LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình
nghiên cứu của riêng tác giả. Các số liệu,
trích dẫn trong luận án là trung thực, có
xuất xứ rõ ràng.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Phạm Ngọc Nhân
MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI
Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN
NGUỒN LỰC SĨ QUAN TRẺ NGÀNH HẬU CẦN
QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM
1.1.
Quan niệm, vai trò của nguồn lực sĩ quan trẻ ngành Hậu
cần Quân đội nhân dân Việt Nam
1.2.
Quan niệm, nội dung và những vấn đề có tính quy luật
phát triển nguồn lực sĩ quan trẻ ngành Hậu cần Quân đội
nhân dân Việt Nam
Chương 2 THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC SĨ QUAN
Trang
5
11
28
28
52
TRẺ NGÀNH HẬU CẦN QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT
NAM HIỆN NAY
Những thành tựu, hạn chế phát triển nguồn lực sĩ quan trẻ
ngành Hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay
2.2.
Nguyên nhân thành tựu, hạn chế và một số vấn đề đặt ra
đối với phát triển nguồn lực sĩ quan trẻ ngành Hậu cần
Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay
Chương 3 DỰ BÁO CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG, YÊU CẦU
VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN PHÁT TRIỂN NGUỒN
LỰC SĨ QUAN TRẺ NGÀNH HẬU CẦN QUÂN ĐỘI
NHÂN DÂN VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1.
Dự báo các nhân tố tác động và yêu cầu phát triển nguồn
lực sĩ quan trẻ ngành Hậu cần Quân đội nhân dân Việt
Nam hiện nay
3.2.
Giải pháp cơ bản phát triển nguồn lực sĩ quan trẻ ngành Hậu
cần Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC
GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐỀN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
72
2.1.
72
93
115
115
129
167
171
173
185
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
TT CHỮ VIẾT ĐẦY ĐỦ
CHỮ VIẾT TẮT
01
Bộ Quốc phòng
BQP
02
Chủ nghĩa xã hội
CNXH
03
Đảng Cộng sản Việt Nam
ĐCSVN
04
Nhà xuất bản
Nxb
05
Quân đội nhân dân Việt Nam
QĐNDVN
06
Quân ủy Trung ương
QUTƯ
07
Xã hội chủ nghĩa
XHCN
5
MỞ ĐẦU
1. Giới thiệu khái quát về luận án
Đề tài luận án:“Phát triển nguồn lực sĩ quan trẻ ngành Hậu cần Quân đội
nhân dân Việt Nam hiện nay” tiếp cận dưới góc độ triết học chính trị - xã hội.
Đây là một công trình khoa học mới, không trùng lặp với các công trình khoa
học đã được công bố. Trên cơ sở nghiên cứu của các công trình khoa học về
nguồn lực con người và phát triển nguồn lực con người, được sự giúp đỡ của các
chuyên gia, các nhà khoa học cùng với những kinh nghiệm mà bản thân đã được
tích luỹ trong hoạt động quân sự; tác giả đã đi sâu vào tìm tòi, nghiên cứu các tài
liệu về ngành Hậu cần Quân đội nhân dân Việt Nam, về công tác đào tạo, bồi
dưỡng sĩ quan hậu cần quân đội. Đó thực sự là những thuận lợi cơ bản cho phép
tác giả triển khai nghiên cứu đề tài này.
Đề tài luận án góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận, thực tiễn phát triển nguồn
lực sĩ quan trẻ ngành Hậu cần QĐNDVN; dự báo những nhân tố tác động và đề
xuất một số yêu cầu, giải pháp cơ bản phát triển nguồn lực sĩ quan trẻ ngành Hậu
cần QĐNDVN hiện nay. Kết quả nghiên cứu của luận án có thể đem lại giá trị
hữu ích, phục vụ trực tiếp cho hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ hậu cần
QĐNDVN hiện nay; đồng thời cung cấp thêm các luận cứ khoa học để lãnh đạo,
chỉ huy các cấp trong quân đội xây dựng và triển khai thực hiện tốt các nội dung,
hình thức, biện pháp phát triển nguồn lực sĩ quan trẻ ngành Hậu cần QĐNDVN,
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ công tác hậu cần quân đội trong tình hình mới.
2. Lý do lựa chọn đề tài luận án
Nhân loại đang ở những thập niên đầu thế kỷ XXI, đã chứng kiến những
bước tiến diệu kỳ của khoa học - công nghệ với những đóng góp vô cùng to lớn
cho nền sản xuất vật chất xã hội. Song không phải vì lẽ đó mà chúng ta có thể phủ
nhận vai trò của nguồn lực con người đối với sự phát triển của mỗi quốc gia, dân
tộc. Thực tiễn đã chỉ ra rằng, tài nguyên thiên nhiên là cái hữu hạn, dù giàu có
nhưng khai thác mãi cũng cạn kiệt; nguồn vốn tư bản không phải quốc gia nào
cũng phong phú, chỉ có nguồn lực con người mới ngày càng trở lên bất tận. Hơn
nữa, bản thân nguồn lực tự nhiên và các nguồn lực khác tự nó không thể tham gia
6
vào các quá trình phát triển kinh tế - xã hội nếu không có nguồn lực con người tác
động đến. Nhận thức sâu sắc vấn đề đó, Đảng ta nhấn mạnh: “Phát triển và nâng
cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột
phá chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học,
công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế...” [30, tr.130]. Theo đó, nguồn lực con người
chính là nguồn lực nội sinh, quyết định đến việc thắng lợi mục tiêu xây dựng một
nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Công tác hậu cần quân đội là một mặt công tác quân sự, gồm tổng thể
những hoạt động để đảm bảo vật chất, sinh hoạt, quân y, vận tải cho quân đội
nhằm duy trì khả năng thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ. Công tác hậu cần được
bảo đảm đầy đủ, kịp thời sẽ tạo nên sức mạnh tổng hợp để quân đội chiến đấu và
chiến thắng; ngược lại, nếu thiếu nó, mọi hoạt động quân sự sẽ bị ngưng trệ. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Công việc cung cấp cũng quan trọng như việc trực
tiếp đánh giặc trước mặt trận: Cung cấp đủ súng đạn, đủ cơm áo cho bộ đội thì bộ
đội mới đánh thắng trận, điều đó rất rõ ràng dễ hiểu…” [93, tr.179]. Để hoàn
thành tốt nhiệm vụ công tác hậu cần trong mọi điều kiện thì xây dựng “con người
hậu cần” là vấn đề cơ bản, then chốt, đóng vai trò quyết định. Do vậy, xây dựng
ngành Hậu cần quân đội trong tình hình mới cần phải phát huy tốt vai trò, trách
nhiệm của cán bộ hậu cần nói chung và sĩ quan trẻ ngành Hậu cần nói riêng.
Sĩ quan trẻ ngành Hậu cần QĐNDVN là lực lượng đông đảo, chiếm
khoảng trên 60% tổng số sĩ quan hậu cần ở các đơn vị cơ sở và cũng là lực
lượng kế cận, kế tiếp sĩ quan hậu cần trung, cao cấp trong quân đội. Với chức
trách, nhiệm vụ được giao, họ tham mưu đề xuất giúp cấp ủy, người chỉ huy
đơn vị về cách thức huy động và bảo đảm hậu cần; đồng thời còn trực tiếp chỉ
đạo thực hiện công tác bảo đảm hậu cần phục vụ cho bộ đội sinh hoạt, huấn
luyện sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu và thực hiện các nhiệm vụ đột xuất khác.
Do đó, nguồn lực sĩ quan trẻ ngành Hậu cần được xác định là nguồn lực quan
trọng, đóng vai trò nòng cốt đối với sự nghiệp xây dựng ngành Hậu cần
QĐNDVN vững mạnh toàn diện, đáp ứng với yêu cầu xây dựng và chiến đấu
của quân đội ta trong giai đoạn cách mạng mới.
7
Những năm qua, được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước mà trực tiếp là sự
lãnh đạo, chỉ đạo của Quân uỷ Trung ương, Bộ Quốc phòng, Tổng cục Hậu cần
và cấp uỷ, chỉ huy các cấp trong QĐNDVN, nguồn lực sĩ quan trẻ ngành Hậu
cần đã có sự phát triển khá toàn diện cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu; phát
huy được vai trò, tiềm năng sáng tạo trong tham mưu, đề xuất với người chỉ huy
về công tác hậu cần và trực tiếp chỉ đạo công tác bảo đảm hậu cần ở đơn vị. Tuy
nhiên, quá trình phát triển nguồn lực sĩ quan trẻ ngành Hậu cần cũng còn bộc lộ
một số hạn chế như: Nhận thức, trách nhiệm của một số chủ thể đối với phát
triển nguồn lực sĩ quan trẻ ngành Hậu cần chưa cao; thực hiện nội dung, hình
thức, biện pháp phát triển nguồn lực này chưa đồng bộ, có mặt còn bất cập. Cho
nên, số lượng sĩ quan trẻ ngành Hậu cần ở một số đơn vị chưa đủ so với biên
chế; cơ cấu về vùng miền, thành phần dân tộc, chuyên ngành đào tạo… cũng còn
bất hợp lý; chất lượng sĩ quan trẻ ngành Hậu cần có mặt còn hạn chế, cá biệt một
bộ phận nhỏ năng lực công tác yếu, còn vi phạm phẩm chất đạo đức, lối sống
của người cán bộ, đảng viên… Những hạn chế trên đây đã ảnh hưởng không nhỏ
đến chất lượng công tác bảo đảm hậu cần ở các đơn vị cơ sở.
Hơn nữa, sự nghiệp xây dựng QĐNDVN cách mạng, chính quy, tinh nhuệ,
từng bước hiện đại, đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
XHCN theo Nghị quyết Trung ương 8 (Khóa XI) về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc
trong tình hình mới” đã và đang đặt ra nhiều vấn đề mới cho ngành Hậu cần quân
đội. Đặc biệt, với chủ trương ưu tiên hiện đại hóa một số quân chủng, binh chủng,
lực lượng trong quân đội để sẵn sàng đối phó với cuộc chiến tranh có sử dụng
các loại vũ khí công nghệ cao, việc bảo đảm hậu cần cho quân đội tác chiến
trong điều kiện mới khó khăn, ác liệt hơn bao giờ hết. Điều đó đòi hỏi phải
phát triển nguồn lực sĩ quan trẻ ngành Hậu cần cả về phẩm chất và năng lực,
đảm bảo đủ về số lượng, cơ cấu hợp lý, sẵn sàng nhận và hoàn thành mọi
nhiệm vụ được giao.
Vì vậy, đề tài: “Phát triển nguồn lực sĩ quan trẻ ngành Hậu cần QĐNDVN
hiện nay” mà tác giả lựa chọn làm luận án tiến sĩ Triết học, chuyên ngành Chủ
nghĩa xã hội khoa học là vấn đề cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn.
8
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu: Luận giải làm rõ một số vấn đề lý luận và thực
tiễn về phát triển nguồn lực sĩ quan trẻ ngành Hậu cần QĐNDVN; trên cơ sở đó,
luận án đề xuất một số yêu cầu và giải pháp cơ bản phát triển nguồn lực sĩ quan trẻ
ngành Hậu cần QĐNDVN hiện nay, góp phần xây dựng ngành Hậu cần QĐNDVN
vững mạnh toàn diện, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trong tình hình mới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Phân tích làm rõ một số vấn đề lý luận về phát triển nguồn lực sĩ quan
trẻ ngành Hậu cần QĐNDVN.
- Đánh giá thực trạng phát triển nguồn lực sĩ quan trẻ ngành Hậu cần
QĐNDVN hiện nay, chỉ rõ nguyên nhân và đặt ra một số vấn đề cần giải quyết.
- Dự báo các nhân tố tác động đến phát triển nguồn lực sĩ quan trẻ ngành
Hậu cần QĐNDVN; từ đó đề xuất yêu cầu và giải pháp cơ bản phát triển nguồn
lực sĩ quan trẻ ngành Hậu cần QĐNDVN hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Phát triển nguồn lực sĩ quan trẻ ngành Hậu cần
Quân đội nhân dân Việt Nam.
* Phạm vi nghiên cứu:
Về nội dung: Từ góc độ triết học chính trị - xã hội, luận án nghiên cứu
sự phát triển nguồn lực sĩ quan trẻ ngành Hậu cần Quân đội nhân dân Việt
Nam cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu (tập trung vào đội ngũ sĩ quan trẻ
ngành Hậu cần hiện đang công tác ở các đơn vị huấn luyện sẵn sàng chiến đấu
trong quân đội theo đúng chuyên ngành đào tạo, song có đề cập đến đối tượng
học viên đào tạo sĩ quan hậu cần cấp phân đội ở Học viện Hậu cần).
Về không gian: tập trung nghiên cứu, khảo sát ở một số đơn vị phía Bắc:
Quân khu 1, Quân khu 3, Quân đoàn 1, Quân đoàn 2; Quân chủng Hải quân,
Quân chủng Phòng không - Không quân, Học viện Hậu cần và có sử dụng số
liệu của một số quân chủng, binh chủng khác để tham chiếu.
Về thời gian: Các tư liệu, số liệu sử dụng trong luận án được giới hạn từ
năm 2006 đến nay.
9
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận của luận án: Luận án dựa trên hệ thống các quan điểm
của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về con người và vai trò của
con người trong cách mạng xã hội chủ nghĩa; các quan điểm, đường lối của
ĐCSVN về nguồn lực con người và chiến lược phát triển nguồn lực con người
trong sự nghiệp cách mạng nói chung và sự nghiệp xây dựng QĐNDVN cách
mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại nói riêng.
* Cơ sở thực tiễn của luận án: Hoạt động xây dựng đội ngũ quân đội
nói chung và xây dựng đội ngũ cán bộ hậu cần quân đội nói riêng; hoạt động
phát triển nguồn lực sĩ quan trẻ ngành Hậu cần QĐNDVN; các tư liệu tổng
kết, số liệu thống kê của cơ quan chức năng, đơn vị và kết quả điều tra xã hội
học, khảo sát thực tế của tác giả ở một số đơn vị phía Bắc.
* Phương pháp nghiên cứu: Luận án được thực hiện trên cơ sở phương
pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Sử
dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu như: Phân tích - tổng hợp; lôgíc lịch sử; so sánh; điều tra xã hội học; phương pháp chuyên gia... để làm sáng tỏ
góc độ triết học chính trị - xã hội của vấn đề nghiên cứu.
6. Những đóng góp mới của luận án
- Bước đầu khái quát, làm rõ những đặc điểm của sĩ quan trẻ ngành Hậu cần
và đưa ra quan niệm phát triển nguồn lực sĩ quan trẻ ngành Hậu cần QĐNDVN;
phân tích nội dung và những vấn đề có tính quy luật phát triển nguồn lực sĩ quan
trẻ ngành Hậu cần QĐNDVN.
- Đánh giá thực trạng phát triển nguồn lực sĩ quan trẻ ngành Hậu cần QĐNDVN
hiện nay và đặt ra một số vấn đề cần giải quyết.
- Đề xuất giải pháp cơ bản phát triển nguồn lực sĩ quan trẻ ngành Hậu
cần QĐNDVN hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận án
* Ý nghĩa lý luận: Luận án góp phần khẳng định vị trí, vai trò đặc biệt
quan trọng của nguồn lực con người đối với sự phát triển của xã hội nói
10
chung và sự nghiệp xây dựng QĐNDVN nói riêng; đồng thời bổ sung, phát
triển một số vấn đề lý luận khoa học về phát triển nguồn lực sĩ quan trẻ ngành
Hậu cần QĐNDVN hiện nay.
* Ý nghĩa thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận án có thể sử dụng làm
tài liệu tham khảo trong nghiên cứu khoa học và giảng dạy những nội dung có
liên quan; cung cấp thêm cơ sở thực tiễn cho việc hoạch định chủ trương, biện
pháp để lãnh đạo, chỉ huy các cấp trong quân đội đổi mới công tác tổ chức,
lãnh đạo, quản lý, đào tạo, phát triển nguồn lực sĩ quan trẻ ngành Hậu cần
QĐNDVN hiện nay đáp ứng với yêu cầu xây dựng quân đội, xây dựng ngành
Hậu cần QĐNDVN trong tình hình mới.
8. Kết cấu của luận án: Mở đầu; tổng quan tình hình nghiên cứu có
liên quan đến đề tài luận án; nội dung bố cục thành 3 chương (6 tiết); kết luận,
kiến nghị; danh mục các công trình khoa học đã được công bố liên quan đến
đề tài luận án; danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
11
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài có liên quan đến đề tài luận án
1.1. Nhóm công trình nghiên cứu về nguồn lực con người và phát triển
nguồn lực con người
Trong cuốn sách “Global Human Resourse Development” của Marquardt M
và Engl D [148] đã nghiên cứu sự phát triển nguồn nhân lực toàn cầu dưới góc
độ tiếp cận của khoa học tổ chức, quản lý. Trong đó, các tác giả đã đi sâu vào
phân tích sự tác động của toàn cầu hoá đến sự phát triển nguồn lực con người;
đồng thời đề ra yêu cầu mới về tổ chức, quản lý và sử dụng nguồn lực con
người trong quá trình phát triển của mỗi quốc gia, dân tộc. Các tác giả cho
rằng: Phát triển nguồn nhân lực chính là phát triển năng lực kỹ thuật, năng lực
thực hiện công việc, năng lực trí tuệ. Quan niệm này chưa thể phản ánh hết
được sự phát triển đầy đủ của các yếu tố cấu thành nguồn lực con người, mới
chỉ tập trung nhấn mạnh sự phát triển về mặt chất lượng nguồn nhân lực song
kết quả nổi bật của cuốn sách là đã phân tích khá sâu sắc và luận giải làm rõ
vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của chất lượng nguồn nhân lực - yếu tố quyết
định sự phát triển bền vững nguồn nhân lực.
Marc Effron, Robert Gandossy, Marshall Goldsmith với cuốn sách“Human
resourses in the 21st century” [150] đã nhận định vai trò trung tâm của nguồn lực
con người trong sự phát triển kinh tế - xã hội thế kỷ XXI. Cuốn sách đã tập trung
trình bày những đóng góp tư tưởng của các nhà lãnh đạo: David Ulrich,
Rosabelth Moss Kanter… về chiến lược phát triển nguồn lực con người, về khoa
học quản lý và sử dụng nguồn lực con người đạt hiệu quả cao trong hoạt động
sản xuất vật chất. Các tác giả cuốn sách này có chung nhận định: Ngày nay,
dường như bất cứ quốc gia nào trên thế giới cũng nhận thức rõ nguồn lực con
người là quan trọng, quyết định sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia.
Nguồn lực con người chỉ trở thành động lực của sự phát triển của mỗi quốc gia
khi nó được phát triển bằng cách nâng cao chất lượng nguồn lực này theo các
12
phương thức khác nhau; trong đó, giáo dục - đào tạo là phương thức quan trọng nhất.
Thực chất của phương thức đó là làm tăng giá trị của con người về mọi mặt: đức, trí,
thể, mỹ và các phẩm chất cần thiết khác của con người hiện đại, nhất là tính sáng tạo,
năng động, khả năng làm việc độc lập. Trong khi đó, Kelly D.J với công trình “Dual
Perception of HRD: Issues for Policy: SME’s, Other Constituencies, and the Contested
Definitions of Human Resource Development” [149] lại đề cập khá đầy đủ và sâu
sắc về nguồn nhân lực; vai trò, sự cần thiết phải phát triển nguồn nhân lực, đồng
thời đưa ra quan niệm về phát triển nguồn nhân lực. Theo tác giả, phát triển nguồn
nhân lực là một phạm trù nằm trong tổng thể quá trình thuộc về sự nghiệp phát
triển con người và để phát triển nguồn nhân lực toàn diện thì một vấn đề hết sức
quan trọng là phải có các cơ chế, chính sách mang tính tổng thể.
Thẩm Vinh Hoa - Ngô Quốc Diệu với công trình “Tôn trọng trí thức, tôn
trọng nhân tài, kế lớn trăm năm chấn hưng đất nước” [52]. Các tác giả khẳng
định, tư tưởng của Đặng Tiểu Bình về nhân tài là sự kế thừa và phát triển tư tưởng
của Mác - Lênin, Mao Trạch Đông. Tư tưởng này là bộ phận cấu thành quan trọng
trong lý luận của Trung Quốc về con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội đặc sắc, xã
hội hài hoà. Đây là kim chỉ nam cho việc xây dựng và thực hiện chiến lược nhân
tài của Trung Quốc hiện nay. Công trình đã hệ thống tư tưởng của Đặng Tiểu
Bình về những vấn đề cơ bản như: nhân tài là then chốt của phát triển; đường lối
tổ chức và việc xây dựng đội ngũ cán bộ; tư tưởng chiến lược về bồi dưỡng và
giáo dục nhân tài; về tuyển chọn nhân tài ưu tú; về sử dụng và bố trí nhân tài; về
tạo môi trường cho nhân tài phát triển; về cải cách chế độ nhân sự trong việc sử
dụng nhân tài. Các tác giả nhấn mạnh: Trung Quốc luôn coi giáo dục - đào tạo
phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, công tác nhân tài là vấn đề có tầm quan
trọng đặc biệt, coi đó là kế lớn trăm năm để chấn hưng đất nước.
1.2. Nhóm công trình nghiên cứu về xây dựng, phát triển nguồn lực
con người trong quân đội
Việc nghiên cứu về nguồn lực con người trong quân đội luôn được các học
giả, các nhà khoa học quan tâm, với nhiều công trình nghiên cứu khác nhau. Tuy
13
nhiên, hoạt động quân sự có tính chất đặc thù và tính bảo mật cao nên các công
trình nghiên cứu về xây dựng, phát triển nguồn lực con người của quân đội các
nước trên thế giới ít được công bố rộng rãi; chủ yếu được công bố với các sản
phẩm là bài viết đăng trên các tạp chí, tiêu biểu là:
Steve M.Kosiak với công trình“Military manpower for The LongHaul”
[151]. Tác giả khẳng định nguồn nhân lực chất lượng cao trong lĩnh vực quân
sự có vị trí rất quan trọng, đặc biệt là trong chiến lược dài hạn của lực lượng
vũ trang Hoa Kỳ. Nguồn lực này phải đủ về số lượng, được đào tạo bài bản,
có kinh nghiệm và kỹ năng tác chiến thành thạo. Trong đó, tác giả cũng nhấn
mạnh rằng, chất lượng nguồn nhân lực quân sự là yếu tố đóng góp nhiều nhất
vào sức mạnh của các lực lượng vũ trang Hoa Kỳ những năm vừa qua; đồng
thời đưa ra dự báo những yêu cầu mới cho nguồn nhân lực này trong tương
lai. Các khuyến nghị tập trung vào cải thiện chế độ đãi ngộ cho việc thu hút
và giữ chân nguồn nhân lực chất lượng cao, tinh gọn lực lượng vũ trang và
phát triển việc tư vấn, nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực quân sự.
V.I.Ôx-tan-cốp với bài viết“Xây dựng lực lượng vũ trang: những vấn đề
lý luận và thực tiễn” [102]. Tác giả bài viết đã khẳng định: Lý luận và thực tiễn
xây dựng lực lượng vũ trang Nga phải dựa trên cơ sở những thành tựu đạt được
của khoa học quân sự và các khoa học khác, những yêu cầu của học thuyết quân
sự và phát triển dưới tác động của các yếu tố mang tính chính trị - quân sự và
kinh tế - xã hội bên trong và bên ngoài, có tính đến tình hình địa - chiến lược của
nước Nga, đến các điều kiện địa lý - vật lý và vũ khí trang bị của lãnh thổ nước
Nga. Tác giả cho rằng, cần phải xây dựng và phát triển cơ cấu hợp lý các lực
lượng vũ trang như một tổ hợp thống nhất các quân chủng, binh chủng lực lượng
vũ trang, các lực lượng đặc nhiệm và ngành Hậu cần quân đội liên kết với nhau
bởi các mục tiêu và nhiệm vụ chung. Cơ cấu tổ chức lực lượng vũ trang cần phải
linh hoạt và cho phép thực hiện nhanh chóng chuyển lực lượng vũ trang sang
chế độ thời chiến thực hiện trong thời gian ngắn nhất việc hiện đại hóa cơ cấu
cần thiết các quân chủng, binh chủng, các lực lượng đặc nhiệm và ngành Hậu
cần lực lượng vũ trang mà không cần những chi phí vật chất đáng kể.
14
GV.Leonevets với bài viết “Kinh nghiệm các nước trong công tác đào tạo chỉ
huy sơ cấp” [75]. Bài viết nêu lên những đặc điểm của hệ thống tuyển chọn và đào
tạo chỉ huy sơ cấp trong quân đội các nước: Mỹ, Đức, Anh và Pháp thông qua việc
phân tích rất cụ thể về quy trình đào tạo, bao gồm các giai đoạn: giai đoạn sơ tuyển,
giai đoạn đào tạo cơ bản, giai đoạn đào tạo thường xuyên, giai đoạn đào tạo nâng cao.
Có thể nói rằng, những hệ thống tuyển chọn và đào tạo chuyên môn đối với hàng ngũ
hạ sĩ quan trong quân đội các nước Anh, Pháp, Mỹ, Đức là một quy trình hoàn chỉnh,
liên tục, khá hiệu quả và linh hoạt song vẫn còn hạn chế như: Nhu cầu được khuyến
khích vật chất và tinh thần ngày càng cao khiến cho nghĩa vụ bảo vệ tổ quốc không
được coi trọng, mà thay vào đó là chủ nghĩa vị kỷ cá nhân; sự kích thích về vật chất
còn lấn át công tác giáo dục lòng yêu nước; chưa thể có được một hệ thống hoàn
thiện công tác của hạ sĩ quan chuyên nghiệp trong việc giáo dục cấp dưới.
Wu Jan Ping với bài viết: “Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc thế kỷ 21 Phân tích những ý nghĩa của việc giảm quân của quân đội Trung Quốc” [145].
Trong bài viết, tác giả tập trung làm rõ một số cơ sở việc cắt giảm quân của Quân
đội Trung Quốc. Bởi lẽ, sau cuộc chiến tranh Vùng Vịnh năm 1991, Trung Quốc
đã có những thay đổi học thuyết chiến lược, chuyển trọng tâm từ chuẩn bị chiến
đấu trong cuộc chiến tranh khu vực truyền thống sang cuộc chiến tranh khu vực
trong điều kiện công nghệ cao. Để đạt được mục tiêu “Quân đội chất lượng tốt
hơn, cơ cấu được cải thiện và hiệu quả cao hơn”, Quân đội Trung Quốc (PLA) đã
chủ trương thực hiện việc cắt giảm quân số, cụ thể: cắt giảm 19.0% đối với lực
lượng trên bộ; 11.6% đối với lực lượng hải quân và 11% đối với lực lượng không
quân. PLA cũng thực hiện cắt giảm các học viện quân sự theo hướng sáp nhập các
trường lại với nhau để tiến tới một tập hợp học viện hoặc chuyển các sự đoàn bộ
binh của PLA sang lực lượng cảnh sát vũ trang (PAP) và do đó: “Việc cải tổ PLA
được tiến hành một cách khác biệt. Trong khi số lượng bị cắt giảm thì chất lượng
được cải thiện; trong khi lực lượng thường trực bị cắt giảm thì các đơn vị không
thường trực được tăng lên và được nâng cấp; trong khi các đơn vị công nghệ thấp
bị giảm bớt thì việc đầu tư về người và vật chất cho đơn vị hải quân và không
quân công nghệ cao lại tăng lên” [145, tr.6].
15
1.3. Nhóm công trình nghiên cứu về xây dựng đội ngũ cán bộ hậu cần quân đội
Viktor Litovkin đã nghiên cứu về quá trình cải cách lực lượng hậu cần của quân
đội Liên bang Nga với công trình: “Về việc cải cách hậu cần quân đội Liên bang Nga”
[74]. Tác giả đã khái quát tiến trình cải cách, hiện đại hóa lực lượng vũ trang Liên bang
Nga, trong đó có sự chuyển đổi lực lượng hậu cần với mục tiêu nâng cao chất lượng
ngành Hậu cần ở các cấp, bảo đảm khả năng sẵn sàng chiến đấu của quân đội trong
thời bình và trong chiến tranh. Viktor Litovkin cho rằng: ‘‘Bảo đảm kịp thời vật chất,
phương tiện, vũ khí trang bị cho bộ đội ở cấp chiến thuật, chiến dịch, chiến lược là
điểm mấu chốt, quan trọng” [74, tr.9]. Do vậy, đội ngũ cán bộ hậu cần ở cấp lữ đoàn,
tiểu đoàn, đại đội cũng sẽ được đổi mới, trước hết là việc rà soát cơ cấu mới của các lực
lượng và quá trình xây dựng thực hiện chuyển giao một số chức danh quân sự cho
nhân viên dân sự đảm nhiệm trong công tác sắp xếp, bố trí sử dụng đội ngũ cán bộ hậu
cần, việc làm đó cần dựa trên những nguyên tắc: Vị trí bố trí quân nhân gắn liền với sự
chỉ huy, quản lý của đơn vị; những vị trí có chức năng thuần túy chức danh của đội ngũ
cán bộ hậu cần sẽ được thay thế bằng chuyên gia và nhân viên dân sự.
Với quân đội Mỹ, Wilsont.Vorndick có bài viết:“Chương trình huấn luyện sĩ
quan hậu cần trẻ quân đội Mỹ [146]. Tác giả đã đề cập đến xây dựng một giải pháp
mang tính tổng thể và thống nhất để huấn luyện từ sơ cấp đến chương trình đào tạo
sĩ quan hậu cần trẻ. Với chương trình đào tạo sĩ quan hậu cần mới của quân đội Mỹ
đã đem lại những hiệu quả bất ngờ cho Chính phủ Mỹ như: tạo ra một sự tổng hòa
hiệu ứng hậu cần ở cấp sĩ quan trẻ 01 - 03, nhờ khả năng phối hợp hoạt động với
nhau, điều này sẽ không chỉ đáp ứng cho các lực lượng làm nhiệm vụ thường trực
mà còn cả làm lực lượng dự bị; đem lại cho các thế hệ sĩ quan hậu cần cơ hội và
diễn đàn để kết nối mạng và tìm kiếm những giải pháp hiệu quả trong sự nghiệp của
họ nhanh hơn; đồng thời thúc đẩy sự phối hợp và liên kết hơn nữa dây chuyền hậu
cần đặc chủng truyền thống, các quy trình quản lý và tin học.
Trung Quốc xác định cần hoàn thiện cơ chế thích ứng trong công tác bảo
đảm theo nền kinh tế thị trường, xây dựng lực lượng hậu cần của nền kinh tế
quốc dân sẵn sàng cho thời chiến là công việc thường xuyên. Những năm gần
đây, để đáp ứng với yêu cầu của“Chiến tranh cục bộ thông tin hóa”, Trung
16
Quốc đang thực hiện phương châm“Bốn chuyển biến” trong xây dựng lực
lượng vũ trang, trong đó có công tác xây dựng lực lượng và đội ngũ cán bộ hậu
cần các cấp trong quân đội. Khi trình bày“Một số nét mới trong xây dựng quân
đội Trung Quốc”, tác giả Trần Quý chỉ rõ: trong công tác quản lý hậu cần hiện
nay, quân đội Trung Quốc thực hiện công tác quản lý và bảo đảm song song cả
địa phương và các đơn vị quân đội, phân chia theo từng cấp để quản lý cả con
người cơ sở, vật chất, trang bị, phương tiện kỹ thuật quân sự. Đồng thời, Trung
Quốc đang tích cực cải tiến biện pháp huấn luyện đội ngũ cán bộ hậu cần theo
phương châm nhắm trúng đối tượng, giải quyết thỏa đáng vấn đề đãi ngộ và trợ
cấp sinh hoạt cho quân nhân và đội ngũ sĩ quan các cấp.
2. Các công trình nghiên cứu ở trong nước có liên quan đến đề tài luận án
2.1. Nhóm công trình nghiên cứu về nguồn lực con người và nguồn lực
con người trong Quân đội nhân dân Việt Nam
Phạm Minh Hạc với cuốn sách:“Vấn đề con người trong sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước” [46] đã luận giải làm sáng tỏ cơ sở lý luận và
thực tiễn để thực hiện chiến lược con người với tư tưởng coi nhân tố con người, sự
phát triển nguồn lực con người có ý nghĩa quyết định đối với việc sáng tạo vật
chất và tinh thần, coi con người là trung tâm sự phát triển. Đề tài cũng bước đầu
khái quát và đưa ra quan niệm nguồn lực con người: “Nguồn lực con người được
hiểu là số dân và chất lượng con người, bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức khoẻ
và trí tuệ, năng lực và phẩm chất” [46, tr.328]; đồng thời đã trình bày khá rõ mối
quan hệ đào tạo, sử dụng và việc làm với sự phát triển nguồn nhân lực; từ đó xác
định trách nhiệm quản lý của Nhà nước, ngành giáo dục - đào tạo đối với sự phát
triển nguồn nhân lực trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc hiện nay.
Nguyễn Ngọc Phú với cuốn sách: “Nguồn nhân lực và nhân tài cho phát triển
xã hội và quản lý phát triển xã hội ở Việt Nam trong tiến trình đổi mới - Những vấn đề
lý luận” [104]. Cuốn sách là tập hợp các bài viết tham luận trong Hội thảo khoa học
vào tháng 11 năm 2009 của đề tài khoa học mã số KX.02.24/06-10 mang tên
“Nguồn nhân lực và nhân tài cho phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở
Việt Nam trong tiến trình đổi mới” thuộc chương trình Khoa học và Công nghệ
17
trọng điểm cấp Nhà nước KX.02/06-10. Trong đó, tác giả Nguyễn Ngọc Phú đã
đưa ra quan niệm: “Nguồn nhân lực (human resources) được hiểu là nguồn lực con
người (không phải nguồn vốn đất, tư liệu sản xuất…), nguồn lao động, là tổng thể
các tiềm năng lao động của một đất nước hay một địa phương, một tổ chức, là con
người đáp ứng đòi hỏi của xây dựng xã hội trong một giai đoạn nào đó sẵn sàng
tham gia một công việc lao động nào đó, tức là những người lao động có kỹ năng
(hay khả năng nói chung), bằng con đường đáp ứng được yêu cầu của chuyển đổi
cơ cấu lao động, chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng xác định” [104, tr.9].
Lê Thị Ngân với đề tài luận án: “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tiếp
cận kinh tế tri thức ở Việt Nam” [99]. Dưới góc độ kinh tế học, luận án đề cập trực
tiếp đến vấn đề thực trạng chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam trong bối cảnh tiếp
cận kinh tế tri thức. Tác giả cho rằng, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực tiếp cận
kinh tế tri thức chính là tăng cường năng lực thể chất và tinh thần trong hoạt động và
sáng tạo, đặc biệt là năng lực tìm kiếm, phát triển thông tin và vật chất hoá thông tin
thành sản phẩm và công nghệ của lực lượng này. Chất lượng nguồn nhân lực được
thể hiện thông qua các chỉ tiêu như: thể lực (chế độ dinh dưỡng và chăm sóc sức
khoẻ); trí lực (trình độ học vấn, chuyên môn - kỹ thuật, kỹ năng nghề nghiệp) là chỉ
tiêu quan trọng nhất; tâm lực bao gồm (phẩm chất đạo đức, nhân cách, truyền thống
văn hoá và khả năng thích ứng cao trước sự thay đổi của hoàn cảnh kinh tế quốc tế.
Trên cơ sở làm rõ mối quan hệ giữa phát triển nguồn nhân lực với mục tiêu phát triển
kinh tế tri thức, tác giả đề xuất các nhóm giải pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực tiếp cận kinh tế tri thức ở Việt Nam hiện nay.
Đề tài khoa học cấp BQP về: “Đổi mới công tác giáo dục - đào tạo cán bộ,
nhân viên chuyên môn kỹ thuật các cấp, đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội trong
giai đoạn mới” [60]. Đề tài đã nêu bật được tính cấp thiết của việc xây dựng đội
ngũ cán bộ, nhân viên chuyên môn kỹ thuật có trình độ cao; đưa ra hệ thống quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của
Đảng, QUTƯ về giáo dục, đào tạo; quan điểm, mục tiêu đổi mới công tác giáo
dục, đào tạo trong quân đội; đánh giá toàn diện thực trạng đổi mới công tác giáo
dục, đào tạo trong quân đội; dự báo xu hướng phát triển của tình hình, xác định
18
nội dung và hệ thống giải pháp thực hiện đổi mới công tác giáo dục, đào tạo trong
quân đội, góp phần nâng cao chất lượng cán bộ, nhân viên chuyên môn kỹ thuật
các cấp đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội trong giai đoạn cách mạng mới.
Hoàng Quang Đạt với luận án:“Nâng cao chất lượng nhân tố con người
trong sức mạnh chiến đấu của Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay” [37]. Tác
giả đã dựa trên phương pháp luận mác-xít về con người để nghiên cứu và đưa ra
quan niệm với nội dung phát triển mới về sức mạnh chiến đấu, về chất lượng
nhân tố con người trong sức mạnh chiến đấu, đáp ứng sự phát triển mới của sự
nghiệp xây dựng quân đội, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện
nay. Cùng với đó, tác giả đã phân tích vấn đề cơ bản và cấp thiết nâng cao chất
lượng mới của nhân tố con người trong xây dựng sức mạnh chiến đấu mới của
quân đội ta. Trên cơ sở đó, luận án đã bước đầu đánh giá thực trạng tình hình
nhân tố con người của quân đội ta và đề xuất phương hướng, biện pháp tổng
hợp kết hợp xây dựng phẩm chất chiến đấu của quân nhân với xây dựng tổ
chức quân đội vững mạnh; đồng thời, với quan điểm xây dựng quân đội nhân
dân theo hệ thống mở, phát triển sức mạnh của toàn xã hội để nâng cao chất
lượng nhân tố con người trong sức mạnh chiến đấu của quân đội.
2.2. Nhóm công trình nghiên cứu về phát triển, phát huy nguồn lực
con người và nguồn lực con người trong Quân đội nhân dân Việt Nam
Lê Thị Hồng Điệp với công trình: “Phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao để hình thành nền kinh tế tri thức ở Việt Nam” [39], đã nghiên cứu một cách
có hệ thống về vấn đề phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao gắn với quá
trình hình thành kinh tế tri thức. Theo tác giả, nguồn nhân lực chất lượng cao
để hình thành nền kinh tế tri thức là lực lượng lao động ưu tú nhất của nguồn
nhân lực; có trình độ được đào tạo cao, có những phẩm chất đạo đức tiêu
biểu, những khả năng nổi trội trong việc thích ứng và sáng tạo tri thức khoa
học - công nghệ hiện đại; lực lượng này đóng vai trò tiên phong trong quá
trình tạo ra những chuyển biến cơ bản để hình thành nền kinh tế tri thức. Tác
giả cũng đưa ra các tiêu chí đánh giá và các yếu tố tác động tới phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao để hình thành kinh tế tri thức ở Việt Nam;
19
xem xét kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao để hình thành
kinh tế tri thức của một số quốc gia tiêu biểu; đánh giá quá trình phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao để hình thành kinh tế tri thức ở Việt Nam từ
năm 2001 đến 2007 theo những nội dung và tiêu chí đã xác định; đề xuất một
số quan điểm và giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao để
hình thành kinh tế tri thức ở Việt Nam.
Phùng Danh Cường với luận án:“Vấn đề phát triển toàn diện con người
Việt Nam hiện nay” [21]. Dưới góc độ triết học, tác giả đã nghiên cứu làm rõ quan
niệm về phát triển con người toàn diện trong học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và quan điểm của ĐCSVN. Luận án đã đưa ra và khẳng định: Phát triển
con người toàn diện ở Việt Nam hiện nay là sự phát triển toàn diện, hài hòa giữa
con người cá nhân và con người xã hội; giữa thể lực, trí lực và tâm lực; giữa đức
và tài; giữa hồng và chuyên trong mỗi con người; phát triển cá tính và sự phong
phú của bản chất con người, làm cho con người trở thành một nguồn lực chủ yếu,
một chủ thể vẹn toàn cả về năng lực lẫn phẩm chất, đáp ứng yêu cầu ngày càng
cao của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế ở Việt Nam
hiện nay. Từ quan niệm đó, luận án đã phân tích thực trạng, những vấn đề đặt ra
trong phát triển con người toàn diện ở Việt Nam hiện nay; luận án xác định định
hướng cơ bản và đề xuất, luận giải tính khả thi của một số giải pháp nhằm đẩy
mạnh phát triển con người toàn diện, đáp ứng những đòi hỏi của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế ở
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Nguyễn Văn Tài với luận án:“Tích cực hoá nhân tố con người của đội ngũ
sĩ quan trong xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay” [114]. Luận án
đã vận dụng phương pháp tiếp cận hệ thống hoạt động - giá trị - nhân cách để
góp phần xác định rõ khái niệm nhân tố con người, chỉ ra cấu trúc nhân tố con
người cấu thành hai mặt cơ bản: Mặt thứ nhất, chỉ khả năng hoạt động của
con người được thể hiện trong hoạt động thực tiễn và hoạt động lý luận; hoạt
động vật chất và hoạt động tinh thần. Mặt thứ hai, chỉ tổng hòa những đặc
20
trưng về phẩm chất và năng lực của con người được thể hiện trong phẩm chất
chính trị - đạo đức và năng lực hoạt động thực tiễn. Xét đến cùng, hai mặt của
nhân tố con người quan hệ biện chứng với nhau, cấu thành một chỉnh thể thống
nhất, luôn luôn vận động biến đổi, phát triển. Từ việc phân tích làm rõ cấu
trúc nhân tố con người, tác giả đã đi vào luận giải tích cực hoá nhân tố con
người của đội ngũ sĩ quan, bao gồm: nội dung, thực chất và những vấn đề có
tính quy luật với tính cách là những động lực tích cực hoá nhân tố con người
của đội ngũ sĩ quan trong xây dựng quân đội hiện nay. Bước đầu làm sáng tỏ
vai trò nhân tố con người của đội ngũ sĩ quan; khảo sát tình hình tích cực hoá
nhân tố con người của đội ngũ sĩ quan trong xây dựng quân đội hiện nay và
chỉ ra các mâu thuẫn cần giải quyết của quá trình đó. Trên cơ sở đó, luận án
đề xuất một số phương hướng và giải pháp cơ bản, đồng bộ, phù hợp với đặc
thù hoạt động quân sự trong tình hình mới nhằm hiện thực hoá tiềm năng tích
cực tự giác, sáng tạo của đội ngũ sĩ quan trong xây dựng quân đội.
Phạm Thanh Giang với đề tài luận án:“Phát triển nguồn lực giảng viên
khoa học xã hội và nhân văn chất lượng cao trong các học viện Quân đội nhân
dân Việt Nam hiện nay” [44]. Dưới góc độ triết học chính trị - xã hội, tác giả
luận án đã nghiên cứu, luận giả rõ một số vấn đề lý luận và thực tiễn phát triển
nguồn lực giảng viên khoa học xã hội và nhân văn chất lượng cao trong các học
viện QĐNDVN. Trong đó, đóng góp mới về mặt lý luận của luận án là đã xây
dựng quan niệm và những tiêu chí về nguồn lực giảng viên khoa học xã hội và
nhân văn chất lượng cao cũng như quan niệm về phát triển nguồn lực này.
Theo tác giả luận án: Phát triển nguồn lực giảng viên khoa học xã hội và nhân
văn chất lượng cao trong các học viện QĐNDVN hiện nay là quá trình chuyển
biến toàn diện nguồn lực giảng viên khoa học xã hội nhân văn chất lượng cao
trên cơ sở tác động của những điều kiện khách quan, chủ quan làm cho nguồn
lực này không ngừng hoàn thiện các yếu tố cấu thành, gia tăng sức mạnh, phát
huy vai trò trong thực tiễn, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ giáo dục, đào tạo của các
học viện và xây dựng quân đội. Từ quan niệm đó, tác giả đã phân tích làm rõ
nội hàm, xác định rõ các tiêu chí và đánh giá thực trạng, chỉ ra nguyên nhân
21
cùng những vấn đề đặt ra đối với phát triển nguồn lực giảng viên khoa học xã
hội và nhân văn chất lượng cao trong các học viện QĐNDVN hiện nay; đồng
thời đề xuất định hướng và giải pháp cơ bản phát triển nguồn lực này đáp ứng
với yêu cầu nhiệm vụ giáo dục, đào tạo trong tình hình mới.
Nguyễn Đình Minh với luận án:“Phát huy vai trò nguồn lực trí thức khoa
học xã hội và nhân văn trong Quân đội nhân dân Việt Nam” [97]. Dưới góc độ
triết học - xã hội, tác giả đã tiếp tục làm rõ thêm quan niệm về nguồn lực con
người - một dạng đặc biệt của nguồn lực nói chung, là tổng hoà các yếu tố tạo
nên sức mạnh của con người và cộng đồng xã hội, là số dân, cơ cấu số dân và
chất lượng con người với tất cả đặc điểm và sức mạnh của nó trong sự phát
triển xã hội. Từ đó, tác giả luận án đã xây dựng khái niệm nguồn lực trí thức
khoa học xã hội và nhân văn trong QĐNDVN, chỉ ra những đặc trưng, vai trò
của nó và thực chất phát huy vai trò nguồn lực trí thức khoa học xã hội và
nhân văn trong QĐNDVN. Đánh giá thực trạng phát huy nguồn lực trí thức
khoa học xã hội và nhân văn trong QĐNDVN và dự báo xu hướng phát triển
nguồn lực này trong những năm tới. Trên cơ sở đó, luận án đã đề xuất được
một số định hướng và giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò nguồn lực trí
thức khoa học xã hội và nhân văn trong QĐNDVN hiện nay.
Nguyễn Minh Thắng với luận án:“Phát huy nguồn lực cán bộ khoa học
kỹ thuật quân sự trẻ trong xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay”
[118]. Từ việc nghiên cứu các công trình khoa học đã luận bàn về sĩ quan trẻ
QĐNDVN, tác giả luận án đã đưa ra quan niệm: Nguồn lực cán bộ khoa học
kỹ thuật quân sự trẻ là tổng hoà các yếu tố số lượng, chất lượng và cơ cấu cán
bộ khoa học kỹ thuật quân sự trẻ thuộc các lĩnh vực khác nhau của ngành
khoa học kỹ thuật quân sự đang góp phần quan trọng vào việc xây dựng quân
đội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Từ quan niệm đó, tác giả
đã nghiên cứu và chỉ ra những biểu hiện của nguồn lực này; thực chất, những
yếu tố quy định và vai trò của việc phát huy nguồn lực cán bộ khoa học kỹ
thuật trẻ trong xây dựng QĐNDVN. Đánh giá thực trạng về số lượng, chất
lượng, cơ cấu cán bộ khoa học kỹ thuật quân sự trẻ; trên cơ sở đó, tác giả đã
- Xem thêm -