phát triển từ lâu trên thế giới. Có nhiều
hướng tiếp cận vấn đề này: từ phía khoa học chính trị, khoa học pháp lý, khoa học
chính sách, khoa học hành chính, xã hội học... Với nhiều kinh nghiệm, thành tựu có
thể vận dụng vào thực tiễn nước ta. Song do tính đặc thù của chính sách công ở mỗi
quốc gia nên không thể máy móc, áp đặt mô hình, phương thức tổ chức hoạt động
phản biện chính sách một cách khiên cưỡng, mà phải xuất phát từ những giá trị
chung, phổ quát nhất của hoạt động phản biện chính sách và tổng kết thực tiễn để
xây dựng mô hình, cơ chế phù hợp với điều kiện của đất nước.
Hoạt động nghiên cứu về PBCSC ở nước ta cũng còn khá mới mẻ, kết quả
nghiên cứu còn hết sức khiêm tốn và cũng chỉ tập trung trên một vài khía cạnh,
phương diện nhất định. Thực tiễn xây dựng, thực thi chính sách công ở nước ta hiện
nay đòi hỏi phải có những nghiên cứu chuyên sâu về PBCSC nhằm cung cấp cơ sở
khoa học cho yêu cầu nâng cao chất lượng xây dựng, thực thi và quản lý, đổi mới
chính sách. Từ những lý do trên, nghiên cứu sinh chọn đề tài nghiên cứu "Phản
biện chính sách công từ thực tiễn các tỉnh Miền trung, Tây nguyên" cho luận án
khoa học của mình với mong muốn đóng góp thêm về lý luận và thực tiễn cho hoạt
động PBCSC ở Việt Nam.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích
Mục đích của đề tài luận án là luận giải một cách khoa học về PBCSC;
đánh giá thực trạng PBCSC ở nước ta; đề xuất hệ thống giải pháp đổi mới phương
thức PBCSC hiện nay nhằm nâng cao chất lượng PBCSC ở Việt Nam. Qua đó nâng
3
cao chất lượng, hiệu quả xây dựng và thực thi chính sách trong hoạt động quản lý
hành chính công ở nước ta.
2.2. Nhiệm vụ
Khái quát tình hình nghiên cứu về PBCSC trong và ngoài nước, từ đó chỉ ra
những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu trong đề tài luận án.
Hệ thống hóa lý luận về PBCSC, bổ sung lý luận cho hoạt động PBCSC ở
nước ta.
Phân tích, đánh giá tình hình thực tiễn về hoạt động PBCSC ở Việt Nam nói
chung, các tỉnh thuộc miền Trung, Tây Nguyên nói riêng để tìm kiếm những
nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng phản biện chính sách ở nước ta.
Đề xuất đổi mới quy trình PBCSC và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng,
hiệu quả hoạt động phản biện chính sách ở nước ta trong thời gian tới.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài luận án được xác định là hoạt động
PBCSC của các chủ thể: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (MTTQVN), Liên hiệp các hội
khoa học và kỹ thuật (KH&KT) Việt Nam tại một số tỉnh, thành phố thuộc khu vực
miền Trung, Tây Nguyên; hoạt động PBCSC của người dân trong khu vực.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung nghiên cứu
Nghiên cứu về nội dung, hình thức, phương pháp và các điều kiện đảm bảo
cho hoạt động PBCSC, cụ thể:
Nghiên cứu các lý thuyết, tư tưởng, mô hình PBCSC trên thế giới, hoạt
động PBCSC tại một số quốc gia tiêu biểu.
Nghiên cứu nội dung hoạt động PBCSC ở Việt Nam, bao gồm: Hệ thống
quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về chính sách công và PBCSC. Quy
định pháp luật Việt Nam về PBXH, PBCSC. Nghiên cứu về chủ thể, quy trình,
phương thức tổ chức PBCSC hiện nay.
- Phạm vi không gian
Ngoài nước: Nghiên cứu hoạt động PBCSC của các quốc gia Hoa Kỳ, Canada,
Vương quốc Anh, Trung Quốc, Hàn Quốc, Xing-ga-po.
4
Trong nước: Nghiên cứu hoạt động PBCSC của MTTQVN, Liên hiệp các
hội KH&KT Việt Nam và người dân tại 06 tỉnh thuộc khu vực miền Trung, Tây
Nguyên (trong đó: 2 tỉnh Tây Nguyên là Kon Tum và Gia Lai; 4 tỉnh, thành phố
miền trung là Quảng trị, Đà Nẵng, Phú Yên và Bình Định). Nghiên cứu xã hội học
hoạt động tham vấn, phản biện chính sách của người dân tại 6 địa phương trên.
- Phạm vi thời gian
Các hoạt động PBCSC trong nước từ năm 2010 đến nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận
Đề tài dựa trên phương phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử; căn cứ vào nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh; quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) của nhân dân, do nhân dân và vì nhân
dân để tiếp cận vấn đề nghiên cứu. Theo đó, môi trường kinh tế, văn hóa, xã hội;
dân trí, nguồn nhân lực, đội ngũ trí thức; thể chế chính trị, pháp lý, hành chính;
công nghệ và phương thức giao tiếp xã hội; quy mô, chất lượng, năng lực tham gia
của công dân, các tổ chức xã hội; phương thức xây dựng và thực thi chính sách
công sẽ quyết định nội dung, quy mô, hình thức, phương pháp, chất lượng và mức
độ tham gia PBCSC của công dân và tổ chức xã hội. Việc nghiên cứu, làm rõ các
yếu tố này trên bình diện lý luận sẽ định hình cơ sở khoa học, khung lý thuyết cho
việc triển khai nghiên cứu thực tiễn của đề tài. Nghiên cứu thực tiễn sẽ chỉ ra
khoảng trống lý luận, những tồn tại, bất cập của hệ thống tổ chức thực hiện PBCSC,
những rào cản, hạn chế đối với hoạt động này. Trên cơ sở đó, đề xuất bổ sung lý
luận, các giải pháp đổi mới về thể chế quản lý; nội dung, mô hình, hình thức,
phương pháp PBCSC, đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn.
4.2. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể
Nghiên cứu lý thuyết, sử dụng phương pháp thống kê để tập hợp, phân
loại thông tin, tư liệu về hoạt động PBCSC ở nước ngoài và trong nước để hình
thành các tài liệu sơ cấp của luận án. Sử dụng phương pháp so sánh, phân tích
định tính và định lượng để nghiên cứu bản chất vấn đề, hình thành các tài liệu thứ
cấp. Sử dụng công cụ phân tích SWOT để đánh giá thực trạng, mặt mạnh, mặt yếu
5
trong hoạt động PBCSC ở Việt Nam, tổng hợp hóa và rút ra các kết luận, kiểm
định lý thuyết.
Nghiên cứu thực địa, sử dụng 600 phiếu điều tra xã hội học để thu thập
thông tin tại 06 địa bàn nghiên cứu, bao gồm các nhóm đối tượng: cán bộ, công
chức, viên chức và người lao động; độ tuổi từ 30-60, trình độ học vấn từ cấp III trở
lên. Sau đó sử dụng: Lược đồ thông tin thu thập để phân loại, hệ thống hóa thông
tin, sử dụng phần mềm SPSS để thống kê, xử lý số liệu thu thập được.
Dựa trên các kết quả này, sử dụng phương pháp trừu tượng hóa, mô hình
hóa để nhận diện, xác lập chủ thể, mô hình, cơ chế PBCSC tại Việt Nam và phát
hiện lý luận.
5. Giả thuyết khoa học của luận án
Phản biện chính sách công là hình thức kiểm soát quyền lực nhà nước bằng
trí tuệ xã hội và là thành tố của quá trình xây dựng, thực thi chính sách công. Đồng
thời là một hình thức tham gia công phổ biến trong mọi nền hành chính công trên thế
giới. Thực hiện tốt phản biện chính sách sẽ giúp minh bạch hóa, nâng cao chất lượng,
hiệu quả chính sách và thúc đẩy sự tham gia tích cực của nhân dân vào hoạt động quản
lý nhà nước, quản trị xã hội. Đảm bảo sự cân bằng giữa xã hội, nền kinh tế thị trường
và nhà nước, cũng như sự cân bằng nội tại của hệ thống chính sách công. PBCSC ở
Việt Nam hiện nay còn nhiều hạn chế như: Khung pháp lý chưa đầy đủ và kém hiệu
quả. Năng lực phản biện của các chủ thể, cơ chế hoạt động còn nhiều bất cập; cơ
chế tiếp nhận và xử lý thông tin phản biện chính sách chưa được pháp lý hóa một
cách rõ ràng, đồng bộ. Thiếu quy trình PBCSC hợp lý, rõ ràng, có tính xã hội cao làm
cơ sở huy động có hiệu quả sự tham gia của người dân vào hoạt động chính sách.
Các điều kiện đảm bảo chất lượng, hiệu quả cho PBCSC chưa đáp ứng được yêu cầu.
Từ thực tiễn trên, yêu cầu đặt ra là phải nghiên cứu thực trạng các vấn đề cơ
bản của PBCSC: Cơ sở lý luận, khung pháp lý, năng lực chủ thể, hệ thống tổ chức
và hoạt động; nội dung, hình thức, quy trình, phương pháp phản biện; các yếu tố
ảnh hưởng và điều kiện đảm bảo của PBCSC ở nước ta nhằm trả lời các câu hỏi:
Tiền đề lý luận và thực tiễn của PBCSC ở Việt Nam là gì? Vai trò của nó trong xây
dựng, thực thi chính sách công; trong việc xây dựng nền hành chính nhà nước phục
vụ, trong sạch và hiện đại? Phản biện chính sách ở nước ta nên tổ chức như thế nào?
6
Mô hình, quy trình, hình thức và phương pháp phản biện chính sách nào phù hợp
với thực tiễn Việt Nam? Các yếu tố ảnh hưởng và điều kiện đảm bảo? Làm rõ các
vấn đề trên sẽ cung cấp luận cứ khoa học và thực tiễn cho việc xây dựng quy trình
PBCSC phù hợp, đổi mới cơ chế hoạt động phản biện chính sách, nâng cao năng lực
phản biện của các chủ thể. Nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của hoạt động
chính sách nói riêng và quản lý hành chính công nói chung.
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận án
Là công trình nghiên cứu chuyên sâu về PBCSC, luận án có những điểm
mới sau:
Hoàn thiện cơ sở lý luận về PBCSC: Luận chứng vai trò, ý nghĩa, tác dụng
của PBCSC trong kiểm soát quyền lực nhà nước; thực hành quyền dân chủ của nhân
dân trong xây dựng và thực thi chính sách công với tư cách là một hình thức tham
gia PBCSC.
Làm rõ đặc điểm, nội dung, hình thức, mô hình quy trình PBCSC ở Việt Nam.
Đề xuất đổi mới quy trình phản biện chính sách, các giải pháp nâng cao
chất lượng, hiệu quả hoạt động PBCSC trong điều kiện hiện nay.
Kết quả nghiên cứu sẽ bổ sung cho hệ thống lý thuyết về PBCSC. Cung cấp
những luận cứ thiết thực cho công tác tổ chức, quản lý hoạt động phản biện chính
sách; công tác xây dựng và thực thi chính sách ở Việt Nam. Đây cũng là tài liệu
tham khảo đối với các nhà nghiên cứu, giảng dạy, sinh viên của các cơ sở đào tạo về
khoa học chính sách công và các chủ thể PBCSC trong xã hội.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung của luận án gồm 4 chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu về phản biện chính sách công.
Chương 2: Cơ sở lý luận về phản biện chính sách công.
Chương 3: Thực trạng phản biện chính sách công tại các tỉnh thuộc khu vực
miền Trung, Tây Nguyên.
Chương 4: Giải pháp nâng cao chất lượng phản biện chính sách công ở Việt Nam.
7
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
VỀ PHẢN BIỆN CHÍNH SÁCH CÔNG
1.1. Các công trình nghiên cứu về phản biện xã hội
1.1.1. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài
Thể chế quản lý trong các nền hành chính công hiện đại luôn hướng đến
đảm bảo sự hài hòa giữa vai trò của nhà nước và xã hội. Sự tham gia của người dân
vào hoạt động của nhà nước được khuyến khích nhằm gia tăng sự kiểm soát quyền
lực nhà nước từ bên ngoài và tranh thủ tối đa sự hỗ trợ của xã hội đối với hoạt động
của chính quyền. Công dân được xem là một chủ thể bình đẳng trong hoạt động
tham gia công, có quyền bày tỏ quan điểm, lợi ích, chính kiến và tham gia quyết
định các vấn đề quản lý nhà nước theo nguyên tắc đa số và hợp hiến. Trên quan
điểm cho rằng người bị ảnh hưởng bởi quyết định có quyền được tham gia vào quá
trình ra quyết định. Sự tham gia của người dân được coi như một cách để trao quyền
và là một phần quan trọng của quản trị dân chủ, dựa trên nguyên tắc xem con người
là trung tâm của quá trình phát triển. Trước bối cảnh của sự bùng nổ xã hội tri thức
trong hơn nửa thế kỷ qua, việc mở rộng hoạt động tham gia, phản biện của nhân dân
đối với nhà nước cũng chính là phương pháp để quản lý các dòng tri thức xã hội, sự
dụng hiệu quả trí tuệ tập thể của cộng đồng vào phát triển kinh tế - xã hội. PBXH thuộc tính của xã hội dân chủ, được xem là một nguyên tắc chính trị thực hành và
được thực hiện rộng rãi trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Bản chất của nó là
việc áp dụng tư duy phê phán được tổ chức khoa học vào việc đánh giá các hoạt
động của nhà nước. Đồng thời cũng là một trong những quyền và nghĩa vụ cơ bản
của công dân và là một nội dung quan trọng của hoạt động tham gia công dân
(public citizens participation). Trên thế giới, các công trình nghiên cứu về bản chất,
vai trò, giá trị và thực hành PBXH đã có từ rất sớm.
Một trong những công trình nghiên cứu đặt nền móng cho việc nhận thức
giá trị của phản biện và vận dụng nó vào thực tiễn xã hội là tác phẩm "Chúng ta suy
nghĩ như thế nào" (How We Think) của John Dewey (xem Phụ lục 38), xuất bản
năm 1910 tại Boston, Hoa Kỳ. Nghiên cứu này trình bày về quan hệ giữa tư duy
8
phản biện với quá trình giáo dục con người và phát triển xã hội, được trình bày thành
3 chương: Chương 1: Những vấn đề của rèn luyện tư duy (The problem of training
thought), Chương 2: Xem xét sự hợp lý (Logical considerations), Chương 3: Rèn
luyện tư duy (The training of thought). Tác giả dành phần lớn chương 1 để giải thích
về tư duy phản biện, luận chứng giá trị và ý nghĩa của nó. Trên cơ sở đó, các chương
sau bàn về việc áp dụng tư duy phản biện vào giáo dục và hoạt động thực tiễn xã hội
nhằm xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, phát triển và vận động hợp quy luật.
Tại chương 1 của cuốn sách này, John Dewey đã lần đầu tiên đưa ra khái niệm "tư
duy phản biện " (Reflective thought) là: "là sự suy xét chủ động, kiên trì và cẩn thận
về một niềm tin hay một giả định khoa học dưới ánh sáng của những căn cứ bảo vệ
nó và những kết luận xa hơn mà nó hướng tới, tạo thành tư duy phản biện…là một
nỗ lực có ý thức và tự nguyện để thiết lập niềm tin vào một cơ sở có lý do vững
chắc" (…Active, persistent, and careful consideration of any belief or supposed
form of knowledge in the light of the grounds that support it, and the further
conclusions to which it tends, constitutes reflective thought…it is a conscious and
voluntary effort to establish belief upon a firm basis of reasons) [89, tr. 6]. Theo tác
giả, tư duy phản biện chính là khởi đầu của nhận thức chân chính, đó chính là quá
trình suy xét cẩn trọng, bằng sự đối chiếu, so sánh, có bằng chứng xác thực để
khẳng định một vấn đề là đúng hay sai. Sự dội lại (Reflection) của tư duy không
phải là quá trình phản ánh hiện thực đơn thuần vào nhận thức mà là quá trình tự
nghi vấn, phê phán, đánh giá một cách khoa học từ nhiều góc độ khác nhau đối với
hiện thực nhằm thẩm định và chứng minh niềm tin, chân lý là đúng đắn. Mục đích
của phản biện không phải là kiến thức mà là niềm tin vào thực tế hoặc sự thật (…do
not aim at knowledge, at belief about facts or in truths) [89, tr. 4]. Quá trình này sẽ
diễn ra theo hai hướng, chấp nhận hay từ chối vấn đề nào đó vì những lý do để nó
có thể hoặc không thể xảy ra (It is marked by acceptance or rejection of something
as reasonably probable or improbable) [89, tr. 4]. Việc phản biện để xây dựng niềm
tin không phải dựa trên những thứ mà chủ thể có, nó phải dựa trên nền tảng là những
bằng chứng xác thực như: chứng cớ, vật chứng, sự xác nhận và chứng minh (Reflection
thus implies that something is believed in (or disbelieved in), not on its own direct
account, but through something else which stands as witness, evidence, proof, voucher,
9
warrant; that is, as ground of belief) [89, tr. 9]. Mục tiêu mà sự phản biện hướng đến là
khám phá thực trạng để phục vụ cho mục đích của chủ thể (reflection is aimed at
the discovery of facts that will serve this purpose) [89, tr. 11]. Tư duy phản biện vì
thế, là phương pháp nhận thức tự nguyện, có giá trị dân chủ cao nhất trong việc tìm
kiếm sự thật, khẳng định chân lý và xây dựng niềm tin. Quan điểm về tư duy phản
biện của John Dewey từ khi ra đời đã được ủng hộ mạnh mẽ và áp dụng rộng rãi
trong toàn bộ nền giáo dục quốc dân Hoa Kỳ, đóng góp lớn vào việc xây dựng nền
dân trị của đất nước này, rồi nhanh chóng được truyền bá trên toàn thế giới. Có thể
nói tư tưởng của John Dewey về tư duy phản biện nhằm xây dựng một nền giáo dục
nhân bản, dân chủ và khoa học đã vượt ra ngoài lãnh địa của triết học giáo dục và trở
thành nền tảng phương pháp của nhận thức đối với các vấn đề trong xã hội hiện đại.
Tư tưởng về tư duy phản biện (Reflective thinking) của John Dewey được
nghiên cứu, phát triển và áp dụng rộng rãi không chỉ trong lĩnh vực giáo dục và
khoa học, công nghệ mà cả trong lĩnh vực quản trị xã hội, quản lý nhà nước và xây
dựng, thực thi chính sách công trong suốt hơn một thế kỷ qua ở nhiều nước trên thế
giới. Nó thường được định danh bằng khái niệm tư duy phê phán (Critical thinking),
có thể kể ra một số công trình nghiên cứu tiêu biểu như: "Lý thuyết phê phán và đời
sống công cộng" (Critical theory and Public Life), John Forester (1987). Publichsed
by MIT Press, USA; "Tư duy phê phán: Định nghĩa và đánh giá" (Critical
Thinking: Its Definition and Assessment), Fisher, Alec and Scriven, Michael.
(1997), Center for Research in Critical Thinking (UK) / Edgepress (USA); "Phê
bình lý luận: Hiểu và phê phán lập luận và lý thuyết" (Critical Reasoning:
Understanding and criticizing arguments and theories), Cederblom, J & Paulsen,
D.W. (2006), 6th edn. (Belmont, CA, Thomson Wadsworth); "Tư duy phê phán:
Giới thiệu về lý luận" (Critical Thinking: An Introduction to Reasoning), Dauer,
Francis Watanabe (1989); "Tư duy phê phán như phép biện chứng: Cách tiếp cận
của Hegelian-Marxist" (Critical Thinking as Dialectics: A Hegelian-Marxist
Approach), Pavlidis, Periklis (2010), Journal for Critical Education Policy
Studies.Vol.8(2); "Tư duy phê phán" (Critical Thinking), Moore, Brooke Noel and
Parker, Richard. (2012), 10th ed. Published by McGraw-Hill… Hầu hết các công
trình nghiên cứu đều đánh giá rất cao giá trị thực tiễn của tư duy phản biện trong
10
các lĩnh vực đời sống xã hội, như là con đường phát triển biện chứng để phát huy
năng lực bản chất người; thúc đẩy xã hội phát triển ngày càng bình đẳng, cởi mở,
năng động, dân chủ và tự do.
Tại châu Âu, hai nhà tư tưởng được cho là có ảnh hưởng lớn nhất đến sự
phát triển của trào lưu phản biện và đối thoại xã hội là Michel Foucault (xem Phụ
lục 39) và Jacques Derrida (xem Phụ lục 40). Nguyên là những người cộng sản, chịu
ảnh hưởng sâu sắc của chủ nghĩa Marx, hai ông đã phát triển nguyên lý biện chứng
của chủ nghĩa Marx trong lý thuyết phê phán các thể chế xã hội. Lý thuyết của
Michel Foucault giải quyết các mối quan hệ giữa quyền lực và kiến thức và cách
chúng được sử dụng như một hình thức kiểm soát xã hội thông qua các tổ chức xã
hội. Tư tưởng, các bài viết của ông về quyền lực, tri thức và diễn ngôn có ảnh
hưởng rộng lớn trong xã hội hiện đại. Nội dung chủ đạo, xuyên suốt trong các tác
phẩm của Foucault là sự hình thành, phát triển, tha hóa của quyền lực và con đường
sử dụng tri thức để chống lại sự tha hóa của quyền lực, giải cấu trúc quyền lực nhằm
đạt đến bình đẳng và tự do chân chính cho con người. Tư tưởng này thể hiện chủ
yếu trong những công trình tiêu biểu của ông như: "Chủ thể và quyền lực" (The
Subjct and Power), "Kỷ luật và trừng phạt" (Discipline and Punish).
Trong tác phẩm "Chủ thể và quyền lực", Foucault khẳng định quyền lực
không phải là một thực thể cố định mà là mối quan hệ tương tác giữa quyền lực
thống trị (dominant power) và quyền lực phản kháng (resistant power). "Quyền lực
không phải là một thể chế, hay một cấu trúc; cũng không phải là sức mạnh thiên
bẩm; nó là cái tên được gắn cho một hoàn cảnh chiến lược phức tạp trong một xã
hội cụ thể" (Power is not an institution, and not a structure; neither is it a certain
strength we are endowed with; it is the name that one attributes to a complex
strategical situation in a particular society) [84, tr. 208]. Trong đó, quyền lực phản
kháng như là một bản năng sinh tồn nguyên thủy, nó phái sinh ra quyền lực thống
trị với tư cách là một sản phẩm xã hội, quyền lực thống trị sinh ra để kìm nén mọi
sự phản kháng. Trên thực tế, con người luôn chống lại những hạn chế để được tự
do, nhưng khi đoạt được tự do, nó lại tạo ra các luật lệ mang tính chuyên chế để hạn
chế tự do của kẻ khác. Tức là tự nó kiến tạo nên quyền lực thống trị, đây là nghịch lí
được tạo ra bởi sự tha hóa của quyền lực trong sự vận động của lịch sử.
11
Khi đã giữ vai trò trung tâm, quyền lực thống trị sẽ tìm cách triệt tiêu mọi
sự phản pháng để giữ vị trí độc tôn của mình. Nó áp đặt một trật tự chặt chẽ được
mệnh danh là tri thức. Công cụ để vận hành guồng máy tri thức - trật tự ấy không gì
hơn là hệ thống nhà tù, các loại kỷ luật và hình phạt nghiêm khắc. Con người bị coi
là các sinh vật trừu tượng hơn là con người đúng nghĩa ở thể xác lẫn tinh thần và
được định hướng trở thành bầy đàn răm rắp tuân theo trật tự đã được kiến tạo.
Trật tự ấy được xây dựng thành đạo đức, văn hóa, pháp luật và thể hiện
bằng ngôn ngữ. Do đó, trò chơi quyền lực gắn liền với trò chơi ngôn ngữ và con
người khi đã rơi vào cái bẫy ngôn ngữ, những chuẩn mực xã hội của nó sẽ trở thành
nơi giam hãm nhân tính, khát vọng tự do, bình đẳng của chính con người. Đạo đức,
văn hóa và luật lệ trở thành cái thay thế, cái đại diện (present) của quyền lực mà các
thể chế độc quyền đã kiến tạo nên để thống trị con người.
Khi đạt được trạng thái chuẩn mực của thứ trật tự như thế, quyền lực thống
trị không cần hiện hữu bằng bạo lực như roi vọt, dùi cui hay súng đạn mà nó hoàn
toàn vắng mặt (absent). Vì nó đã hiện hữu ở mỗi cá thể người thông qua sự sợ hãi
để tuân theo trật tự như một thói quen, một phản xạ vô điều kiện. M.Foucault ví sự
tuân phục ấy giống như một sự cài đặt, một lập trình được cài đặt sẵn vào trong não
bộ của từng cá nhân, như một thứ máy truyền tin được điều khiển bằng một hệ điều
hành siêu quyền lực. Ở cấp độ này, con người tự kiểm duyệt hành động và ngôn
ngữ của mình mà không cần bị kiểm duyệt. Từ đó, con người với tư cách là chủ thể
của hành động và ngôn ngữ của mình nhưng lại trở thành công cụ của ngôn ngữ và
trật tự được áp đặt. Những thứ ấy biến con người thành đối tượng của chúng, sai
khiến chúng ta hành động mà chúng ta lại nhầm tưởng rằng đang điều khiển nó.
Con người trở thành con người nô dịch, con người không tiếng nói, hoàn toàn bị
cầm tù và bị điều khiển trong luật lệ, nhưng cái quán tính tự động tuân phục làm
cho chúng ta cảm thấy tự do. Tư duy của chúng ta thay vì chứa đựng sự năng động,
những giá trị tự do, bình đẳng đích thực của bản chất người lại chứa đầy những hình
ảnh của roi vọt, xiềng xích và các loại hình phạt đại điện cho quyền lực nói chung
và mọi hoạt động của chúng ta đều bị chúng điều khiển cho đến chết. Cái chết của
con người bắt đầu bằng cái chết của chủ thể, nó mất tiếng nói để trở thành cái loa
phát ngôn và chiếc máy hành động cho kẻ nắm quyền thống trị.
12
Trong tác phẩm: "Tội ác và trừng phạt" (Discipline and Punish), M.Foucault
lý giải rằng những hành động trấn áp bằng bạo lực, nhà tù, bệnh viện tâm thần... là
những điển hình của điều khiển học ứng dụng trên con người thông qua kỉ luật và
hình phạt, là mô hình thu nhỏ của xã hội mạo danh văn hóa, văn minh. Trong xã hội
ấy, một trung tâm của quyền lực được hình thành như một kiến tạo, điều hành mọi
thứ tuân thủ theo trật tự đã được hợp thức và thừa nhận, còn những cái khác biệt,
trái chiều bị xem là sự nổi loạn và trở thành "Cái Khác" (The Other), bị cho là bên
lề, vô phép tắc, hạ đẳng và bị loại trừ. Lịch sử như một cỗ máy được tự động hình
thành như vậy và nó chỉ thay thế trung tâm quyền lực này bằng trung tâm quyền lực
khác mà thôi. Trong đó, kỷ luật và hình phạt là hình thức để duy trì quyền lực.
Tuy nhiên, không có quyền lực nào là tuyệt đối đến mức buộc tất cả đều hội
tụ quanh nó. Có những lực lượng đông đảo khác, hoặc có thể bị hút vào trung tâm
thành một thứ cố định, phục tùng; hoặc sẽ li tâm, di chuyển ra ngoại biên để phục
sinh quyền lực nguyên thủy - quyền lực của sự phản kháng. Trong bối cảnh xã hội
chưa thoát khỏi sự cám dỗ của quyền lực, thì phản kháng là tất yếu của tồn - tại người, một cách thức tồn tại của chủ thể sáng tạo, phát minh. Sự phản kháng là một
phần tất yếu của sự quân bình. "Bạn thấy đấy, nếu không có sự phản kháng, sẽ
không có những quan hệ quyền lực, bởi vì nó đơn giản chỉ là vấn đề của sự tuân
phục. Vì thế, sự phản kháng có trước, và sự phản kháng duy trì thế thượng phong
đối với những lực lượng của một tiến trình: những mối quan hệ quyền lực bị bắt
buộc phải thay đổi theo sự phản kháng" [83, tr. 234]. Quyền lực đẻ ra quyền lực như
một tất yếu, quyền lực duy nhất hay tuyệt đối chỉ là ảo tưởng, giống như người ta
từng tự tạo ra Thượng đế cho mình để đe dọa kẻ khác. Không có quyền lực vĩnh
viễn, nó là nhất thời bởi nguyên lí biện chứng của quá trình hủy - tạo và cũng không
có thiết chế cấm kị nào đặc hiệu cho mọi thời đại. Sự nô dịch chỉ tồn tại nhất thời,
dù có kéo dài hàng ngàn năm, cho đến khi các cấm kị bị mang ra chất vấn, phản
biện như một nhu cầu tự do, giải phóng thì thói quen công cụ của con người sẽ dần
biến mất và từ đó mỗi cá nhân tự đứng lên làm chủ đời mình. Vì thế, "giải thiêng",
"giải huyền", "giải cấu trúc quyền lực" trong nghĩa tích cực của nó, chính là sự phản
tỉnh để thoát khỏi trạng thái cam chịu, tuân phục mù quáng, đột phá vào hệ thống
quyền lực thống trị đã được tuyệt đối hóa thành tri thức, ngôn ngữ, luật pháp, đạo
- Xem thêm -