ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------
NGUYỄN VĂN HUẤN
QUAN NIỆM CỦA G.W.F. HEGEL VỀ NHÀ NƯỚC
TRONG TÁC PHẨM
CÁC NGUYÊN LÝ CỦA TRIẾT HỌC PHÁP QUYỀN
LUẬN VĂN THẠC SĨ
HÀ NỘI – 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------
NGUYỄN VĂN HUẤN
QUAN NIỆM CỦA G.W.F. HEGEL VỀ NHÀ NƯỚC
TRONG TÁC PHẨM
CÁC NGUYÊN LÝ CỦA TRIẾT HỌC PHÁP QUYỀN
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: TRIẾT HỌC
Mã ngành: 60.22.03.01
Người huớng dẫn: PGS.TS. Đỗ Minh Hợp
HÀ NỘI – 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới
sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Đỗ Minh Hợp. Các kết quả
nghiên cứu trong luận văn này là hoàn toàn trung thực và chưa từng
được công bố. Các thông tin, tài liệu trình bày trong luận văn có xuất
xứ rõ ràng.
Hà Nội, ngày 19 tháng 09 năm 2014
Học viên
Nguyễn Văn Huấn
Lời cảm ơn!
Để hoàn thành luận văn này, bên cạnh sự nỗ lực của bản thân, tôi đã
nhận được rất nhiều sự quan tâm và giúp đỡ của tất cả các thầy cô giáo
cùng các đồng nghiệp và gia đình.
Trước hết, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới PGS.TS. Đỗ Minh Hợp đã tận
tình hướng dẫn, chỉ bảo tôi trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận
văn. Thầy không chỉ truyền đạt cho tôi những kiến thức và phương pháp
quan trọng trong quá trình nghiên cứu khoa học mà còn hết lòng giúp đỡ,
động viên, tin tưởng và cho tôi những bài học sâu sắc về cuộc sống.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới tập thể các thầy cô giáo Khoa Triết học,
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội đã nhiệt tình dạy
dỗ, trang bị cho tôi những kiến thức quan trọng trong 6 năm học. Những
kiến thức này chính là nền tảng cho quá trình nghiên cứu và hoàn thành
luận văn.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo đã trực tiếp giảng dạy tôi
những chuyên đề quan trọng và bổ ích trong quá trình học cao học vừa qua.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới gia đình và tất cả
bạn bè đã ủng hộ, động viên, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập.
Học viên
Nguyễn Văn Huấn
MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU ................................................................................................. 1
Chương 1 BỐI CẢNH LỊCH SỬ VÀ TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN CHO SỰ
HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG CỦA G.W.F.HEGEL VỀ NHÀ NƯỚC
TRONG TÁC PHẨM CÁC NGUYÊN LÝ CỦA TRIẾT HỌC PHÁP
QUYỀN ....................................................................................................... 14
1.1 Bối cảnh lịch sử Tây Âu và nước Phổ cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ
XIX ........................................................................................................... 14
1.2 Tiền đề lý luận cho sự hình thành tư tưởng của Hegel về nhà nước ........ 25
1.3 Khái quát tác phẩm “Các nguyên lý của triết học pháp quyền” ........ 45
Chương 2 NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG G.W.F.HEGEL
VỀ NHÀ NƯỚC TRONG TÁC PHẨM CÁC NGUYÊN LÝ CỦA TRIẾT
HỌC PHÁP QUYỀN .................................................................................. 54
2.1. Về mối quan hệ giữa xã hội dân sự và Nhà nước ............................. 54
2.2. Về Hiến pháp, pháp luật và vai trò của chúng trong Nhà nước........ 63
2.3 Vấn đề quyền lực nhà nước ............................................................... 71
2.4 Vấn đề quyền con người trong Nhà nước .......................................... 80
2.5 Bước đầu đánh giá hạn chế và ý nghĩa quan niệm của Hegel về nhà
nước trong tác phẩm Các nguyên lý của triết học pháp quyền................ 90
2.5.1 Đánh giá của C.Mác, Ph.Ăngghen về hạn chế của quan niệm Hegel
về Nhà nước ............................................................................................. 90
2.5.2 Ý nghĩa hiện thời quan niệm của Hegel về nhà nước.................. 97
C. KẾT LUẬN ......................................................................................... 102
CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN VĂN ................................. 107
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................... 108
A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.Những thảm họa (hai cuộc thế chiến, sự xung đột kéo dài gần nửa thế
kỷ - chiến tranh lạnh, sự đàn áp và sát hại hàng chục triệu người vô tội ở các
chế độ toàn trị, v.v.) đã giáng xuống đầu nhân loại ở thế kỷ XX, sự thất bại
của các nhà nước xã hội ở Tây Âu, sự phá sản của các nước xã hội ở Liên Xô
cũ và Đông Âu đặt ra nhiều vấn đề quan trọng và gay gắt về nền tảng lý luận
(quan điểm triết học chính trị và pháp luật) của các nhà nước ấy. Trong các
tác phẩm của mình*, K.Popper đã gắn liền nguồn gốc của chế độ toàn trị với
tư duy chủ toàn bắt nguồn từ Platon và tiếp nối cho tới Hegel và Mác. Trong
văn cảnh này, việc làm rõ quan điểm triết học chính trị (quan niệm về nhà
nước và đi liền với nó là pháp luật) của Hegel có ý nghĩa lý luận và thực tiễn
cấp bách, vì nó cho phép không chỉ bảo vệ chủ nghĩa Mác và còn nghiên cứu
sâu sắc hơn cội nguồn và bản chất của nhà nước toàn trị, từ đó vạch ra con
đường khắc phục nó để xây dựng nhà nước pháp quyền.
2.Quan điểm triết học pháp quyền của Hegel nói chung và nhà nước nói
riêng được thể hiện cách hệ thống và rõ ràng trong tác phẩm nổi tiếng Các
nguyên lý của triết học pháp quyền. Nói tới triết học pháp quyền của Hegel,
Mác cho rằng, “triết học Đức về pháp quyền và về nhà nước là cái lịch sử
Đức duy nhất đứng ngang tầm với hiện thực hiện đại chính thống” 1 [6,
tr.146]. Nói cách khác, triết học pháp quyền của Hegel kết tinh, phản ánh thực
hành pháp luật thời ông trong tư tưởng. Trong triết học pháp quyền, Hegel
đưa ra các quan điểm cơ bản của ông về các vấn đề phát triển xã hội, trong đó
đặc biệt quan tâm nghiên cứu bản chất và nguồn gốc của nhà nước. Nhưng
tính chất mâu thuẫn vốn có ở triết học Hegel nói chung và ở triết học pháp
quyền nói riêng đã tạo ra nguyên cớ cho những sự lý giải đối lập nhau về
quan điểm chính trị - xã hội của ông. Vì vậy, việc nghiên cứu sâu nội dung
“Sự nghèo nàn của thuyết sử luận” (nên dịch là “Sự khốn cùng của chủ nghĩa lịch sử”, vì tác giả cố nhái lại
cách đặt tên của Mác khi phê phán Proudon trong cuốn “Sự khốn cùng của triết học”) và “Xã hội mở và kẻ
thù của nó”.
1
Những phần in nghiêng là do chúng tôi nhấn mạnh.
*
1
của triết học pháp quyền Hegel, một mặt, giúp cho việc nhận thức đúng đắn
giá trị của tư tưởng Hegel và mặt khác, làm rõ được cuộc cách mạng của Mác
trong lịch sử triết học. Ăngghen đã chỉ ra rằng, cần phán xét mỗi nhà triết học
theo những gì là có giá trị và tiến bộ trong hoạt động của nhà triết học ấy, loại
bỏ những gì là nhất thời và phản động. Theo đó, “điều quan trọng hơn nhiều
là phát hiện ra dưới hình thức không chính xác và quan hệ giả tạo ấy cái đúng
đắn và cái thiên tài” (Trích theo, 6, tr.105).
Nhưng thực tế cho thấy, nghiên cứu triết học lịch sử và triết học pháp
quyền của Hegel chưa được các nhà triết học mácxít quan tâm thỏa đáng, vì
họ coi đóng góp chủ yếu của Hegel đối với triết học mácxít chỉ là phép biện
chứng được trình bày trong Khoa học Logic. Đúng là nhận thức luận Kant và
lôgíc học Hegel có nhiều tư tưởng quý báu, nhưng hai ông còn có đóng góp
quan trọng cả trong triết học đạo đức, triết học pháp quyền và triết học lịch
sử. Thực tế, trong thế kỷ XX, ảnh hưởng và tầm quan trọng của tư tưởng triết
học chính trị của Hegel không hề giảm sút mà còn tăng lên, nhiều nhà triết
học lớn thế kỷ XX đã xét lại quan điểm của Hegel về nhà nước theo các cách
khác nhau. Thực tế này đòi hỏi chúng ta phải đưa ra thái độ của mình đối với
triết học chính trị của Hegel.
3.Thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam đặt ra nhiều vấn
đề lý luận về nhà nước. Giải quyết các vấn đề lý luận này, chúng ta cần tiếp
thu những tư tưởng triết học về nhà nước. Trong lịch sử tư tưởng triết học về
nhà nước phương Tây, Hegel với tác phẩm Các nguyên lý của triết học pháp
quyền (nguyên gốc tiếng Đức: Grundlinien der Philosophie des Rechts) thể
hiện ra là một trong những người có ảnh hưởng lớn nhất. Tư tưởng triết học
của Hegel về quan hệ “xã hội - nhà nước - con người”, về mô hình “nhà nước
đạo đức”, “nhà nước mạnh” có ý nghĩa quan trọng đối với việc hoàn thiện lý
luận về nhà nước pháp quyền của Việt Nam.
2
Với những lý do trên đây, tác giả đã chọn: “Quan niệm của
G.W.F.Hegel về nhà nước trong tác phẩm Các nguyên lý của triết học
pháp quyền” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Đúng như dịch giả Lê Tuấn Huy đã viết: “Hegel, với bạn đọc triết học
Việt Nam, là một tên tuổi hết sức quen thuộc (…) đến độ, với ông, dường như
không cần gì phải tìm hiểu hơn nữa ngoài các “kết luận” đã được chuẩn hóa.
Tuy nhiên, đây lại là một nhân vật có nhiều thăng trầm trong việc đánh giá vị
trí học thuật trong lịch sử triết học, ngay ở thế kỷ XX đầy những biến động,
chứ không phải chỉ khuôn vào thời đại của ông. Đây chính là một tình tiết rất
lớn mà bấy lâu nay chúng ta ít hoặc không được biết đến” [59, tr.7]. Bởi thực
tế này, nên không chỉ riêng Hegel mà nhiều nhà triết học châu Âu nổi tiếng
khác cũng được nghiên cứu lại một cách chuyên sâu và cẩn trọng hơn như
I.Kant, Friedrich Nietzsche, Edmund Husserl, thậm chí cả các nhà thần học
Trung cổ như Thomas Von Aquin v.v. Do vậy, trong phần tổng quan nghiên
cứu này, chúng tôi tập trung phân tích các nghiên cứu ở Việt Nam về triết học
pháp quyền Hegel nói chung và quan niệm của ông về nhà nước nói riêng.
Thực tế là, cho tới nay, ở Việt Nam đã có không ít những công trình
nghiên cứu cơ bản về lôgic học, phép biện chứng, thẩm mỹ học, triết học lịch
sử, lịch sử triết học… của Hegel. Có thể kể tới các công trình như: Chân dung
triết gia Đức do Quang Chiến (Chủ biên - 2000); Loạt sách của tác giả
Nguyễn Trọng Chuẩn, Đỗ Minh Hợp viết: “Quan niệm của Hêghen về bản
chất của triết học” xuất bản năm 1998, “Vấn đề tư duy trong triết học
Hêghen” năm 1999, “Quan điểm lịch sử triết học của Hêghen” năm 2001;
cuốn “Triết học cổ điển Đức: những vấn đề nhận thức luận và đạo đức học”,
Lê Công Sự (2006), Triết học cổ điển Đức, Nguyễn Hữu Vui (Chủ biên)
(2003), Lịch sử triết học, v.v cùng một số sách giáo trình và tham khảo khác.
Về sách dịch, có thể kể tới bộ “Mỹ học” của Hegel đã được dịch giả Phan
3
Ngọc chuyển ngữ, dù chất lượng của bản dịch còn có nhiều ý kiến trái chiều
(như Phạm Thị Hoài). Về bài viết có thể kể tới loạt bài nghiên cứu của tác giả
Nguyễn Đình Tường trên Tạp chí Triết học như: “Quan niệm của Hegel về
lịch sử triết học” (1992); “Tìm hiểu nguyên tắc nghiên cứu lịch sử Hegel”
(1993); “Quan niệm của Hegel về triết học Hy Lạp cổ đại” (1994); “Quan
niệm của Hegel về triết học cận đại” (1995); “Nguyên tắc lịch sử trong triết
học Hegel” (1996); “Những đánh giá khác nhau về vai trò của triết học Hegel
trong lịch sử triết học” (1999) v.v và các nhà nghiên cứu khác.
Tuy nhiên, việc nghiên cứu quan niệm chính trị - xã hội nói chung và
triết học pháp quyền, tư tưởng về nhà nước nói riêng là vấn đề chưa được chú
ý nhiều.
Có thể nói, trong buổi đầu sự nghiệp triết học của mình, không phải ngẫu
nhiên mà Marx lại lấy triết học pháp quyền Hegel làm đối tượng phê phán
trong công trình Góp phần phê phán triết học pháp quyền Hegel. Không chỉ
bởi Marx cũng là học trò tư tưởng của Hegel (thuộc Phái Hegel trẻ) mà còn vì
lý thuyết về Nhà nước của Hegel không giải đáp được một cách khoa học và
triệt để các vấn đề của thực tiễn xã hội nước Đức khi đó. Marx cho rằng, căn
nguyên sâu xa của sự kiện trên là do Hegel đã phản ánh lộn ngược về hiện
thực xã hội, dẫn đến học thuyết về Nhà nước của Hegel có tính chất duy tâm
và có nhiều luận điểm mang tính phản động. Đây chính là cái “kết luận đã
được chuẩn hóa” mà dịch giả Lê Tuấn Huy ám chỉ trong Lời người dịch cho
tác phẩm Thông diễn học của Hegel. Cái “kết luận” có tính ấn định đó gây ấn
tượng sâu đậm trong lịch sử tiếp nhận tư tưởng về Nhà nước của Hegel. Theo
đó, hầu như không có mấy học giả đặt lại vấn đề về vai trò, ý nghĩa tích cực
của tư tưởng nhà nước của Hegel đối với thực tiễn cách mạng cho đến khi (từ
năm 2000 trở lại đây) tác phẩm của các nhà tư tưởng Châu Âu như I.Kant,
J.G.Fichte, S.Freud, F.Nietzsche, E.Husserl, Max Weber... đặc biệt là
G.W.F.Hegel được Bùi Văn Nam Sơn chuyển ngữ sang tiếng Việt. Theo đó,
4
việc nghiên cứu triết học Đức được tiến hành hệ thống hơn, chuyên sâu hơn
theo xu hướng hội nhập quốc tế. Nhưng sâu hơn thì có thể kể tới sự thay đổi
về tư duy của Đảng được đánh dấu trong Văn kiện đại hội Đảng lần thứ VII
(1991), Văn kiện Hội nghị TW 6 (Khóa VII), đặc biệt là Nghị quyết Trung
ương V (khóa VIII) có viết: “tiếp thu có chọn lọc các giá trị nhân văn, khoa
học, tiến bộ của nước ngoài”. Chính sự mở lối tư duy của Đảng đã định
hướng cách thức tiếp cận đối với tư tưởng về Nhà nước của Hegel cũng như
triết học pháp quyền của ông. Việc chỉ ra những đóng góp, những điểm tiến
bộ có ý nghĩa hiện thời cũng như ảnh hưởng của nó tới mô hình các nhà nước
phương Tây là cách ứng xử của giới học giả, nhà nghiên cứu hiện nay đối với
các học thuyết triết học chính trị tư sản.
Xét một cách tổng quát tình hình nghiên cứu quan niệm của Hegel về nhà
nước không khỏi phải bắt đầu với tác phẩm Grundlinien der Philosophie des
Rechts của Hegel (1821) đã được dịch sang tiếng Việt với tên gọi Các nguyên lý
của triết học pháp quyền do Bùi Văn Nam Sơn dịch và chú giải, được Nhà xuất
bản Tri thức ấn hành năm 2010. Cũng giống như các dịch phẩm trước đó về
Hegel như cuốn Hiện tượng học tinh thần và Khoa học Lôgic (gần đây có xuất
hiện thêm bản dịch cuốn Khoa học lôgích này của Phạm Chiến Khu), trong công
trình này, Bùi Văn Nam Sơn đã không dừng lại ở việc dịch trọn vẹn tác phẩm
kinh điển mà còn chú giải một cách công phu đến từng chương sách nhằm làm
sáng tỏ tư tưởng có tính hệ thống của Hegel. Hơn nữa, dịch giả Bùi Văn Nam
Sơn còn dày công viết Mấy lời giới thiệu và lưu ý của người dịch tác
phẩm của Hegel đem lại một cái nhìn khá toàn diện về triết học pháp quyền
Hegel cũng như quan niệm của ông về nhà nước trong dòng chảy lịch sử triết học
phương Tây. Trong phần giới thiệu, lưu ý cũng như phần chú giải (đặc biệt là ở
chương 3), Bùi Văn Nam Sơn đã làm sáng rõ, về phương diện lịch sử và lôgíc, các
khái niệm “Pháp quyền”, “Xã hội dân sự”, “Nhà nước”, “Hiến pháp”, về cấu trúc
5
khái niệm của Nhà nước, cấu trúc định chế của Nhà nước v.v. Do vậy, ấn phẩm này
chính là tài liệu cơ bản và hữu ích để chúng tôi nghiên cứu và trích dẫn.
Khái quát tình hình nghiên cứu quan niệm của Hegel về nhà nước ở Việt
Nam, có thể chia các tài liệu có liên quan đến nội dung của đề tài này thành
bốn loại hình cơ bản sau:
- Loại hình thứ nhất là công trình chuyên khảo về triết học pháp quyền
nói chung và quan niệm của Hegel về nhà nước nói riêng.
Cuốn Triết học pháp quyền của Hêghen của Nguyễn Trọng Chuẩn và Đỗ
Minh Hợp (2002) là một công trình như thế. Trong công trình này, các tác giả
đã phân tích một cách sâu sắc về bối cảnh chính trị - xã hội nước Đức, về sự
tiến hoá quan điểm chính trị của Hegel cũng như nội dung giai cấp của Triết
học pháp quyền trong chương 1 của cuốn sách: “Triết học pháp quyền trong
sự nghiệp sáng tạo của Hêghen”. Tiếp đó, chương 2, là phần quan trọng nhất
của cuốn sách, nhóm tác giả bàn tới các nội dung của triết học pháp quyền
Hegel một cách chuyên sâu và có hệ thống. Trong chương sách này, quan
niệm của Hegel về nhà nước cũng được các tác giả phân tích một cách tương
đối toàn diện và sát thực như: vấn đề bản chất của luật pháp; mối quan hệ
giữa xã hội công dân2 và nhà nước; vấn đề con người và vấn đề quan hệ giữa
nhà nước và lịch sử toàn cầu. Bên cạnh đó, nhóm tác giả còn trình bày lịch sử
tiếp nhận và lý giải về triết học pháp quyền Hegel từ Mác, Ăngghen, cho tới
Cho đến nay, nhiều học giả Việt Nam cho rằng, “xã hội dân sự” và “xã hội công dân” chỉ là hai cách
chuyển ngữ sang tiếng Việt của cùng một thuật ngữ civil society trong tiếng Anh, société civile trong tiếng
Pháp, hay bürgeliche Gesellschaft trong tiếng Đức (Nguyễn Như Phát, Bùi Xuân Đức, Bùi Việt Hương, v.v).
Bên cạnh đó, cũng có ý kiến cho rằng, đây là hai khái niệm không đồng nhất về mặt nội hàm (rộng hơn hoặc
khác nhau). Tiêu biểu như: Trần Việt Phương, Xã hội dân sự và Nhà nước pháp quyền, bài nói tại Ban
Nghiên cứu của Thủ tướng chính phủ; Phạm Văn Đức, Trần Tuấn Phong, Xã hội dân sự: từ cách nhìn của
lịch sử triết học, Tạp chí Khoa học xã hội, số 7, 2008, tr.3-12; Trần Hữu Quang, Một số quan niệm cổ điển về
xã hội dân sự, Tạp chí Khoa học xã hội, số 07 (131), 2009, trang 3-16; Tương lai, Xã hội dân sự và mấy vấn
đề của các tổ chức xã hội, Tạp chí Khoa học Pháp lý Số 4(41)/2007; Vũ Duy Phú (chủ biên), Xã hội dân sự:
Một số vấn đề chọn lọc, Nxb Tri thức v.v. Chính vì chưa có sự thống nhất về mặt thuật ngữ như trên dẫn đến
thực tế là trong không ít công trình nghiên cứu hai khái niệm này vẫn bị dùng lẫn lộn, không có sự phân tách
rõ ràng. Điều này cũng xảy ra khi nghiên cứu quan niệm của Hegel và cả Mác về bürgerliche Gesellschaft.
Trong Bộ C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, thuật ngữ tiếng Đức “Die bürgerliche Gesellschaft”, được dịch là
“xã hội công dân” và có chỗ là “xã hội thị dân”, “xã hội tư sản”. Ở đây, chúng tôi sử dụng khái niệm “xã hội
dân sự” theo bản dịch của Bùi Văn Nam Sơn, nhưng chúng tôi cho rằng, với trường hợp Hegel, khái niệm
này có nội hàm như là xã hội thị trường, xã hội tư sản, nơi mà kinh tế và lợi ích cá nhân có vai trò hết sức
quan trọng, thể hiện ra là động lực của sự phát triển xã hội.
2
6
Chủ nghĩa Hegel mới và các nhà triết học hiện đại, qua chương 3 của cuốn
sách: “Số phận lịch sử của triết học pháp quyền Hêghen”. Tuy nhiên, vấn đề
phân chia quyền lực cũng như quyền con người chưa được các tác giả chú ý
đúng mức và phân tích đầy đủ. Ngoài ra, phần tiền đề lý luận cho sự hình
thành tư tưởng về triết học pháp quyền của Hegel không được các tác giả tách
thành một nội dung riêng biệt và trình bày một cách có hệ thống.
Nhưng không thể phủ nhận một điều rằng, công trình này là tác phẩm
tiên phong trong việc phân tích và phê phán một cách hệ thống và khoa học
về triết học pháp quyền Hegel ở Việt Nam. Công trình là tài liệu hữu ích cho
chúng tôi khi thực hiện đề tài này.
- Loại hình thứ hai là những cuốn sách, Kỷ yếu Hội thảo và các bài báo
được đăng tải trên các tạp chí có đề cập một cách trực tiếp hoặc dán tiếp đến
quan niệm của Hegel về nhà nước.
Về sách, chúng ta có thể kể tới các công trình như: Lịch sử triết học do
Nguyễn Hữu Vui chủ biên (2003); Lê Công Sự (2006), Triết học cổ điển Đức;
Đỗ Minh Hợp (2010), Đại cương lịch sử triết học v.v.
Về Kỷ yếu Hội thảo, có thể kể đến sách Kỷ yếu hai Hội thảo Quốc tế
Triết học cổ điển Đức: những vấn đề nhận thức luận và đạo đức học (2006)
và Nhà nước pháp quyền: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn (2013) do Khoa
Triết học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội tổ chức.
Về bài viết trong các sách và tạp chí có thể kể tới các công trình như:
Nguyễn Chí Hiếu (2000), Về khái niệm “tinh thần tuyệt đối” trong triết học
Hêghen, Tạp chí Triết học (số 12); Nguyễn Chí Hiếu (2008), Tư tưởng về
“nhà nước mạnh” của Hegel và thực tế hiện thực hóa nó ở Đức, Tạp chí Phát
triển nguồn nhân lực (số 4); Nguyễn Chí Hiếu (2013): Christian Wolff – nhà
triết học tiên phong của chủ nghĩa duy lý và trào lưu Khai sáng Đức nửa đầu
thế kỷ XVIII, Tạp chí Triết học (số 9); Phạm Chiến Khu (2002), Tư tưởng về
nhà nước pháp quyền của Hegel, Tạp chí Triết học (số 6); Nguyễn Đình
7
Tường (2009), Quan niệm Hêghen về xã hội công dân, Tạp chí Triết học;
Trần Tuấn Phong, Xã hội công dân và xã hội dân sự: từ Arixtot đến Hêghen,
Tạp chí Triết học; Phạm Thái Việt (2006), Phạm trù “thực tiễn” trong triết
học cổ điển Đức, trong sách “Triết học cổ điển Đức: những vấn đề nhận thức
luận và đạo đức học”; Nguyễn Chí Hiếu (2000), Về khái niệm “tinh thần
tuyệt đối” trong triết học Hêghen, Tạp chí Triết học v.v.
Trong bài viết “Tư tưởng về “nhà nước mạnh” của Hegel và thực tế hiện
thực hóa nó ở Đức”, tác giả Nguyễn Chí Hiếu cũng đã làm rõ tư tưởng Hegel
về nhà nước mạnh nhằm đảm bảo các quyền con người thông qua các hoạt
động bảo vệ và sáng tạo của nhà nước. Hegel ý thức rõ rằng, quyền lực nhà
nước mạnh là điều kiện cần thiết của tự do và nhân dân cần phải tham gia
vào hoạt động lập pháp của nhà nước, vào việc giải quyết những vấn đề
trọng đại của quốc gia. Nhưng ông cũng đã lên tiếng chống lại mưu đồ tư
hữu hóa quyền lực nhà nước. Theo đó, việc ngăn chặn sự lạm dụng quyền
lực của các cơ quan và quan chức nhà nước cần đến sự giám sát cả từ bên
trên và bên dưới. Bên cạnh đó, tác giả Nguyễn Chí Hiếu cũng đã phân tích
nguyên tắc liên hệ hữu cơ giữa chỉnh thể và bộ phận của Hegel trong việc
ông luận giải quan hệ giữa cá nhân, xã hội và nhà nước, trong việc tổ
chức quyền lực nhà nước.
Trong bài “Tư tưởng về nhà nước pháp quyền của Hegel”, tác giả Phạm
Chiến Khu đã, thứ nhất, phân biệt phép biện chứng của Hegel với phép biện
chứng của Mác, Ăngghen; thứ hai, làm rõ tư tưởng Hegel trong việc ông sử
dụng phép biện chứng để luận chứng cho sự tất yếu ra đời của hình thái nhà
nước pháp quyền tư sản. Tác giả cho rằng, trong quan niệm của Hegel, nhà
nước pháp quyền tư sản được hình thành dựa trên hai nền tảng là gia đình và
xã hội dân sự. Nhà nước này thể hiện sự thống nhất quyền lực sống động trên
cơ sở phân hóa, khác biệt hợp lý của ba loại quyền lực: quyền của cái phổ
biến, quyền của cái đặc thù và quyền của cái đơn nhất. Cũng trong bài viết
8
này, thông qua việc làm sáng tỏ tư tưởng về nhà nước pháp quyền của Hegel,
tác giả tiến hành phân biệt nó với quan niệm nhà nước pháp trị trên các khía
cạnh: sự ra đời, luật pháp, cách thức tổ chức quyền lực và các quyền con
người trong nhà nước.
Tác giả Nguyễn Đình Tường trong bài “Quan niệm Hêghen về xã hội
công dân” trên Tạp chí Triết học, đã phân tích một cách khái quát quan niệm
của Hêghen về xã hội công dân (xã hội dân sự), về các mối quan hệ kinh tế
của xã hội công dân cũng như cơ cấu đẳng cấp và biện chứng của xã hội công
dân. Theo tác giả, Hêghen đã đứng trên cơ sở của chủ nghĩa duy tâm khách
quan, thần bí để xem xét mối quan hệ giữa xã hội công dân và nhà nước, coi
nhà nước là cái có trước, là cơ sở và động lực của xã hội công dân. Có thể
nói, công trình này đã bàn luận một cách trực tiếp tới một số nội dung của
luận văn. Tác giả đã đứng trên quan điểm duy vật biện chứng của Mác, đặc
biệt là trong cuốn “Góp phần phê phán triết học pháp quyền Hêghen”, để chỉ
ra những bản chất tư tưởng Hegel về nhà nước.
Tựu chung lại, các công trình trên đã dành dung lượng nhất định cho việc
nghiên cứu về khái niệm nhà nước pháp quyền và xã hội công dân theo cách hiểu
của Hegel. Những nghiên cứu này mới chỉ dừng lại ở sự khái quát chung về các nội
dung triết học Hegel, chứ chưa đi sâu phân tích, đánh giá quan niệm của Hegel về
nhà nước một cách có hệ thống và chuyên sâu, qua đó, đem lại cách hiểu đúng đắn
và toàn diện về tư tưởng của Hegel về Nhà nước.
- Loại hình thứ ba là một số lượng còn rất khiêm tốn các Luận văn Thạc
sĩ và Luận án Tiến sĩ về triết học cổ điển Đức nói chung và hệ thống triết học
Hegel và quan niệm về nhà nước nói riêng.
Thứ nhất, về những công trình đề cập đến về triết học cổ điển Đức nói
chung và hệ thống triết học Hegel nói riêng. Chẳng hạn, chúng ta có thể kể tới
các công trình như: Luận án triết học của tác giả Lê Công Sự: Học thuyết
phạm trù trong triết học I.Cantơ (2004); Luận văn thạc sĩ của tác giả Khuất
9
Duy Dũng: Chủ nghĩa duy tâm tiên nghiệm trong nhận thức luận của I.Cantơ
(2006); Luận án triết học về đề tài: Triết học đạo đức của Immanuel Kant và
ảnh hưởng của nó đối với triết Đức thế kỷ XIX, của tác giả Ngô Thị Mỹ Dung
(2007); Luận án Tiến sĩ về đề tài: Vấn đề bản thể luận trong triết học duy tâm
cổ điển Đức cuối thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX của tác giả Nguyễn Chí
Hiếu (2010); Luận văn thạc sỹ triết học Bước đầu tìm hiểu lý luận nhận thức
trong triết học I.Kant và G.W.F.Hegel của tác giả Đinh Thị Phượng, Viện
Triết học (2007); Luận án tiến sĩ của tác giả Vũ Thị Thu Lan với đề tài: Đạo
đức học I.Kant và những giá trị, hạn chế của nó, Học viện Khoa học xã hội
(2011); Luận án triết học Quan điểm triết học lịch sử của I.Kant của tác giả
Nguyễn thị Hảo, Viện Triết học (2012), v.v. Ở đây, các tác giả có bàn nhiều
tới vấn đề nhận thức luận, bản thể luận của triết học Hegel và quan điểm triết
học lịch sử của I.Kant nhưng các nội dung của triết học pháp quyền cũng như
tư tưởng về nhà nước của Hegel thì còn là vấn đề bỏ ngỏ.
Thứ hai, về những công trình có bàn luận trực tiếp hoặc gián tiếp đến
quan niệm của Hegel về nhà nước. Chẳng hạn, Luận án tiến sĩ triết học Triết
học lịch sử của G.W.F.Hegel của tác giả Trịnh Văn Toàn (2014); Luận văn
thạc sỹ của tác giả Nguyễn Thị Nguyệt: Quan niệm của G.W.F.Hegel về
quyền con người trong tác phẩm Các nguyên lý của triết học pháp quyền
(2014).
Trong Luận án tiến sĩ “Triết học lịch sử của G.W.F.Hegel”, tác giả Trịnh
Văn Toàn đã phân tích về biện chứng của tự do và tất yếu cũng như các
nguyên tắc và nội dung cơ bản của triết học lịch sử Hegel. Theo tác giả, trong
quan niệm của Hegel, nhà nước thể hiện ra như một mômen (thời điểm) trong
sự vận động của Tinh thần thế giới, của Ý niệm tuyệt đối. Qua đó, tác giả luận
án đã đem lại một cái nhìn toàn diện về vấn đề nhà nước trong quan hệ với
lịch sử thế giới.
10
Tác giả Nguyễn Thị Nguyện trong luận văn thạc sĩ “Quan niệm của
G.W.F.Hegel về quyền con người trong tác phẩm Các nguyên lý của triết học
pháp quyền”, đã bàn luận một cách sâu rộng quan niệm của Hegel về quyền
con người trong chương hai của luận văn. Đặc biệt, tác giả đã luận chứng khá
sâu về vai trò của nhà nước trong việc đảm bảo các quyền con người một cách
vững chắc nhất trong chương ba. Đây là công trình rất hữu ích cho chúng tôi
khi thực hiện đề tài này. Cố nhiên, vấn đề bản chất và nguồn gốc của nhà
nước chưa được tác giả bàn luận một cách chuyên sâu.
- Loại hình thức tư là công trình của tác giả nước ngoài có đề cập ít
nhiều nhưng không hệ thống đến những nội dung của triết học pháp quyền
cùng như quan niệm của Hegel về nhà nước đã được dịch ra tiếng Việt.
Chúng ta có thể có kể tới các tác phẩm: Paul Redding, Thông diễn học của
Hegel, do TS. Lê Tuấn Huy dịch; Karl R. Popper, Sự nghèo nàn của thuyết sử
luận, Chu Lan Đình dịch; Karl R. Popper, Xã hội mở và kẻ thù của nó, 2
Hegel và Marx, Nguyễn Quang A dịch; Michel Vadée: Marx nhà tư tưởng
của cái có thể, Viện Thông tin khoa học xã hội; Lịch sử phép biện chứng, tập
III, phép biện chứng cổ điển Đức; Triết học mở và xã hội mở, Maurice
Cornforth, Đỗ Minh Hợp dịch v.v. Các công trình này là các cách hiểu và lý
giải khác nhau về hệ thống triết học Hegel nói chung và triết học pháp quyền
nói riêng (phần nào đã được đề cập trong bài giới thiệu của Bùi Văn Nam Sơn
trong Các nguyên lý của triết học pháp quyền và trong Chương 3 thuộc công
trình Triết học pháp quyền của Hêghen của Nguyễn Trọng Chuẩn, Đỗ Minh
Hợp). Đây cũng là tài liệu hữu ích cho việc đánh giá hệ thống Hegel nói
chung và triết học pháp quyền nói riêng trong dòng chảy lịch sử tư tưởng
phương Tây.
Tình hình nghiên cứu trên cho thấy, những công trình nguyên cứu về
triết học pháp quyền nói chung cũng như quan niệm của Hegel về nhà nước
nói riêng còn ít được chú ý. Vậy nên, cần phải nghiên cứu chuyên sâu quan
11
niệm về nhà nước qua những tác phẩm chính của Hegel để từ đó, chúng ta có
một cái nhìn toàn diện về các di sản của ông. Trên cơ sở tiếp thu, kế thừa kết
quả của những người đi trước, luận văn này tập trung vào việc phân tích, trình
bày một cách hệ thống và khoa học tư tưởng về nhà nước của Hegel thông
qua việc khảo cứu tác phẩm Các nguyên lý của triết học pháp quyền.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của luận văn:
Luận văn làm sáng tỏ những nội dung cơ bản trong quan niệm
G.W.F.Hegel về nhà nước thể hiện trong tác phẩm Các nguyên lý của triết
học pháp quyền, và từ đó, bước đầu đưa ra những đánh giá mang tính khái
quát về ý nghĩa và hạn chế trong quan niệm về nhà nước của G.W.F.Hegel.
Để thực hiện được mục đích trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Phân tích bối cảnh lịch sử và tiền đề lý luận cho sự hình thành tư tưởng
của G.W.F.Hegel về nhà nước.
- Phân tích nội dung cơ bản của tư tưởng G.W.F.Hegel về nhà nước
được thể hiện trong tác phẩm Các nguyên lý của triết học pháp quyền.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Quan niệm về nhà nước của G.W.F.Hegel trong
tác phẩm Các nguyên lý của triết học pháp quyền.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu tập trung vào nội dung cơ bản
của tư tưởng G.W.F.Hegel về nhà nước được thể hiện trong tác phẩm Các
nguyên lý của triết học pháp quyền.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Đề tài nghiên cứu được thực hiện trên cơ sở chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; lý luận Mác-Lênin về lịch sử
triết học.
Phương pháp nghiên cứu: Luận văn vận dụng các nguyên lý của
triết học mácxít như nguyên lý phát triển, các nguyên tắc thống nhất
12
giữa cái lôgíc và cái lịch sử, đi từ trừu tượng đến cụ thể, phân tích và
tổng hợp, phương pháp nghiên cứu văn bản v.v.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn nghiên cứu và trình bày một cách tập trung, có hệ thống những
nội dung cơ bản của quan niệm G.W.F.Hegel về nhà nước thể hiện trong tác
phẩm Các nguyên lý của triết học pháp quyền.
7. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và
giảng dạy triết học pháp quyền G.W.F.Hegel nói riêng và hệ thống triết học
G.W.F.Hegel nói chung.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 2 chương, 8 tiết.
13
B. NỘI DUNG
Chương 1
BỐI CẢNH LỊCH SỬ VÀ TIỀN ĐỀ LÝ LUẬN CHO SỰ HÌNH THÀNH
TƯ TƯỞNG CỦA G.W.F.HEGEL VỀ NHÀ NƯỚC TRONG TÁC
PHẨM CÁC NGUYÊN LÝ CỦA TRIẾT HỌC PHÁP QUYỀN
1.1 Bối cảnh lịch sử Tây Âu và nước Phổ cuối thế kỷ XVIII – đầu
thế kỷ XIX
C.Mác, trong Bài xã luận báo “Kolnische Zeitung số 179” có viết rằng:
“Các triết gia không mọc lên như nấm từ trái đất, họ là sản phẩm của thời đại
của mình, của dân tộc mình, mà dòng sữa tinh tế nhất, quý giá và vô hình
được tập trung lại trong những tư tưởng triết học” [45, tr.156]. Thật vậy, triết
học là giá trị văn hóa tinh thần tinh tuý nhất, là thời đại lịch sử được tái hiện
dưới hình thức tư tưởng, trong hệ thống các vấn đề triết học, nó làm nên diện
mạo tinh thần của thời đại. Theo đó, hệ thống triết học của Hegel là sự thấu
hiểu, sự phản ánh một cách bao trùm và sâu sắc nhất của thời đại trong phạm
vi tư tưởng. Sự thực, Hegel là đứa con của thời đại lịch sử diễn ra cuộc đấu
tranh sống còn của giai cấp tư sản chống lại ách thống trị của chế độ phong
kiến. Đây chính là thời kỳ lịch sử của sự quá độ từ chế độ phong kiến sang
chế độ tư bản. Với nghĩa ấy, hệ thống triết học Hegel nói chung và triết học
pháp quyền nói riêng, có đặc tính, như Mác đã vạch ra, “là lý luận Đức của
cuộc cách mạng Pháp”, là sự chuẩn bị về hệ tư tưởng cho cách mạng dân chủ
tư sản ở Đức.
Có thể khẳng định rằng, sự ra đời của hệ thống Hegel nói chung và triết
học pháp quyền nói riêng là có tính quy luật. Thực tế là, triết học pháp quyền
Hegel ra đời không phải trên một mảnh đất hoang. Nói cách khác, sự xuất
hiện của nó là dựa trên một nền tảng, một bối cảnh lịch sử cụ thể. Bối cảnh ấy
14
chính là hiện thực lịch sử, văn hóa, xã hội nước Đức3 và châu Âu cuối thế kỷ
XVIII – đầu thế kỷ XIX.
Bối cảnh lịch sử Tây Âu cuối thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX
Thời điểm lịch sử cho sự xuất hiện mầm mống của giai cấp tư sản cũng
là thời điểm báo hiệu giờ cáo chung của chế độ phong kiến châu Âu đã đến là
bắt đầu từ thế kỷ XV. Ở Tây Âu, cụ thể là ở Italia, ngay từ thế kỷ XV đã có sự
xuất hiện của các công trường thủ công cùng với nó là nền sản xuất công
trường thủ công đem lại năng suất lao động rất cao. Việc cải tiến, sáng chế ra
công cụ lao động mới như máy tự kéo sợi, máy in cùng với những phát kiến
địa lý, như việc tìm ra châu Mỹ và các đường biển đến những miền đất
mới…càng tạo điều kiện cho sự phát triển của nền sản xuất theo hướng tư bản
chủ nghĩa. Chính những bước tiến đó của nhân loại đã dẫn đến sự ra đời của
một loạt các nước tư bản chủ nghĩa sớm phát triển như Anh, Italia, Pháp, Tây
Ban Nha, Hà Lan.
Sự ra đời công cụ lao động mới có mối liên hệ chặt chẽ với sự phát triển
vượt bậc của khoa học tự nhiên lúc bấy giờ như: Cơ học, Toán học, Thiên văn
học. Sự phát triển của khoa học tự nhiên thời kỳ này là nguồn gốc trực tiếp và
quan trọng nhất tạo ra sự khác biệt của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa so với
tất cả các xã hội trước đó. Những phát minh khoa học được ứng dụng, thâm
nhập vào cuộc sống, có vai trò rất lớn trong việc cấu thành một phương thức
sản xuất mới. Không dừng lại ở đó, khoa học còn thâm nhập vào địa hạt kiến
trúc thượng tầng của xã hội, tương tác với các bộ phận của nó. Những phát
minh khoa học đã tạo nên những bước ngoặt trong lịch sử nhận thức nhân loại
và có ảnh hưởng quan trọng đến tư tưởng triết học Hegel.
Chính sự xuất hiện của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa mà nguồn gốc cuối
cùng của nó là sự ra đời của công cụ lao động mới, dẫn đến việc nhân loại đã
sáng tạo ra một lượng của cải vật chất gấp hàng trăm lần lượng của cải mà
3
Nước Đức còn gọi là nước Phổ - Preussen – được thành lập bởi vua Friedrich I từ năm 1701.
15
- Xem thêm -