GVHD: TS. Nguyễn Thế Truyền
SVTH: Trương Mỹ Yến
NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
.....................................................................................................................................
Bạc Liêu, ngày…..tháng…..năm 2011
Người nhận xét
TS. Nguyễn Thế Truyền
Trường Đại học Bạc Liêu
1
GVHD: TS. Nguyễn Thế Truyền
SVTH: Trương Mỹ Yến
LỜI CẢM ƠN
Qua thời gian học tập, nghiên cứu, rèn luyện ở trường nhờ có sự chỉ dạy tận
tình của quý thầy cô trường Đại học Bạc Liêu đặc biệt là quý thầy cô Khoa Sư
phạm đã giúp em có được ngày càng nhiều kiến thức và những hiểu biết sâu sắc
trong học tập cũng như trong thực tiễn hàng ngày. Và hôm nay khi hoàn thành được
niên luận này em xin chân thành cảm ơn đến:
Trước hết em xin chân thành cảm ơn đến quý thầy cô Khoa Sư phạm, trường
Đại học Bạc Liêu đã truyền đạt những kiến thức quý báu để từ đó em có thể vận
dụng những kiến thức ấy vào niên luận của mình.
Đặc biệt em xin chân thành cảm ơn thầy Nguyễn Thế Truyền đã tận tình
hướng dẫn, giải đáp những khó khăn, vướng mắc giúp em hoàn thành tốt niên luận.
Kính chúc quý thầy cô trường Đại học Bạc Liêu cùng quý thầy cô Khoa Sư
phạm lời chúc sức khỏe và thành công trong công tác giảng dạy của mình.
Trân trọng kính chào!
Bạc Liêu, ngày…..tháng…..năm 2011
Sinh viên thực hiện
Trương Mỹ Yến
Trường Đại học Bạc Liêu
2
GVHD: TS. Nguyễn Thế Truyền
SVTH: Trương Mỹ Yến
MỤC LỤC
Phần mở đầu
1. Lí do chọn đề tài
5
2. Mục đích nghiên cứu
6
3. Lịch sử vấn đề
6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
7
5. Phương pháp nghiên cứu
8
6. Ý nghĩa khoa học
8
7. Kết cấu niên luận
9
Phần nội dung
Chương 1: Giới thiệu chung
9
1.1
9
Khái niệm chung về thế giới nghệ thuật
1.1.1. Thế giới nghệ thuật
9
1.1.2. Thế giới nghệ thuật của một nhà thơ trữ tình
11
1.2.
13
Vài nét về Hàn Mặc Tử
1.2.1. Cuộc đời
13
1.2.2. Sự nghiệp
14
1.2.3. Quan niệm về thơ
15
1.2.4. Quan niệm nghệ thuật vị nghệ thuật
17
Chương 2: Thế giới nghệ thuật trong thơ Hàn Mặc Tử
18
2.1
19
Ngôn ngữ thơ giàu hình ảnh
2.1.1. Trong sáng, ngọt ngào
19
2.1.2. Kì dị, lạ thường
21
2.2.
Âm nhạc trong thơ
23
2.3.
Hình tượng: Trăng
25
Chương 3: Sự pha trộn trong thế giới nghệ thuật Hàn Mặc Tử
28
3.1.
28
Giữa cổ điển và hiện đại
3.1.1. Thơ Đường luật
Trường Đại học Bạc Liêu
28
3
GVHD: TS. Nguyễn Thế Truyền
SVTH: Trương Mỹ Yến
3.1.2. Thơ Mới – Lãng mạn, trữ tình
30
3.1.3. Thơ siêu thực
32
3.2. Đưa màu sắc tôn giáo vào thơ
34
3.2.1. Thiên chúa giáo
34
3.2.2. Phật giáo
35
KẾT LUẬN
38
Tài liệu tham khảo
39
Trường Đại học Bạc Liêu
4
GVHD: TS. Nguyễn Thế Truyền
SVTH: Trương Mỹ Yến
PHẦN MỞ ĐẦU
1.
Lí do chọn đề tài
Thế giới nghệ thuật là một chỉnh thể nghệ thuật bao gồm tất cả các yếu tố,
cấp độ của sáng tạo nghệ thuật. Mối cấp độ yếu tố này lại có một chỉnh thể nhỏ hơn
đặt trong mối quan hệ biện chứng nhất định, xâu chuỗi với các yếu tố khác.
Nghiên cứu thế giới nghệ thuật là để tìm hiểu qui luật sáng tạo của chủ thể,
quan niệm về nghệ thuật, cuộc sống nhân sinh của người nghệ sĩ đó. Thơ trữ tình là
biểu hiện trực tiếp thế giới chủ quan của nhà thơ. Những cảm xúc tâm trạng, suy
nghĩ thể hiện trong thế giới nghệ thuật chính là biểu hiện của những cái tôi.
Hàn Mặc Tử - một nhà thơ lãng mạn tiêu biểu trong phong trào Thơ mới,
một phong cách riêng của thơ ca Việt Nam thời kì đổi mới. Có lẽ, trong làng thơ
nước ta Hàn Mặc Tử là nhà thơ nhận được nhiều ưu ái nhất. Bởi người ta biết đến
anh, một chàng thi sĩ với cuộc đời ngắn ngủi tràn ngập nước mắt và đau thương.
Con người ấy chỉ sống trên cõi đời vỏn vẹn 28 năm, ở cái tuổi còn quá trẻ nhưng tội
nghiệp thay cho nhà thơ, anh là người không có tuổi trẻ. Với thi sĩ, tuổi trẻ của
chàng không phải là hiện tại tươi đẹp với những dự tính về tương lai rực rỡ mà hiện
tại chỉ là những chuỗi ngày đau đớn trong bệnh tật, trong sự xa lánh hắt hủi của tình
đời và người đời. Nhưng từ trong đau khổ tuyệt vọng, linh hồn ấy vẫn khao khát
được sống, được yêu, được sẻ chia và vẫn không thôi sáng tạo trước bờ vực của cái
chết.
Nhà thơ đã tạo cho riêng mình một khu vườn sáng tác với một thứ nghệ thuật
độc đáo, không lẫn vào ai.
Chính vì lẽ đó tôi quyết định chọn đề tài “Thế giới nghệ thuật trong thơ
Hàn Mặc Tử” để nghiên cứu. Tuy đề tài này đã có nhiều người tìm hiểu nhưng tôi
thấy chưa thật sự xác đáng lắm.
Trường Đại học Bạc Liêu
5
GVHD: TS. Nguyễn Thế Truyền
2.
SVTH: Trương Mỹ Yến
Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài này để thấy được cái nhìn của tác giả về cuộc đời, nhận ra
cái hay, cái sâu sắc của Hàn Mặc Tử khi sáng tạo ra cả một thế giới nghệ thuật trong
tác phẩm. Đồng thời, người viết có thể nhận rõ nét tiêu biểu trong phong cách sáng
tác của nhà thơ. Từ đó đánh giá đúng vai trò của Hàn Mặc Tử đã góp phần làm nên
sự đa dạng cho nền văn học nước nhà, giúp bổ sung cái nhìn toàn diện về những đặc
sắc trong sáng tác Hàn Mặc Tử.
Bên cạnh đó, nghiên cứu đề tài để củng cố kỉ năng phân tích, giúp người viết
có thêm nhiều kiến thức về nhà thơ Hàn Mặc Tử và các tác phẩm của ông. Ngoài ra,
nghiên cứu đề tài cũng giúp phục vụ cho công tác học tập, giảng dạy sau này tốt
hơn. Đó cũng là tài liệu cho các bạn sinh viên quan tâm đến vấn đề này.
3.
Lịch sử vấn đề
Ngày nay cái tên Hàn Mặc Tử được đông đảo quí đọc giả gần xa biết đến,
thơ ông được đón nhận khá nồng nhiệt. Làm thơ từ năm 16 tuổi, Hàn Mặc Tử bắt
đầu sự nghiệp văn thơ của mình bằng thể thơ Đường luật vốn rất khó khăn, phức
tạp. Nhưng với bàn tay tài hoa của thi sĩ, thể thơ trở nên mượt mà tươi mới và hấp
dẫn hơn bao giờ hết. Nhà thơ được chí sĩ Phan Bội Châu vốn xuất thân Nho học
từng đỗ Đầu Xứ hết lời ngợi khen : “…từ ngày về nước đến nay tôi chưa gặp được
bài thơ nào hay đến thế…”. Sau này, khi gia nhập vào làng thơ Mới với một nguồn
thơ đầy sáng tạo, Hàn Mặc Tử cũng được Hoài Thanh đánh giá cao: “Một nguồn
thơ rào rạt và lạ lùng” và “Vườn thơ Hàn rộng không bờ bến càng đi xa càng ớn
lạnh”.
Ngoài ra, với việc tạo cho mình một thế giới nghệ thuật riêng ấy, Hàn Mặc
Tử đã khiến cho các nhà phê bình văn học phải “đau đầu” khi đưa ra nhận xét về
thơ ông, có thể kể đến sau đây:
Trần Tái Phùng: “Nghệ thuật chàng tựa vào một con sông dài đi xuyên qua
thế kỉ chúng ta và hai bờ sông dàn bày không biết bao nhiêu cảnh sắc khác nhau,
đẹp đẽ đến say ngợp, đến tê liệt cả lòng người”.
Trường Đại học Bạc Liêu
6
GVHD: TS. Nguyễn Thế Truyền
SVTH: Trương Mỹ Yến
Nhà thơ Chế Lan Viên: “Thơ anh trước không ai có, sau không có ai. Hàn
Mặc Tử như một ngôi sao chổi xoẹt qua bầu trời Việt Nam với cái đuôi chói lòa rực
rỡ của mình”.
Nhà phê bình văn học Phan Cự Đệ: “Sẽ không giải thích được đầy đủ hiện
tượng Hàn Mặc Tử nếu chỉ vận dụng thi pháp của chủ nghĩa lãng mạn và ảnh hưởng
của Kinh Thánh. Chúng ta cần nghiên cứu thêm lí luận của chủ nghĩa tượng trưng
và chủ nghĩa siêu thực. Trong những bài thơ siêu thực của Hàn Mặc Tử, người ta
không phân biệt được hư và thực, sắc và không, thế gian và xuất thế gian, cái hữu
hình và cài vô hình, nội tâm và ngoại giới, chủ thể và khách thể, thế giới cảm xúc và
phi cảm xúc. Mọi giác quan bị trộn lẫn, mọi logic bình thường trong tư duy và ngôn
ngữ, trong ngữ pháp và thi pháp bị đảo lộn bất ngờ. Nhà thơ đã có những so sánh ví
von, những đối chiếu kết hợp kì lạ, tạo nên sự độc đáo đầy kinh ngạc và kinh dị với
người đọc”.
Nhà thơ Trần Đăng Khoa: “Hàn Mặc Tử có khoảng bảy bài hay, trong đó có
bốn bài đạt đến độ toàn bích. Còn lại là những câu thơ thiên tài. Những câu thơ này,
phi Hàn Mặc Tử, không ai có thể viết nổi…”
Ngô Văn Phú: “Thơ Hàn Mặc Tử tự nội tâm mà vọt ra, từ cái thế giới riêng
trong nhận thức của ông mà viết. Do đó, tự ông có một phong cách, không giống bất
kì một nhà thơ nào”.
Qua những lời nhận xét như thế đủ để thấy “Hàn Mặc Tử là nhà thơ thiên tài
của Việt Nam” (Vinh Hồ).
Tuy các bài viết còn chưa bao quát hết sự nghiệp thơ Hàn Mặc Tử, nhưng ý
kiến của những người trước đã là gợi ý quý báo cho người viết trong khi thực hiện
bản niên luận của mình.
4.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Nghệ thuật Hàn Mặc Tử sử dụng qua các tập thơ “Lệ Thanh thi tập”, “Gái
quê”, “Đau thương”, “Xuân như ý”, “Thượng thanh kí”,…
Trường Đại học Bạc Liêu
7
GVHD: TS. Nguyễn Thế Truyền
5.
Phương pháp nghiên cứu
5.1.
Phân tích
SVTH: Trương Mỹ Yến
Đây là phương pháp nghiên cứu được sử dụng chủ yếu trong đề tài niên luận
này. Từ những tài liệu nhận xét, đánh giá của các nhà phê bình nghiên cứu cùng sự
tìm tòi sáng tạo của bản thân, tôi vận dụng đưa vào đề tài. Qua đây chúng ta sẽ thấy
rõ hơn vấn đề tại sao gọi là “thế giới nghệ thuật trong thơ Hàn Mặc Tử”, thấy
được những khám phá sáng tạo phi thường của nhà thơ.
5.2.
Phương pháp so sánh
Trong quá trình phân tích “thế giới nghệ thuật trong thơ Hàn Mặc Tử”, tôi
tiến hành liên hệ, so sánh điểm khác biệt của ông với các nhà thơ cùng thời. Như
vậy sẽ giúp cho đề tài thêm sức thuyết phục và góp phần khẳng định tài năng cùng
những đóng góp của Hàn Mặc Tủ cho nền văn học nước nhà.
5.3.
Phương pháp hệ thống
Người viết nhận thấy rằng sáng tác thơ của Hàn Mặc Tử là một chỉnh thể
nghệ thuật trọn vẹn và mang tính hệ thống. Vì thế khi nghiên cứu người viết đặt nó
trong một hệ thống chung theo một trật tự nhất định.
5.4.
Phương pháp thống kê – phân loại
Phương pháp này sẽ giúp cho việc phân tích những nhận xét về thơ Hàn Mặc
Tử có chứng cứ cụ thể. Một mặt nào đó giúp cho việc so sánh đối chiếu có thêm sức
thuyết phục.
6.
Ý nghĩa khoa học
Nghiên cứu đề tài “Thế giới nghệ thuật trong thơ Hàn Mặc Tử”, người viết
chọn cách tiếp cận với thế giới nghệ thuật mới mẻ trong dòng văn học đương đại,
khai thác tiếng lòng và những đặc trưng thẩm mỹ của một phong cách thơ độc đáo
Người viết cũng hi vọng rằng sau khi nghiên cứu thành công đề tài này sẽ
góp phần nhận diện thơ Hàn Mặc Tử sâu hơn, rộng hơn và đưa ra được cái nhìn đầy
đủ có hệ thống về tác giả.
Trường Đại học Bạc Liêu
8
GVHD: TS. Nguyễn Thế Truyền
7.
SVTH: Trương Mỹ Yến
Kết cấu niên luận
Chương 1 : Giới thiệu chung
Chương 2 : Thế giới nghệ thuật trong thơ Hàn Mặc Tử
Chương 3 : Sự pha trộn trong thế giới nghệ thuật Hàn Măc Tử
Kết luận
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU CHUNG
1.1.
Khái niện chung về thế giới nghệ thuật
1.1.1. Thế giới nghệ thuật
Khái niệm thế giới nghệ thuật xuất hiện từ yêu cầu muốn tiếp cận tác phẩm
văn học trong dạng chỉnh thể (từ những năm 70/XX). Nó được tiếp cận ở các cấp độ
khác nhau. Nội dung và hình thức của tác phẩm hài hòa với nhau nhưng người ta lại
yêu cầu cụ thể, phải hài hòa như thế nào thì chưa thể trả lời ngay được. Do vậy, khi
nghiên cứu tác giả thì ý niệm được chia thành từng mảnh. Chẳng hạn, hình tượng
Bác Hồ, hình tượng người nông dân, hình tượng bà mẹ trong thơ Tố Hữu. Như thế
thơ Tố Hữu chưa thành một chỉnh thể toàn vẹn.
Chỉnh thể thường được quan niệm như là một tập hợp sáng tác của nhà văn
nhưng lại được nhìn nhận là một tập hợp đơn giản. Thế giới nghệ thuật không phải
là một tập hợp đơn giản mà là một hệ thống thống nhất, một chỉnh thể sống động,
nó hiện diện trước mắt chúng ta như một sinh thể. Secnusepxki nói: “Cái đẹp là cái
sống”. Tức cái đẹp có được khi và chỉ khi nó hiện ra trước mắt chúng ta như một
sinh thể. Nhân hóa là hiện tượng phổ biến của nhận thức loài người, khi con người
nhận thức vai trò của mình đối với thế giới thì thế giới bị người hóa, nhân hóa cái
nhìn mang bản tính nhân văn. Đây còn là bản chất sâu xa của nghệ thuật.
Đối với người nghệ sĩ, hơn bao giờ hết họ cũng muốn truyền cảm xúc chân
thực vào đối tượng, truyền sự sống vào đối tượng. Cái “thần”, cái “hồn” của sự vật
có được khi và chỉ khi sự vật ấy toát lên sự sống. Tức chủ thể đã truyền sự sống cho
nó. Và lẽ cố nhiên cái đẹp ấy cũng phải đạt đến sự hài hòa. Trong thơ ta thường bắt
Trường Đại học Bạc Liêu
9
GVHD: TS. Nguyễn Thế Truyền
SVTH: Trương Mỹ Yến
gặp một hình ảnh mô típ về Hồ Chí Minh, là con người hòa hợp cái phi thường mà
bình thường, vĩ đại mà giản dị. Tiêu biểu là thơ Tố Hữu.
Từ thập niên 80 của thế kỉ XX cùng sự xuất hiện của chủ nghĩa Macxit sáng
tác văn học được nhìn nhận như một chỉnh thể. Chúng ta đi vào hiện tượng đó như
đi vào một thế giới riêng, đi vào một cõi sống riêng. Trong bài giảng “Thế giới nghệ
thuật của một nhà thơ trữ tình” Chu Văn Sơn có cách định nghĩa như sau: “Xét đến
cùng thế giới nghệ thuật của một nhà văn chính là một thế giới hình tượng hiện ra
như một chỉnh thể sống động, chứa đựng một quan niệm nhân sinh và thẩm mĩ nào
đó, được xây cắt bằng chất liệu ngôn từ. Như vậy, thế giới nghệ thuật vừa là con đẻ
vừa là hiện thân của tư tưởng sáng tác. Đó không phải là một thế giới tĩnh mà là một
thế giới động, vừa vận động, vừa phụ thuộc vừa phản ánh những biến chuyển trong
tư tưởng của người nghệ sĩ”.
Vậy, tư tưởng của nhà nghệ sĩ thực chất là gì? Khác với tư tưởng của các
hoạt động trí tuệ khác ở chổ nào? Tư tưởng của nhà khoa học chính là sản phẩm của
tư duy khoa học được vận hành chủ yếu bằng lí trí một cách trừu tượng hóa. Còn tư
tưởng của người nghệ sĩ thì khác, đó là tư duy nghệ thuật, không chỉ vận hành bằng
lí trí mà còn bằng tình cảm. “Người nghệ sĩ không chỉ tư duy bằng bộ óc mà còn tư
duy bằng trái tim” (Leptonxtoi). Khi nhà nghệ sĩ tư duy thì lí trí và cảm xúc hòa
quyện vào nhau. Vậy nên thao tác cơ bản của tư duy nghệ thuật không phải là trừu
tượng hóa mà là hình tượng hóa. Sản phẩm cuối cùng của tư duy khoa học là các
khái niệm trừu tượng, sản phẩm cuối cùng của tư duy nghệ thuật là hình tượng. Rõ
ràng có sự khác biệt nhau.
Tư tưởng của một nghệ sĩ bao giờ cũng là sự hòa điệu giữa quan niệm nhân
sinh và quan niệm thẩm mĩ. Quan niệm nhân sinh trả lời câu hỏi về hạnh phúc, còn
quan niệm thẩm mĩ trả lời câu hỏi về cái đẹp. Cả hai sẽ tạo ra một lực đẩy chung
khiến nghệ sĩ suốt đời tìm kiếm những gì là tinh hoa của cuộc sống. Tư tưởng ấy
cũng chi phối toàn bộ việc kiến tạo nên cái thế giới nghệ thuật của nghệ sĩ đó. Bởi
vậy, muốn nắm được tư tưởng của một người nghệ sĩ không thể né tránh câu hỏi
then chốt: Vẻ đẹp anh ta khao khát là gì? Kết quả anh ta ao ước là gì?
Trường Đại học Bạc Liêu
10
GVHD: TS. Nguyễn Thế Truyền
SVTH: Trương Mỹ Yến
Tinh hoa của sự sống theo quan niệm Hàn Mặc Tử đó là vẻ đẹp “Tinh Khiết
mà Xuân Tình”. Suốt đời mình, cả trong hoạn nạn, trong đau đớn tuyệt vọng, ông
hướng về vẻ đẹp đó như một cứu tinh “Tôi muốn trọn đời ngưỡng mộ vẻ trắng trong
nguyên vẹn, nguồn tươi, ánh sáng, thơ vì đấy là hình tượng của linh hồn thanh
khiết”.1
1.1.2.
Thế giới nghệ thuật của một nhà thơ trữ tình
Bước vào giai đoạn của thơ ca hiện đại, việc xác định những thành tố cơ bản
trong thế giới nghệ thuật của một nhà thơ trữ tình thời trung đại không còn phù hợp
(theo Lê Quang Hưng, giai đoạn này thế giới nghệ thuật của một nhà thơ trữ tình chỉ
gồm hai thành tố: “Cái tôi và thế giới”). Do cái tôi cá nhân ý thức trưởng thành
trong mối quan hệ mật thiết với tha nhân, tha nhân gần gũi nhất là một mẫu hình lí
tưởng của cái tôi. Hình ảnh đó của cái tôi trữ tình là một người tình tinh thần, người
tình của hồn thơ. Nhà thơ Hoàng Cầm đã nói vấn đề này khá sớm: “Trong mỗi nhà
thơ trữ tình đều sống một người đàn bà”, người đàn bà ấy hiện thân cho những nét
đẹp, vẻ đẹp mà người nghệ sĩ mơ ước và tôn thờ, là cái đẹp bằng xương bằng thịt.
Người ta gọi đó là nàng thơ, người tình lí tưởng của thi sĩ.
Thế giới hình tượng thơ ca được xem là sản phẩm sinh ra từ cuộc hôn phối
âm thầm của người thi sĩ và người đàn bà huyền diệu đó. Do vậy, thế giới nghệ
thuật của một nhà thơ trữ tình hiện đại phải là một thế giới chứa đựng ba hình tượng
cơ bản: Cái tôi – Người tình –Thế giới.
Nói đến thơ trữ tình là nói đến cảm xúc của chủ thể, của cái tôi cá nhân, con
người như thế nào thì cảm xúc thế ấy. Muốn tiếp cận được thế giới nghệ thuật của
thơ trữ tình phải nhận diện được cái tôi trữ tình. Không phải nhà thơ xưng tôi thì cái
tôi mới bộc lộ, thật ra nó bộc lộ khắp nơi. Vì qua tác phẩm người ta có thể hình
dung ra con người ấy, chủ yếu là qua tư thế trữ tình, giọng điệu trữ tình hay chân
dung diện mạo của cái tôi trữ tình đó. Chẳng hạn, ta thường bắt gặp tư thế trữ tình
1
Hàn Mặc Tử - Chơi giữa mùa trăng, Nxb An Tiêm, Sài Gòn, 1969.
Trường Đại học Bạc Liêu
11
GVHD: TS. Nguyễn Thế Truyền
SVTH: Trương Mỹ Yến
hay “đứng” của Xuân Diệu, hay “đi chậm” của Huy Cận, “bước nhanh” của Tố
Hữu, hay “gào, hét, rên, hú” của Hàn Mặc Tử.
Hình tượng người tình của hồn thơ chính là mẫu hình lí tưởng, chính là cái
đẹp bằng xương bằng thịt mà hồn thơ ấy tôn thờ. Vì thế nó vừa cụ thể, vừa khái
quát, vừa vô hình vừa hữu hình. Thường đối với nam thi sĩ người tình ấy là EM, còn
nữ thi sĩ thì là ANH. Người tình ấy được thi sĩ khắc họa qua những hình tượng phụ
nữ trong thơ mình. Như Hàn Mặc Tử ở tập thơ “Gái quê” người tình hiện lên là
một cô gái trinh trắng, đoan trang. Nguyễn Bính xác định người tình trong bài
“Chân quê” khá rõ, đó là cô gái còn giữ được những nền nếp của thôn quê.
Và sau cùng hình tượng tạo nên thế giới nghệ thuật trong thơ trữ tình là Thế
giới. Thế giới được hiểu như môi trường bao quanh nhân vật Tôi - Người tình, nó
bao gồm: Thiên nhiên (không gian và thời gian), đời sống xã hội (cuộc sống của thi
nhân và các nhân vật trong thơ). Thế giới bao quanh cặp nhân vật Tôi – Em trong
thơ Xuân Diệu là trường tình, với Tố Hữu là một trường tranh đấu.
Thông thường, từng kiểu nhà thơ lại có cá tính sáng tạo khác nhau. Trong thơ
trung đại phần thiên nhiên đậm hơn phần cuộc sống. Thơ cách mạng thì nói nhiều
về tình cảm lớn: đó là tình cảm cái tôi đối với cộng đồng, quê hương, hình tượng
lãnh tụ, người mẹ, người chiến sĩ rất đậm. Hình tượng người yêu nhạt đi, nếu có
hình tượng này phải nương vào tình cảm lớn: tình yêu lứa đôi lồng trong tình đồng
chí (Đồi tím hoa sim - Hữu Loan, Núi đôi - Vũ Cao). Còn thơ lãng mạn chủ yếu nói
về tình yêu cá nhân, những cảm xúc mà thi nhân gặp phải trong cuộc sống đời
thường.
Ví dụ như Tố Hữu – một nhà thơ trữ tình chính trị, cái tôi ông thể hiện là
người chiến sĩ, người tình trong thơ là tình đồng chí, thế giới bao quanh nó là cả
một trường tranh đấu.
Ta thử đến với Hàn Mặc Tử - một nhà thơ lãng mạn, sẽ có sự khác biệt như
thế nào? Cái tôi ông muốn thể hiện là chính bản thân mình, với những cảm xúc hết
sức chân thật. Có khi vui vẻ, yêu đời, khi thì đau đớn đến tuyệt vọng. Ngoài ra, Hàn
Mặc Tử còn hiện rõ là một tín đồ tôn giáo, một “con chiên ngoan đạo”, bởi thơ ông
12
Trường Đại học Bạc Liêu
GVHD: TS. Nguyễn Thế Truyền
SVTH: Trương Mỹ Yến
có sự hòa lẫn Thiên chúa giáo, Phật giáo, Đạo giáo. Tôn giáo ấy là thứ tôn giáo lãng
mạn, nhà thơ chỉ mượn hình ảnh , từ ngữ của nó để nói lên niềm say mê khao khát,
là tiếng nói hướng về đức tin. Có thể nhận thấy từ “Đau thương” trở về trước người
tình trong thơ Hàn là những người phụ nữ với hình ảnh nổi trội, vẻ xuân tình được
tô đậm, miêu tả bằng nhục cảm. Đó là những cảm xúc chân thực của một chàng trai
khỏe mạnh khao khát chiêm ngưỡng, hưởng thụ vẻ đẹp nơi trần thế. Còn “Đau
thương” trở về sau hình ảnh mang tính huyễn tưởng. Người thơ có vẻ đẹp trinh
bạch, xuân tình nhưng thiên về màu sắc xuất thế, quan tâm nhiều đến vẻ đẹp tinh
thần. Vì lúc này đây Hàn Mặc Tử đã mắc bệnh, cơ hội chiêm ngưỡng, tận hưởng vẻ
đẹp trần thế không còn, nhà thơ hướng về vẻ đẹp đẹp huyễn tưởng nơi tiên giới như
để được cứu rỗi.
Như vậy, hai mô hình thế giới nghệ thuật của thơ cách mạng và thơ lãng mạn
rất khác biệt, nó mang tính quy luật. Mỗi nhà thơ có cách sáng tạo thế giới nghệ
thuật cho riêng mình đều đó còn phụ thuộc vào tư tưởng, vào phong cách ngôn ngữ
của thi sĩ đó. Đồng thời phụ thuộc vào khuynh hướng trường phái mà người nghệ sĩ
đó chịu ảnh hưởng.
1.2.
Vài nét về Hàn Mặc Tử
1.2.1. Cuộc đời
Hàn Mặc Tử (1912 – 1940) tên khai sinh là Nguyễn Trọng Trí, tên thánh là
Pierre hay Francois. Sinh ở làng Lệ Mĩ, tổng Võ Xá, huyện Phong Lộc, tỉnh Đồng
Hới (nay là Quảng Bình) trong một gia đình viên chức nghèo theo đạo Thiên Chúa.
Cha là Nguyễn Văn Toản từng là chủ sự Thương Chánh Nhật Lệ và mẹ là Nguyễn
Thị Duy, một người đàn bà xứ Huế hiền lành, trung hậu chịu thương chịu khó. Sau
khi cha mất, gia đình Nguyễn Trọng Trí chuyển vào Quy Nhơn sống với người anh
đầu đang làm việc tại đây. Do muốn con theo đuổi sự nghiệp công danh nên mẹ ông
bàn với người anh gởi ông ra Huế theo học tại trường dòng Pellerin, một trong
những trường nổi tiếng nhất tại Huế. Và tại đây Nguyễn Trọng Trí đã có hai năm
học trung học (1928 – 1930).
Trường Đại học Bạc Liêu
13
GVHD: TS. Nguyễn Thế Truyền
SVTH: Trương Mỹ Yến
Hoàn cảnh kinh tế gia đình lúc này sa sút, Hàn Mặc Tử phải bỏ học. Ông làm
viên chức tại sở Đạc Điền Quy Nhơn (1932 - 1933), rồi vào Sài Gòn làm báo
(1934 -1935). Đến năm 1936, Hàn Mặc Tử mắc bệnh phong ông về hẳn Quy Nhơn
chữa bệnh và mất đi tại trại phong Quy Hòa (11/11/1940).
Chính đất Thần Kinh với non nước hữu tình, nơi quy tụ nhiều nhân tài và đặc
biệt sinh ra trong gia đình có truyền thống Nho học đã ảnh hưởng và khai mở hồn
thơ Trọng Trí để sau này ông trở thành nhà thơ thiên tài.
1.2.2. Sự nghiệp
Nguyễn Trọng Trí mở đầu sự nghiệp thơ văn của mình với bút hiệu Minh
Duệ Thị bằng thể thơ Đường luật ngay khi tuổi đời chỉ mới 16. Trong khoảng thời
gian này, cụ Phan Bội Châu mở thi xã Mộng Du, lên tiếng kêu gọi các thức giả
xướng họa thơ văn. Nguyễn Trọng Trí cũng gởi bài đi với bút danh Phong Trần
được cụ họa lại và hết lời khen ngợi.
Tháng 10/1935, ông bỏ sở Đạc điền cùng với một số người bạn thơ văn vào
Sài Gòn làm báo. Tại đây Nguyễn Trọng Trí lấy bút hiệu là Lệ Thanh (tên làng Lệ
Mĩ, chánh quán Tân Thanh ghép lại), ông đoạt giải nhất cuộc thi thơ của một câu
lạc bộ thơ, bút hiệu Lệ Thanh cũng nổi tiếng từ đó. Nguyễn Trọng Trí cộng tác với
báo Trong Khuê Phòng, Đông Dương tuần báo, báo Người Mới. Năm 1936, khi phụ
trách trang văn chương báo Sài Gòn, Nguyễn Trọng Trí mới đổi hiệu là Hàn Mạc
Tử và sau này thành Hàn Mặc Tử nghĩa là “khách văn chương” theo lời khuyên của
một vài người bạn.
Tuy cuộc đời nhiều bi thương nhưng Hàn Mặc Tử là một trong những nhà
thơ có sức sáng tạo nhất trong phong trào thơ Mới. Bắt đầu bằng thơ cổ điển Đường
luật rồi chuyển sang sáng tác với khuynh hướng thơ Mới lãng mạn và sau này tiến
xa hơn là dòng thơ tượng trưng siêu thực. Với một diện mạo hết sức phức tạp và
một hồn thơ bí ẩn của Hàn Mặc Tử người ta vẫn thấy rõ một tình yêu đau đớn
hướng về cuộc đời trần trụi nơi ông.
Trường Đại học Bạc Liêu
14
GVHD: TS. Nguyễn Thế Truyền
SVTH: Trương Mỹ Yến
Hàn Mặc Tử đã để lại cho nền văn học nhiều tập thơ có giá trị như : “Gái
quê” - xuất bản năm 1936 lúc nhà thơ còn sống. “ Đau thương : thơ Điên ” (1938),
“ Xuân như ý ”, “Thượng thanh khí ”, “Cẩm châu duyên”,…”Duyên kì ngộ”
(1939), “Quần tiên hội” là hai tác phẩm kịch thơ. Và thơ văn xuôi “Chơi giữa mùa
trăng” (1940). Ngoài ra còn có một số tiểu luận, phỏng vấn, phóng sự.
1.2.3. Quan niệm về thơ
Nếu như các nhà thơ trong phong trào thơ Mới đều tìm đến với một bậc thi
nhân, một hồn thơ nào đó để học hỏi. Xuân Diệu thích Rimbaud và Verlaine, Chế
Lan Viên mê Edgar Poe, còn Hàn Mặc Tử thì khác. Chàng tuyên bố mình không
thích một nhà thơ phương Tây nào cả, chàng tiếp thu tất cả cái hay, cái đặc biệt của
họ để xây dựng cho mình một lối thơ riêng mà ông thích.
Mở đầu hành trình thơ bằng lối cổ điển Đường luật nhưng lại chuyển nhanh
qua lãng mạn trong phong trào thơ Mới và tiếp tục tiến đến siêu thực, hồn thơ Hàn
Mặc Tử như cơn lốc xoáy, ào ạt, hòa trộn tất cả nào là đau khổ và hạnh phúc, khát
vọng và tình yêu, tình đời và người đời,… Đối với ông, thơ như người bạn để gởi
gắm những gì đẹp nhất, hay nhất, khoái cảm nhất và những yêu thương si mê cuồng
dại nhất. Thơ cũng có lúc như cứu cánh giúp ông bớt đau đớn trong những cơn hành
hạ của bệnh tật. Vì thế Hàn Mặc Tử quan niệm về thơ rất rõ : “Thơ phải là sự ham
muốn vô biên nguồn khoái lạc trong trắng của một cõi trời tách biệt” còn “Người
thơ là khách lạ đi giữa nguồn thơ trong trẻo”. Và theo ông nói thì : “Tôi làm thơ là
bấm một đường tơ, rung rinh một làn ánh sáng”. (Quan niệm về thơ – Hàn Mặc Tử).
Ở lời tựa tập Thơ Điên, Hàn Mặc Tử viết: “Nàng đánh tôi đau quá, tôi bật ra
tiếng khóc, tiếng gào, tiếng rú”. Như thế theo ông thơ phải xuất phát từ những cảm
xúc chân thật không đem vào sự giả dối. Điều đó không có nghĩa trong quá trình
sáng tạo nhà thơ không thể bịa ra, không thể tưởng tượng ra nhiều thứ, mà trái lại
phải bịa phải tưởng tượng làm sao giống y như thật trên cơ sở của tình cảm., lúc đó
mới hòng được đọc giả tiếp nhận.
Ta thử nghe nhà thơ tiên đoán về cái chết của mình:
Trường Đại học Bạc Liêu
15
GVHD: TS. Nguyễn Thế Truyền
SVTH: Trương Mỹ Yến
“Một mai kia bên khe nước ngọc
Với sương sao anh nằm chết như trăng
Anh không thấy một nàng tiên mô đến khóc
Đến hôn anh và rửa vết thương lòng”.
(Duyên kì ngộ)
Và sự thật là thế, khi nhà thơ qua đời không bóng dáng một người thân, bạn bè nào
đến tiễn đưa.
Ở Phan Thiết! Phan Thiết,! thi sĩ thả trí tưởng tượng của mình lên chính tầng
trời:
“Nhớ khi xưa ta là chim phượng hoàng
Vỗ cánh bay lên chín tầng trời cao ngất”.
Đây là tiếng kêu rên từ nội tâm của một linh hồn tuyệt vọng vì thế nó hết sức chân
thật. Hay nỗi đau với giai nhân Mộng Cầm đã khiến cho Hàn Mặc Tử phải “hóa
điên hóa dại”:
“Người đi một nửa hồn tôi mất
Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ”.
(Những giọt lệ)
Trong trường Thơ mới, thơ Hàn Mặc Tử lạ hơn thơ mới và mới hơn những
người làm ra nền thơ ấy. Ông không cắt lìa hồn thơ mình với hồn thơ dân tộc, mà
giữ lại tinh hoa truyền thống nhưng lại có kiểu tư duy lạ. Nguồn thơ ấy không bao
giờ vơi cạn vì Hàn Mặc Tử hiến dâng cho thơ tất cả đời mình:
“Ta muốn hồn ta trào ra đầu ngọn bút
Mỗi hồn thơ đều dính não cân ta”.
(Rướm máu)
Trường Đại học Bạc Liêu
16
GVHD: TS. Nguyễn Thế Truyền
SVTH: Trương Mỹ Yến
1.2.4. Quan niệm nghệ thuật vị nghệ thuật
Nghệ thuật vị nghệ thuật hay nghệ thuật vị nhân sinh? Đó là câu hỏi vẫn
đang còn nhiều tranh cãi trong giới văn nghệ sĩ.
Mặc dù chơi thân với các nhà thơ cách mạng như Chế Lan Viên, người tù
cộng sản Nguyễn Minh Vỹ, từng tiếp xúc với chí sĩ Phan Bội Châu và từng ca ngợi
các văn sĩ cách mạng nước ngoài như : Maxime Gorki, Romain Rolland, Henri
Barbusse…, thế nhưng Hàn Mặc Tử vẫn nghiêng về khuynh hướng nghệ thuật vị
nghệ thuật.
Chủ trương của khuynh hướng này là người nghệ sĩ sáng tác chỉ phục vụ cho
bản thân nghệ thuật, không vì một ai khác. Cũng giống như con người muốn yêu gia
đình, yêu xóm làng, yêu quê hương đất nước,… trước hết phải yêu chính bản thân
mình. Không một ai có thể nói thánh rằng yêu người này người kia, vì người này
người khác,… mà không vì chính bản thân mình. Nghệ thuật cũng thế.
Là người nghệ sĩ sáng tác theo khuynh hướng nghệ thuật vị nghệ thuật nên
Hàn Mặc Tử ra sức bảo vệ quan điểm của mình. Trong bài “Thân oan cho Tố Tâm”
thi sĩ viết: “…làm việc là làm việc mà văn chương là văn chương…khi quý trọng
hay chê dè một quyển truyện nào ta nên đặt lòng tự ái và đảng phái ra ngoài…vì chỉ
có văn chương mới là đáng kể mà thôi.” (1938).
Mắc căn bệnh quái ác: bệnh phong, cả thế giới như sụp đổ trước mắt người
thi sĩ 26 tuổi này. Chàng phải sống cô đơn trong sự hắt hủi xa lánh của người đời và
tất nhiên nguồn cảm hứng của nhà thơ bất hạnh chỉ còn là “say trăng, say người
thục nữ, say kinh cầu nguyện, say trường tương tư” (Tình – Chơi giữa mùa trăng).
Nhà thơ kết luận rằng “trăng, hoa, nhạc, hương” mới chính là “yếu tố của thơ ca”:
“Đây phút thiêng liêng đã khởi đầu
Trời mơ trong cảnh thực huyền mơ!
Trăng sao đắm đuối trong sương nhạc
Như đón từ xa một ý thơ”
(Đà Lạt trăng mờ - Đau thương)
Trường Đại học Bạc Liêu
17
GVHD: TS. Nguyễn Thế Truyền
SVTH: Trương Mỹ Yến
Cũng dễ thông cảm cho nhà thơ, vì quá đau đớn trong bệnh tật, thi sĩ muốn
mượn hình ảnh của thiên nhiên, âm thanh của tạo vật làm người bạn đồng hành
trong hành trình chiến đấu với cái chết của mình để phần nào đó làm vơi đi nỗi đau
đớn về tinh thần và thể xác.
Trong quá trình sáng tác theo khuynh hướng nghệ thuật vị nghệ thuật, Hàn
Mặc Tử đã phát huy hết tài năng, đem đến cho văn học Việt Nam những nguồn thơ
mới lạ, trong trẻo, đôi lúc lại nhuốm màu huyền bí. Dù sáng tác theo khuynh hướng
nào đi chăng nửa, thì sự thành công của tác phẩm cũng như đóng góp của tác giả là
minh chứng cho yếu tố tích cực của khuynh hướng đó. Và chàng thi sĩ đau thương
Hàn Mặc Tử chúng ta đã làm được!
Trường Đại học Bạc Liêu
18
GVHD: TS. Nguyễn Thế Truyền
SVTH: Trương Mỹ Yến
CHƯƠNG 2: THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT TRONG THƠ HÀN MẶC TỬ
Trong phong trào thơ Mới, Hàn Mặc Tử là một tài năng lạ. Ông chỉ có mặt
trên đời trong một khoảng thời gian ngắn nhưng ngay trong quãng đời ngắn ngủi ấy
Hàn Mặc Tử lại phải sống một mình đối diện với căn bệnh hiểm nghèo. Nhưng nhà
thơ đã sống hết mình để có được một sức sáng tạo lớn, một thế giới nghệ thuật độc
đáo: “Tôi đã sống mãnh liệt và đầy đủ. Sống bằng tim, bằng phổi, bằng máu, bằng
lệ, bằng hồn. Tôi đã phát triển hết cảm giác của tình yêu. Tôi đã vui, buồn, giận,
hờn đến gần đứt cả sự sống” (Tựa Đau thương). Đây dường như là cường độ sống,
cường độ cảm xúc: “phát triển hết”, “gần đứt cả sự sống” của người biết trước cái
chết và người ấy đã chuyển tất cả thành nghệ thuật.
Như vậy, “thế giới nghệ thuật của Hàn Mặc Tử chính là kinh nghiệm đau
thương được hiển thị bằng ngôn từ, bằng nhạc, bằng hương”1.
2.1.
Ngôn ngữ thơ giàu hình ảnh
Trong khoảng 12 năm hiện diện trên bầu trời văn học, nhà thơ chúng ta đã in
đậm dấu chân mình từ thơ Đường đến lãng mạn rồi tượng trưng siêu thực. Cái “tôi”
trữ tình vì thế cũng biến hóa theo, khi gần gũi với con người qua những hình ảnh
mộc mạc, giản dị; khi hòa nhập với thế giới trăng sao, khi chìm đắm trong nỗi buồn
và có lúc hồn thơ muốn vượt mình ra ngoài vũ trụ bằng những vần thơ ghê gớm.
2.1.1. Trong sáng, ngọt ngào
Thơ Hàn Mặc Tử là hành trình dài đi từ cuộc đời để đến cõi xa xôi. Chính vì
thế dấu vết sự sống in đậm hơn cả là những miền quê. Ông dành cho miền quê ấy
những lời thơ trong sáng như ca dao, ngọt lành như trái chín với cái nhìn trẻ trung
lãng mạn và đầy bí ẩn. Ở cái tuổi “Hai mươi mốt tuổi, tuổi như hoa” chứa đựng bao
hy vọng:
“Ra đời thấy vui làm sao
Đầy cả say sưa với ngọt ngào…
Lúc ấy hồn ta như rạo rực
1
Nguyễn Đăng Điệp. Hàn Mặc Tử nước mắt giọng cười chen nhau, trong Hàn Mặc Tử tác phẩm và
dư luận, tr.240
Trường Đại học Bạc Liêu
19
GVHD: TS. Nguyễn Thế Truyền
SVTH: Trương Mỹ Yến
Bâng khuâng thèm uống rượu Quỳnh Dao”
(Chạy theo hạnh phúc)
Không giống như Anh Thơ chỉ miêu tả những bức tranh quê, hay Đoàn Văn
Cừ thích thú miêu tả trước những cảnh sinh hoạt hội hè, hoặc như Nguyễn Bính say
đắm trong miêu tả tình yêu, Hàn Mặc Tử đến với quê hương trong những khoảnh
khắc bừng sáng nhất của tâm hồn. Tình quê theo cách cảm của thi sĩ vì thế không
phải chỉ là tình đời, tình người ở chốn quê hương mà sâu xa hơn là biểu hiện cả
trong nhớ thương của thiên nhiên tạo vật.
Những hình ảnh thôn quê mộc mạc, gần gũi từ đám mây, dòng nước, đến lũy
tre, bờ liễu, ngàn lau,…tất cả đi vào thơ Hàn một cách êm ái.
“Mây chiều còn phiêu bạt
Lang thang trên đồi quê
Gió chiều quên dừng lại
Dòng nước luôn trôi đi
Ngàn lau không tiếng nói
Lòng anh dường đê mê…”
(Tình quê)
Hình ảnh thơ mộng của sông Hương, cầu Tràng Tiền, những cô gái áo tím
thướt tha, những thôn xóm ven bờ sông như Vĩ Dạ, nổi tiếng bởi những cây trái
xanh tươi bốn mùa, những ngôi nhà duyên dáng, vườn tược, sông nước:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”
(Đây thôn Vĩ Dạ)
Như đã biết, nhà thơ Hàn Mặc Tử của chúng ta là một dân thành thị - lại có
sống và làm báo ở Sài Gòn. Nhưng sao hồn thơ anh lại hướng về nông thôn và lời
thơ anh viết về người nông dân lao động lại nhẹ nhàng, trong sáng gần như một lời
ca dân gian:
Trường Đại học Bạc Liêu
20
- Xem thêm -