Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Quản lý nhà nước đối với tổ chức hành nghề công chứng từ thực tiễn tỉnh đắk lắk....

Tài liệu Quản lý nhà nước đối với tổ chức hành nghề công chứng từ thực tiễn tỉnh đắk lắk.

.PDF
84
109
120

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ THÙY ANH QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ CÔNG CHỨNG TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐẮK LẮK LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC ĐẮK LẮK, năm 2020 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI LÊ THÙY ANH QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ CÔNG CHỨNG TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐẮK LẮK Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính Mã số: 8 38 01 02 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN ANH HÙNG ĐẮK LẮK, năm 2020 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi. Các thông tin và số liệu sử dụng phân tích trong luận văn có nguồn gốc rõ ràng, phản ánh chân thực nội dung của tài liệu gốc. Các kết quả nghiên cứu trong khóa luận do tôi tự tìm hiểu, tổng hợp và phân tích một cách trung thực, khách quan. Các kết quả trình bày trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ nghiên cứu nào khác. Học viên LÊ THÙY ANH MỤC LỤC MỞ ĐẦU ............................................................................................................................. 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN – PHÁP LÝ VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CÁC TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ CÔNG CHỨNG ........................................ 8 1.1. Khái quát chung về công chứng và tổ chức hành nghề công chứng ......................... 8 1.3. Thẩm quyền và nội dung quản lý nhà nước đối với các tổ chức hành nghề công chứng .............................................................................................................................. 22 1.4. Hình thức quản lý nhà nước đối với các tổ chức hành nghề công chứng ............... 29 1.5. Kinh nghiệm quản lý nhà nước đối với các tổ chức hành nghề công chứng ở nước ngoài. .............................................................................................................................. 33 Chương 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CÁC TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ CÔNG CHỨNG TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐẮK LẮK ........................ 36 2.1. Thực tiễn tỉnh Đắk Lắk và các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước đối với các tổ chức hành nghề công chứng ................................................................................ 36 2.2. Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước đối với các tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk ............................................................................................... 40 2.3. Những ưu điểm, hạn chế và nguyên ngân của những hạn chế trong quản lý nhà nước đối với các tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk ................. 53 Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CÁC TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ CÔNG CHỨNG ............... 58 3.1. Định hướng nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với các tổ chức hành nghề công chứng ..................................................................................................................... 58 3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với các tổ chức hành nghề công chứng .............................................................................................................................. 63 KẾT LUẬN ...................................................................................................................... 72 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................... 74 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT Tổ chức HNCC Tổ chức hành nghề công chứng UBND Ủy ban nhân dân VPCC Văn phòng công chứng XHCN Xã hội chủ nghĩa DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ Số hiệu biểu đồ 2.1 Tên Biểu đồ Dân số trung bình phân theo địa phương khu vực Tây Nguyên từ năm 2014 đến sơ bộ năm 2018 Trang 40 Tổng hợp tỷ lệ số công chứng viên, tổ chức hành 2.2 nghề công chứng và số việc công chứng của tỉnh 44 Đắk Lắk so với cả nước năm 2018 2.3 Tổng số việc công chứng trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk từ năm 2014 đến năm 2019 45 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Cải cách hành chính luôn là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của nhà nước, với mục tiêu nhằm xây dựng một nền hành chính hiện đại, một chính phủ kiến tạo, phát triển, tiệm cận với nền tư pháp tiên tiến của các nước trên thế giới đồng thời nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Trong những năm vừa qua, Việt Nam đã có những bước đi hết sức quan trọng, đạt được nhiều thành tựu trên con đường phát triển kinh tế - xã hội. Đặc biệt, trong năm 2018, nền kinh tế Việt Nam đạt tốc độ tăng trưởng cao nhất kể từ năm 2008 và thuộc nhóm các nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất khu vực và thế giới. Điều này mở ra cho Việt Nam nhiều cơ hội mới nhưng đồng thời cũng đặt ra những thách thức không nhỏ. Công chứng là một trong những hoạt động bổ trợ tư pháp, giúp đảm bảo tính an toàn pháp lý đối với các giao dịch dân sự, thương mại, đặc biệt là các giao dịch chuyển quyền liên quan đến các tài sản có giá trị lớn…vốn đã tồn tại nhiều nguy cơ dẫn đến tranh chấp. Trong những năm gần đây, nhu cầu về giao dịch dân sự, thương mại giữa các cá nhân tổ chức trong xã hội… diễn ra ngày càng mạnh mẽ hơn kéo theo đó là nhu cầu công chứng các hợp đồng, giao dịch phát sinh trong đời sống xã hội ngày càng tăng cao. Điều này đặt ra yêu cầu, cần có những thay đổi trong quy định pháp luật về hoạt động công chứng sao cho nó có thể điều chỉnh được các hành vi xã hội kịp thời và không bị thụ động trước những thay đổi mới phát sinh của hoạt động đặc thù này. Có thể kể đến một trong những thay đổi lớn nhất trong quy định pháp luật về hoạt động công chứng đó là cho phép thực hiện xã hội hóa hoạt động công chứng, làm gia tăng số lượng các phòng công chứng và VPCC đáp ứng kịp thời nhu cầu của xã hội. Hoạt động công chứng nói riêng và các tổ chức hành nghề công chứng nói chung đóng một vai trò quan trọng, không thể thiếu trong đời sống kinh tế - xã hội của Việt Nam hiện nay. Do nhu cầu về công chứng của nhân dân ngày càng cao khiến cho mối quan hệ trong hoạt động công chứng ngày càng phức tạp, điều này đặt ra yêu cầu cần có một loại hình văn bản Luật cụ thể tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động công chứng. Luật Công chứng 2006 và Luật Công chứng 2014 ra đời đã góp phần quan trọng vào tiến trình này. 1 Tuy nhiên trong thực tiễn áp dụng, Luật Công chứng 2014 đang bộc lộ một số hạn chế trong hoạt động quản lý nhà nước và hiệu quả hoạt động của các tổ chức hành nghề công chứng. Hoạt động quản lý nhà nước đối với các tổ chức hành nghề công chứng nói chung và đối với tỉnh Đắk Lắk nói riêng đang còn gặp nhiều bất cập như: phân bố các VPCC không đồng đều ở các địa bàn trong tỉnh; chưa thành lập được các VPCC ở huyện vùng sâu, vùng xa; công tác thanh tra, kiểm tra đối với các tổ chức hành nghề công chứng không được tiến hành thường xuyên; chưa có sự phối hợp với các thủ tục hành chính khác liên quan, khiến người yêu cầu công chứng phải mất nhiều thời gian, công sức; chưa phát huy hết các ưu điểm và khắc phục các nhược điểm của việc chứng thực tại ủy ban nhân dân cấp xã - một hình thức chứng thức thông dụng hiện nay… Xuất phát từ thực tiễn đó, tôi chọn đề tài "Quản lý nhà nước đối với tổ chức hành nghề công chứng từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk" làm đề tài luận văn Thạc sĩ Luật học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu của đề tài Hoạt động công chứng xuất hiện khá sớm ở Việt Nam, kể từ khi thực dân Pháp thiết lập chế độ bảo hộ ở nước ta. Hoạt động công chứng của nước ta ở giai đoạn này đều áp dụng theo mô hình của Pháp chủ yếu phục vụ cho chính sách cai trị của Pháp tại Đông Dương nói chung và Việt Nam nói riêng. Trong một khoảng thời gian dài, nước ta có rất ít quy phạm điều chỉnh hoạt động công chứng, chứng thực. Hoạt động công chứng, chứng thực thời kỳ phân chia hai miền Nam - Bắc (1954-1975) và từ khi thống nhất đất nước (sau năm 1975) cũng chưa phổ biến và chưa được điều chỉnh bằng các văn bản luật chi tiết.Mãi đến ngày 29/11/2006, Quốc hội thông qua Luật công chứng, chính thức có hiệu lực thi hành vào ngày 1/7/2007 nhằm điều chỉnh hoạt động công chứng diễn ra ngày càng phức tạp do những nhu cầu về công chứng của nhân dân ngày càng cao. So với những văn bản quy phạm pháp luật khác điều chỉnh các hành vi trong xã hội, chế định pháp luật điều chỉnh hoạt động công chứng xuất hiện muộn hơn trong hệ thống pháp luật nước ta, nhưng nhiều công trình, đề tài nghiên cứu về lĩnh vực này đã được các học giả quan tâm nghiên cứu từ lâu nay. Trước khi Luật Công chứng số 82/2006/QH11 2 được ban hành, có thể kể đến các công trình: Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng và hoàn thiện tổ chức và hoạt động công chứng ở Việt Nam, do Viện Khoa học Pháp lý - Bộ Tư pháp chủ trì vào năm 1993; Công chứng nhà nước những vấn đề lý luận và thực tiễn ở nước ta, Luận văn thạc sĩ của tác giả Trần Ngọc Nga; Những vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc xác định phạm vi, nội dung hành vi công chứng và giá trị pháp lý của văn bản công chứng ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ của tác giả Đặng Văn Khanh năm 2000; Tổ Chức và hoạt động công chứng nhà nước ở nước ta hiện nay, Luận án tiến sĩ của tác giả Dương Khánh năm 2002. Và nhiều đề tài nghiên cứu sau khi Luật Công chứng 2014 có hiệu lực, như: Xã hội hóa công chứng ở Việt Nam hiện nay, của tác giả Lê Thị Phương Hoa năm 2013; Thực hiện pháp luật công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội của tác giả Nguyễn Thanh Hà năm 2014; Thẩm quyền của Ủy ban nhân dân trong lĩnh vực thực hiện các việc công chứng, luận văn thạc sĩ của tác giả Lê Thị Thúy; Hoàn thiện pháp luật về công chứng, chứng thực ở Việt Nam hiện nay - lý luận và thực tiễn, Luận văn thạc sĩ của tác giả Tuấn Đạo Thanh; Nâng cao hiệu quả hoạt động công chứng ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Chí Thiện; Luận văn thạc sĩ Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với các tổ chức hành nghề công chứng tại tỉnh Phú Yên năm 2017 của tác giả Trương Nữ Trần Chung; Quản lý nhà nước về công chứng trong lĩnh vực chuyển nhượng tài sản từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh của tác giả Vi Châu Khánh năm 2018... Luận án tiến sĩ của tác giả Đặng Văn Khanh năm 2000 về đề tài Những vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc xác định phạm vi, nội dung hành vi công chứng và giá trị pháp lý của văn bản công chứng ở nước ta hiện nay gần như là một trong những tác phẩm trước nhất nghiên cứu chuyên sâu về hoạt động công chứng. Luận án đã đưa ra những phân tích mang tính lý luận và thực tiễn về hoạt động công chứng ở Việt Nam thời kỳ đầu đổi mới. Tác phẩm phân tích bản chất hoạt động của hành vi công chứng và giá trị pháp lý của văn bản công chứng mang lại. Đặt trong bối cảnh hoạt động công chứng ở Việt Nam lúc bấy giờ diễn ra khá ít, không phát triển công trình khoa học của tác giả Đặng Văn Khanh đã đem đến những phân tích, đánh giá sâu rộng hoạt động này. Một trong số đó là kết luận “không nên xem công chứng là việc “chứng nhận” các hợp đồng, giấy tờ. Mà phải quan niệm công chứng là việc “tạo lập” các hợp đồng, giấy tờ nhằm 3 đem lại cho hợp đồng, giấy tờ đó dấu ấn của công quyền” nhằm tạo những chứng cứ không thể phản bác, đảm bảo an toàn về mặt pháp lý cho các giao dịch kinh tế, dân sự. Năm 2014, tại thời điểm Luật Công chứng 2006 đang còn hiệu lực thi hành, Luận văn thạc sĩ Thực hiện pháp luật công chứng trên địa bàn thành phố Hà Nội của tác giả Nguyễn Thanh Hà đã chỉ ra được những bất cập của Luật Công chứng năm 2006 trong quá trình áp dụng. Như tình trạng: tiêu chuẩn Công chứng viên, tiêu chuẩn thành lập VPCC còn quy định đơn giản, chưa chặt chẽ; sau khi thành lập thiếu sự kiểm tra, thanh tra của cơ quan quản lý nhà nước; chưa có quy định về việc chuyển đổi mô hình VPCC do một công chứng viên thành lập sang mô hình VPCC do 2 công chứng viên trở lên thành lập và ngược lại; chưa quy định việc chia sẻ và khai thác cơ sở dữ liệu công chứng giữa tổ chức hành nghề công chứng và các cơ quan liên quan. Thủ tục công chứng chưa cụ thể, rõ ràng, chưa có sự phối hợp, liên thông với các thủ tục hành chính khác liên quan… Từ những phân tích trên, Luận văn đã làm sáng tỏ hiệu quả hoạt động áp dụng pháp luật công chứng trong giai đoạn này, đưa ra các đề xuất giải pháp hoàn thiện, nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật công chứng ở Việt Nam nói chung. Luận văn thạc sĩ Quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với các tổ chức hành nghề công chứng tại tỉnh Phú Yên năm 2017 của tác giả Trương Nữ Trần Chung tập trung vào nội dung lý luận về quản lý nhà nướcvà chức năng quản lý của Nhà nước đặc biệt trong lĩnh vực công chứng. Luận văn đưa ra những nguyên nhân dẫn đến quản lý chưa hiệu quả các tổ chức hành nghề công chứng từ công đoạn ban hành văn bản quy phạm pháp luật, như: một số văn bản còn chồng chéo nhau về nội dung; một số văn bản quy phạm pháp luật chưa có văn bản hướng dẫn thi hành kịp thời, hoặc nếu có thì nội dung lại chưa cụ thể; tính minh bạch, hệ thống của pháp luật còn hạn chế. Phát triển nguồn công chứng viên, nâng cao chất lượng của các VPCC đi kèm với số lượng xây dựng lộ trình phát triển, hoàn thiện mô hình VPCC, xây dựng cơ sở dữ liệu, thông tin ngăn chặn... Luận văn của tác giả Hà Lan Hương về đề tài Đánh giá thực trạng công tác công chứng, chứng thực các giao dịch về đất đai trên địa bàn quận Đống Đa, tp. Hà Nội tập trung phân tích các giao dịch liên quan đến bất động sản phải được công chứng, chứng thực và hoạt động của các tổ chức hành nghề công chứng khi thực hiện công chứng các 4 giao dịch liên quan đến loại tài sản này. Nhìn chung, luận văn mới dừng lại ở mức khái quát về mặt lý luận quy định của pháp luật đối với các chủ thể có liên quan khi thực hiện các quyền và nghĩa vụ liên quan đến quyền sử dụng đất (QSDĐ). Từ đó tác giả nêu ra của một vài thực trạng trong hoạt động công chứng, chứng thực các giao dịch liên quan đến loại hình giao dịch này. Cũng nghiên cứu về nội dung liên quan đến hoạt động công chứng trong lĩnh vực chuyển nhượng tài sản, đặc biệt là bất động sản, là Luận văn thạc sĩ của tác giả Vi Châu Khánh năm 2018 về: Quản lý nhà nước về công chứng trong lĩnh vực chuyển nhượng tài sản từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh. Luận văn này trình bày được hai vấn đề lớn đó là những vấn đề lý luận về công chứng và nội dung quản lý nhà nước về hoạt động này trong lĩnh vực chuyển nhượng tài sản. Đặt trong bối cảnh luận văn nghiên cứu sau khi Luật Công chứng 2014 ra đời và có hiệu lực, cộng với thực tiễn phát triển của một trong những thành phố lớn nhất ở Việt Nam, như Hồ Chí Minh, luận văn đã nêu ra được những đánh giá giá trị thực thi của các văn bản pháp luật công chứng sau vài năm thực hiện, hiệu quả đạt được và những mặt hạn chế phát sinh trong giai đoạn này. Có thể thấy, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu hoạt động công chứng ở những góc độ khác nhau từ khái quát lý luận đến thực tiễn áp dụng trong một số lĩnh vực, địa bàn khác nhau. Các đề tài, công trình nghiên cứu trên đã nghiên cứu những vấn đề mang tính tổng thể hoặc những khía cạnh, phạm vi cụ thể khác nhau của hoạt động công chứng. Nhưng đến nay, chưa có công trình nghiên cứu nào đi sâu về quản lý nhà nước đối với hoạt động của các tổ chức hành nghề công chứng, đặc biệt trong phạm vi một địa phương cụ thể: tỉnh Đắk Lắk. Có thể khẳng định, đề tài Quản lý nhà nước đối với các tổ chức hành nghề công chứng từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk là đề tài đầu tiên nghiên cứu về khía cạnh này. Trong quá trình nghiên cứu đề tài này, tác giả cũng cần phải kế thừa, vận dụng có chọn lọc những kết quả nghiên cứu của các công trình nêu trên. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1 Mục tiêu nghiên cứu Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận một cách có hệ thống về hoạt động quản lý nhà nước đối với các tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk từ khi Luật Công chứng 2014 có hiệu lực thi hành, để từ đó đề xuất hướng nâng 5 cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với các tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn tỉnh. 3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu - Phân tích một số vấn đề lý luận và pháp lý về quản lý nhà nước, công chứng và tổ chức hành nghề công chứng. - Đánh giá kết quả quản lý nhà nước đối với các tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk, xác định những hạn chế, vướng mắc còn tồn tại trong quá trình thực hiện quản lý nhà nước. - Đề xuất những kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước đối với các tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. 4. Đối tượng và Phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt động quản lý nhà nước đối với các tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. Phạm vi nghiên cứu: - Về thời gian: Thực tiễn thực hiện pháp luật về hoạt động công chứng và hoạt động quản lý nhà nước đối với các tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk từ năm 2014 đến nay. - Về không gian: Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định về quản lý nhà nước đối với các tổ chức hành nghề công chứng và phân tích những vướng mắc, bất cập từ thực tiễn áp dụng pháp luật trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận Để hoàn thành các mục tiêu nghiên cứu, trong quá trình nghiên cứu thực hiện đề tài, luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng và duy vật lịch sử; quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, về cải cách hành chính, cải cách tư pháp và đổi mới hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung, bổ trợ tư pháp nói riêng. 5.2. Phương pháp nghiên cứu 6 Trong quá trình nghiên cứu và trình bày, luận văn sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu khoa học khác nhau bao gồm: phương pháp phân tích, tổng hợp; Phương pháp thống kê, so sánh; các phương pháp điều tra, phân tích thực tiễn tổ chức và hoạt động của các tổ chức hành nghề công chứng, quản lý nhà nước về công chứng trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn Luận văn đóng góp thêm những vấn đề lý luận quản lý nhà nước đối với các tổ chức hành nghề công chứng đặc biệt từ thực tiễn của tỉnh Đắk Lắk. Từ đó, tác giả hy vọng luận văn có thể mang lại những đề xuất nhằm khắc phục phần nào những hạn chế còn tồn tại, là cơ sở để hoàn thiện pháp luật về quản lý nhà nước đối với các tổ chức hành nghề công chứng, giúp nâng cao hiệu quả hoạt động công chứng trên địa bàn tỉnh nói chung và hoạt động quản lý nhà nước đối với các tổ chức hành nghề công chứng nói riêng. Đồng thời đưa hoạt động công chứng thực sự là một công cụ hữu hiệu của nhà nước trong việc điều chỉnh các quan hệ pháp luật về dân sự. 7. Kết cấu Luận văn Ngoài Phần mở đầu, Phần kết luận, danh mục bảng biểu và danh mục tài liệu tham khảo nội dung của luận văn gồm 3 chương: CHƯƠNG 1: Những vấn đề lý luận – pháp lý về quản lý nhà nước đối với các tổ chức hành nghề công chứng CHƯƠNG 2: Thực trạng quản lý nhà nước đối với các tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk CHƯƠNG 3: Định hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với các tổ chức hành nghề công chứng 7 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN – PHÁP LÝ VỀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CÁC TỔ CHỨC HÀNH NGHỀ CÔNG CHỨNG 1.1. Khái quát chung về công chứng và tổ chức hành nghề công chứng 1.1.1. Khái niệm công chứng và tổ chức hành nghề công chứng  Khái niệm công chứng Nguồn gốc của hoạt động công chứng có từ thời Ai Cập cổ đại, thời đại mà việc “chính thức hóa” các văn bản ghi chép trở nên quan trọng với nhân loại lúc bấy giờ. Ở Ai Cập cổ đại vào năm 2750-2250 trước Công nguyên, người Ai Cập cổ đại “sesh” hay người chép sách ở Vương quốc cổ Ai Cập được biết đến là những người chép biên niên sử đầu tiên được lịch sử ghi lại. Những người chép sách góp phần tạo nên một cấp độ của bộ máy quan liêu thời Ai Cập cổ đại. Từ thư cá nhân cho đến các tuyên bố chính thức, hồ sơ thuế và các tài liệu khác đều qua tay họ. Nguồn gốc của thuật ngữ “notary” (công chứng viên) trong Tiếng Anh bắt nguồn từ thuật ngữ “notarius”.Thời La Mã cổ đại, trước năm 535 TCN, những ông tổ thực sự của các công chứng viên được sinh ra ở Đế chế La Mã.Nhiều người cho rằng Công chứng viên đầu tiên trong lịch sử là một người nô lệ La Mã tên là Tiro. Ông đã phát minh ra một hệ thống viết tốc ký, mà ông gọi là notae nhằm để ghi chép lại bài phát biểu của nhà hùng biện nổi tiếng lúc bấy giờ Cicero. Những người viết tốc ký khác được biết đến với cái tên notarii và scribae. Thời bấy giờ, việc biết đọc biết viết không được phổ biến rộng rãi, các công chứng viên hay còn gọi là các “notarius” là người soạn hợp đồng, di chúc hoặc các loại tài liệu quan trọng khác có tính phí. Với sự phát triển của đế chế La Mã, tỷ lệ biết chữ tăng lên, nhu cầu về công chứng viên cũng tăng lên. Sau này, vào thế kỷ XV, một công chứng viên đã đồng hành cùng Christopher Columbus trong chuyến hải trình của ông ấy để đảm bảo vua Ferdinand và hoàng hậu Isabella rằng tất cả những phát hiện đều được công chứng ghi chép đầy đủ. Công chứng viên được xem là một công chức được ủy quyền công khai để phục vụ như một người vô tư, không thiên vị làm chứng cho việc ký kết giấy tờ pháp lý. Việc ký kết hợp đồng này thường bao gồm chứng thư chuyển nhượng bất động sản, bản khai có tuyên thệ, di chúc, văn bản ủy quyền. Mục đích chính của công chứng viên là để ngăn 8 cản sự gian lận. Công chứng viên không được từ chối làm chứng một văn bản dựa vào chủng tộc, quốc gia, vùng miền hay giới tính [56]. Công chứng là việc công chứng viên chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch khác bằng văn bản mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng. Trong khi đó,“chứng thực” là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền căn cứ vào bản chính để chứng thực bản sao là đúng với bản chính, hoặc chứng thực chữ ký trong các giấy tờ, văn bản là chữ ký của người đã yêu cầu chứng thực. Công chứng viên đóng vai trò là một nhân chứng vô tư, không vụ lợi xác nhận danh tính của người ký vào văn bản [54, tr.4]. Từ điển Hán-Việt (của tác giả Đào Duy Anh), Nxb. Khoa học và Xã hội ấn hành năm 2004, đưa ra định nghĩa về công chứng như sau: “Công chứng có nghĩa là lấy quyền công mà làm chứng”. Theo từ điển Black’s Law Dictionary 8th định nghĩa công chứng viên là người được nhà nước trao quyền để quản lý thi hành việc tuyên thệ, chứng nhận văn bản, chứng thực tính xác thực của chữ ký và chính thức hóa các hành vi trong lĩnh vực thương mại như xác nhận công cụ chuyển nhượng “negotiable instruments”. Trong Nghị định số 45/HĐBT ngày 27/02/1991 của Hội đồng Bộ trưởng về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước, Điều 1 xác định: “Công chứng nhà nước là việc chứng nhận tính xác thực các hợp đồng và giấy tờ theo quy định của pháp luật, nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội (sau đây gọi chung là các tổ chức), góp phần phòng ngừa vi phạm pháp luật, tăng cường pháp chế XHCN. Các hợp đồng và giấy tờ đã được công chứng có giá trị chứng cứ”. Nghị định số 31/CP ngày 18/5/1996 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động công chứng nhà nước, khái niệm công chứng được nêu tại Điều 1: “Công chứng là việc chứng nhận tính xác thực của các hợp đồng và giấy tờ theo quy định của pháp luật, nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân và cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội (sau đây gọi chung là tổ chức), góp phần phòng ngừa vi phạm pháp luật, tăng cường pháp chế XHCN. Các hợp đồng và giấy tờ đã được công chứng nhà nước chứng nhận hoặc Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền chứng thực có giá trị chứng cứ, trừ trường hợp bị Tòa án nhân dân tuyên bố là vô hiệu”. 9 Sau 5 năm, khái niệm “công chứng” được sửa đổi theo Nghị định số 75/2000/NĐCP ngày 08/12/2001 của Chính phủ về công chứng, chứng thực Khoản 1, Điều 2 ghi rõ: “Công chứng là việc Phòng Công chứng chứng nhận tính xác thực của hợp đồng được giao kết hoặc giao dịch khác được xác lập trong quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại và quan hệ xã hội khác (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch) và thực hiện các việc khác theo quy định của Nghị định này; Chứng thực là việc Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã xác nhận sao y giấy tờ, hợp đồng, giao dịch và chữ ký của cá nhân trong các giấy tờ phục vụ cho việc thực hiện các giao dịch của họ theo quy định của Nghị định này”. Theo Điều 2 Luật Công chứng 2006: “Công chứng là việc công chứng viên chứng nhận tính xác thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch khác (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch) bằng văn bản mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng”. Khoản 1 Điều 2 Luật Công chứng 2014: “Công chứng là việc công chứng viên của một tổ chức HNCC chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch dân sự khác bằng văn bản (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch), tính chính xác, hợp pháp, không trái đạo đức xã hội của bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt (sau đây gọi là bản dịch) mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu công chứng”. Như vậy từ những khái niệm nêu trên có thể kết luận, công chứng là việc công chứng viên thực hiện quyền mà nhà nước trao cho để chứng nhận tính hợp pháp, tính xác thực của hợp đồng giao dịch.  Khái niệm tổ chức hành nghề công chứng: Vào thời kỳ đầu của hoạt động công chứng, Nhà nước ta không thành lập cơ quan công chứng chuyên trách. Mọi động có tính chất công chứng đều do Ủy ban nhân dân cấp cơ sở thực hiện theo hình thức thị thực, chứng thực trên cơ sở Sắc lệnh số 59/SL ngày 15/11/1945 ấn định Thể lệ về việc thị thực các giấy tờ và Sắc lệnh số 85/SL ngày 29/02/1952 về Thể lệ trước bạ về các việc mua, bán, cho, đổi nhà cửa, ruộng đất [25, tr.3]. Sự ra đời của thông tư số 574/QLTPK hướng dẫn công tác công chứng Nhà nước ngày 10/07/1987 do Bộ Tư pháp ban hành, Thông tư số 858/QLTPK ngày 15/10/1987 của Bộ Tư pháp hướng dẫn thực hiện các việc làm công chứng và Nghị định số 45/CP về 10 tổ chức và hoạt động của Công chứng nhà nước ngày 27/02/1991 do Chính phủ ban hành là bước khởi đầu cho quá trình hình thành và hoạt động của các phòng công chứng trên cả nước. Lúc bấy giờ tổ chức HNCC là cơ quan nhà nước hoạt động với mục đích giúp các cá nhân, tổ chức lập và xác nhận các văn bản, sự kiện có ý nghĩa pháp lý, hợp pháp hóa và làm cho các văn bản, sự kiện đó có hiệu lực thực hiện. Trải qua giai đoạn phát triển của lịch sử, từ việc ghi nhận văn bản pháp luật đầu tiên quy định về tổ chức hoạt động công chứng ở Việt Nam trong Nghị định số 45/HĐBT, đến việc ghi nhận sự thay đổi trong thuật ngữ “phòng công chứng nhà nước” và “phòng công chứng” đánh dấu quá trình xã hội hóa công chứng trong Nghị định số 75/2000/NĐ-CP. Theo định nghĩa về công chứng trong Nghị định này, có thể rút ra được định nghĩa tổ chức HNCC là nơi thực hiện việc chứng nhận tính xác thực của hợp đồng được giao kết hoặc giao dịch khác được xác lập trong quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại và quan hệ xã hội khác. Luật công chứng năm 2006 đánh dấu một dấu mốc quan trọng với sự xuất hiện của tổ chức công chứng của tư nhân là VPCC. Sự ra đời của VPCC là kết quả của quá trình thay đổi về tư duy và nhận thức về nền kinh tế thị trường của Đảng và nhà nước Việt Nam, từ chỗ hoạt động công chứng chỉ do nhà nước độc quyền thực hiện cho tới việc chuyển giao quyền nay cho tổ chức tư nhân thay mặt nhà nước cung cấp dịch vụ công. Như vậy, tổ chức HNCC hiện nay không phải là cơ quan nhà nước, mà nó tồn tại hai loại hình: là đơn vị sự nghiệp công lập đối với Phòng công chứng, và là công ty hợp danh đối với VPCC. Tuy được xây dựng thành hai loại hình khác nhau, pháp luật vẫn xây dựng quy định chung về quyền và nghĩa vụ cho các tổ chức HNCC này, mà không có sự phân biệt giữa nhà nước và tư nhân. Như vậy, tổ chức HNCC là nơi chứng nhận tính xác thực, hợp pháp của hợp đồng, giao dịch dân sự bao gồm Phòng công chứng và Văn phòng công chứng. bao gồm Phòng công chứng và Văn phòng công chứng được tổ chức và hoạt động theo quy định của Luật Công chứng và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan. 1.1.2. Đặc điểm, nguyên tắc của hoạt động công chứng 11 Công chứng là hành động xác thực, là đặc điểm của hệ thống công chứng dân luật. Nó phản ánh trung thực ý chí của các bên. Hoạt động này yêu cầu một vài yếu tố cần thiết như sau: - Hoạt động công chứng phải tuân thủ pháp luật. Công chứng viên kiểm tra, đảm bảo hành vi. Họ kiểm tra tính pháp lý của các hợp đồng, thông báo cho khách hàng biết về những về các quy định pháp luật hiện hành và đảm bảo sự tuân thủ pháp luật. - Hành vi công chứng có hiệu lực chứng minh rằng các hành vi đã được công nhận và được kiểm tra bởi công chứng viên là chính xác và không thể bác bỏ. - Ở hầu hết các quốc gia, hành vi công chứng có hiệu lực thi hành tương đương với một phán quyết của tòa án. Công chứng đảm bảo tính minh bạch. Hành vi công chứng là hành động xác thực, là bằng chứng về thời gian, danh tính, chữ ký và tập hợp ý chí của các bên do đó có hiệu lực thi hành giữa các bên. Ở nhiều quốc gia, hoạt động công chứng được phép thu thuế đối với những hành vi công chứng chuyển nhượng tài sản. Nghĩa vụ phải đăng ký công chứng đối với một số hoạt động đồng thời giúp chống lại việc trốn thuế. Hoạt động công chứng là một tập các sự kiện của một quốc gia. Công chứng viên đảm bảo chúng được lưu giữ dù dưới dạng soạn thảo trên giấy hay trên dữ liệu điện tử. Tính xác thực trong hoạt động công chứng (i) Xác định đúng người: Nghĩa là xác định đúng người yêu cầu công chứng thông qua giấy tờ tùy thân của họ. Đồng thời, xác định họ phải trong trạng thái tinh thần thoải mái, tự nguyện, không chịu bất kỳ một sức ép nào từ phía bên ngoài và họ hoàn toàn ý thức được hậu quả việc làm của mình. (ii) Xác định đúng việc: Người yêu cầu công chứng phải xuất trình đủ các giấy tờ, tài liệu có liên quan đến hợp đồng, giao dịch đó. (iii) Xác định bản chất thực của các hợp đồng, giao dịch: Công chứng viên phải xác định xem những thỏa thuận của các bên đương sự có phản ánh đúng ý chí, nguyện vọng của họ hay không, các thỏa thuận này có nhằm che giấu bất kỳ một mục đích nào khác hay không. Hoạt động của công chứng vừa mang tính công quyền vừa mang tính chất dịch vụ công. Tính công quyền thể hiện ở chỗ công chứng viên của phòng công chứng hay của các VPCC đều do Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm để công chứng các hợp đồng giao 12 dịch giữa các tổ chức, công dân theo quy định của pháp luật. Khi tác nghiệp, công chứng viên nhân danh nhà nước thực thi công việc. Hoạt động công chứng còn mang tính chất dịch vụ công, tức là thực hiện một loại dịch vụ của Nhà nước nhưng được Nhà nước giao cho tổ chức HNCC đảm nhiệm, đó là công chứng các hợp đồng giao dịch mà các tổ chức và cá nhân yêu cầu. Ở các nước khác, hoạt động công chứng cũng mang bản chất của là dịch vụ công. Xuất phát từ thực tế các mối quan hệ xã hội và hành vi công dân cần được pháp luật điều chỉnh diễn ra một cách thường xuyên, liên tục theo các quá trình kinh tế - xã hội, nền hành chính Nhà nước phải hoạt động liên tục, ổn định để đảm bảo hoạt động sản xuất, lưu thông không bị gián đoạn trong bất kỳ tình huống nào. Hoạt động công chứng cũng phải đảm bảo được nguyên tắc này vì về bản chất hoạt động công chứng mang đặc điểm của dịch vụ công, nhằm hướng tới các lợi ích sau: - Lợi ích của các bên tham gia giao dịch: Công chứng giúp cho các tổ chức, cá nhân thực hiện các giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại theo đúng pháp luật, nhờ đó giảm thiểu tranh chấp, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân tham gia giao dịch. - Lợi ích của nhà nước: Hoạt động công chứng góp phần làm cho các giao dịch dân sự, kinh tế, thương mại được thực hiện theo đúng khuôn khổ của pháp luật, góp phần tăng cường pháp chế XHCN. Công chứng viên có sự độc lập, trong tác nghiệp chuyên môn, công chứng viên không chịu trách nhiệm trước các cơ quan cơ quan cấp trên hay trước trưởng phòng, trưởng văn phòng mà tự chịu trách nhiệm trước pháp luật. Vì vậy, trong tác nghiệp chuyên môn, công chứng viên không bị lệ thuộc vào cấp trên. Khi thực hiện hoạt động công chứng, tổ chức HNCC được thu phí và thù lao công chứng theo quy định. Các tổ chức HNCC được Nhà nước chuyển giao cho một phần quyền của Nhà nước để thực hiện chức năng của Nhà nước trong một lĩnh vực cụ thể là công chứng các hợp đồng giao dịch. Đồng thời, Nhà nước cũng chuyển giao cho các tổ chức HNCC một trách nhiệm và nghĩa vụ lớn là phải thực hiện công chứng một cách đúng pháp luật và đảm bảo được lợi ích của Nhà nước. 13 Như vậy, công chứng là hành vi của công chứng viên hành nghề theo sự ủy quyền của nhà nước. Điều này phân biệt với chứng thực là hành vi của người đại diện của cơ quan hành chính công quyền. Tính xác thực của hợp đồng, giao dịch khác được công chứng viên xác nhận. Tính xác thực của các tình tiết, sự kiện trong hợp đồng, giao dịch khác là vô cùng quan trọng nhằm bảo đảm cho chúng có giá trị chứng cứ. Trong pháp luật về tố tụng, khi nói đến chứng cứ thì bao giờ cũng đề cao tính xác thực của các sự kiện, tình tiết có thực, khách quan được coi là chứng cứ. Văn bản công chứng được coi là có giá trị chứng cứ cũng là do tính xác thực của các tình tiết, sự kiện có trong văn bản đó đã được công chứng viên xác nhận. Yếu tố này được công chứng viên kiểm chứng và xác nhận ngay khi nó xảy ra trong thực tế, trong số đó có những tình tiết, sự kiện chỉ xảy ra một lần, không để lại hình dạng, dấu vết về sau (ví dụ: sự tự nguyện, ý chí của các bên khi ký kết hợp đồng) và do đó, nếu không có công chứng viên xác nhận thì về sau rất dễ xảy ra tranh chấp mà tòa án không thể xác minh được. Công chứng viên xác nhận tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch. Đặc điểm này ghi nhận ở mô hình công chứng nội dung (công chứng hệ Latinh) khác biệt hoàn toàn so với mô hình công chứng hình thức (công chứng hệ Anglosaxon). Trong công chứng hệ Latinh thì các hợp đồng, giao dịch hợp pháp mới được công chứng viên xác nhận; những hợp đồng, giao dịch bất hợp pháp thì bị từ chối công chứng. Đặc điểm này của công chứng hệ Latinh quy định chức năng phòng ngừa các tranh chấp trong hợp đồng, giao dịch khác của công chứng. 1.1.3. Phân loại các tổ chức hành nghề công chứng Từ thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân các cấp thấy rằng, nhiều vụ án tranh chấp dân sự (theo nghĩa rộng) phát sinh là do nguyên nhân trong quá trình giao kết hợp đồng, giao dịch, các chủ thể không thực hiện đúng quy định về tư cách chủ thể, về hình thức, trình tự, thủ tục; nội dung thỏa thuận vi phạm quy định pháp luật. Để thuận lợi cho người dân và bảo đảm an toàn pháp lý của các hợp đồng, giao dịch dân sự, hạn chế tranh chấp dân sự xảy ra, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã xác định nhiệm vụ về hoàn thiện các chế định bổ trợ tư pháp, trong đó có nhiệm vụ “Hoàn thiện chế định công chứng. Xác định rõ phạm vi của công chứng và chứng thực, giá trị pháp lý của văn bản công chứng. Xây dựng mô hình QLNN về công chứng theo hướng Nhà nước chỉ tổ chức cơ quan công chứng thích hợp; 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan