HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN QUỐC CƯỜNG
THI HÀNH NGHĨA VỤ DÂN SỰ TRONG BẢN ÁN,
QUYẾT ĐỊNH HÌNH SỰ TỪ THỰC TIỄN HUYỆN
QUẾ VÕ, TỈNH BẮC NINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT HÌNH SỰ
Mã số: 8 38 01 04
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Trần Minh Chất
HÀ NỘI - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy,
chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng
được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Nguyễn Quốc Cường
MỤC LỤC
Trang
Mở đầu
1
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THI HÀNH NGHĨA VỤ 8
DÂN SỰ TRONG BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH HÌNH SỰ
1.1. Nhận thức về nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự
8
1.2. Khái niệm, vai trò, đặc điểm, quy trình thi hành nghĩa vụ dân sự trong
17
bản án, quyết định hình sự
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án,
29
quyết định hình sự
Chương 2 THỰC TRANG THI HÀNH NGHĨA VỤ DÂN SỰ TRONG
38
BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH HÌNH SỰ TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN QUẾ VÕ, TỈNH BẮC NINH
2.1. Tình hình có liên quan đến thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án,
38
quyết định hình sự trên địa bàn huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh
2.2. Thực trạng tổ chức thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết
45
định hình sự trên địa bàn huyện Quế võ, tỉnh Bắc Ninh
2.3. Nhận xét, đánh giá
Chương 3 DỰ BÁO VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THI
59
69
HÀNH NGHĨA VỤ DÂN SỰ TRONG BẢN ÁN, QUYẾT
ĐỊNH HÌNH SỰ TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN QUẾ VÕ, TỈNH
BẮC NINH
3.1. Dự báo các yếu tố tác động đến thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản
69
án, quyết định hình sự của chi cục thi hành án dân sự huyện Quế Võ
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án,
72
quyết định hình sự của chi cục thi hành án dân sự huyện Quế Võ
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
89
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS:
Bộ luật hình sự
CHV:
Chấp hành viên
NVDS:
Nghĩa vụ dân sự
THADS:
Thi hành án dân sự
THNVDS:
Thi hành nghĩa vụ dân sự
TTHS:
Tố tụng hình sự
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu bảng
Tên bảng
Bảng 2.1: Tình hình về việc và tiền phải thi hành án của Chi cục thi
hành án dân sự huyện Quế Võ giai đoạn 2015-2019
Bảng 2.2: Kết quả thi hành án dân sự của Chi cục thi hành án dân sự
huyện Quế Võ giai đoạn 2015-2019
Bảng 2.3: Thống kế số bản án, quyết định hình sự đã tiếp nhận của Chi
cục Thi hành án dân sự huyện Quế Võ giai đoạn 2015 - 2019
Bảng 2.4: Tình hình về việc và tiền phải thi hành án thuộc nghĩa vụ
dân sự trong bản án, quyết định hình sự của Chi cục thi
hành án dân sự huyện Quế Võ giai đoạn 2015-2019
Bảng 2.5: Kết quả thi hành thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết
định hình sự của Chi cục thi hành án dân sự huyện Quế Võ
giai đoạn 2015-2019
Bảng 2.6: Kết quả phối hợp với Trại giam trong thi hành thi hành nghĩa vụ
dân sự trong bản án, quyết định hình sự của Chi cục thi hành
án dân sự huyện Quế Võ giai đoạn 2015-2019
Bảng 2.7: Tổ chức, biên chế của Chi cục thi hành án dân sự huyện
Quế Võ giai đến hết tháng 12/2019
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân đòi hỏi Nhà nước phải quản lý xã hội bằng pháp luật
và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, đảm bảo phát huy
quyền làm chủ của nhân dân lao động. Để khẳng định yêu cầu này, Điều 106
Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 quy định:
"Bản án, quyết định của Toà án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ
quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải
nghiêm chỉnh chấp hành" [31]. Vấn đề cải cách tổ chức, nâng cao chất lượng
và hoạt động của các cơ quan Tư pháp, nâng cao tinh thần trách nhiệm của cơ
quan và cán bộ Tư pháp, trong đó có cơ quan THADS được coi là một trong
những nội dung quan trọng trong cải cách thể chế và phương thức hoạt động
của Nhà nước.
Thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự là một nội
dung quan trọng của THADS. Hoạt động này mang tính quyền lực nhà nước
nhằm thực hiện bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án trong thực tiễn.
Nhiệm vụ của giai đoạn này nhằm thi hành các hình phạt tiền, tịch thu tài sản
và thi hành các quyết định dân sự khác mà Tòa án áp dụng đối với người bị
kết án. Với ý nghĩa là giai đoạn cuối cùng của quá trình giải quyết một vụ án
hình sự, THNVDS trong bản án, quyết định hình sự có mối quan hệ hữu cơ
với các giai đoạn tố tụng: khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử. Nếu mục đích của
THNVDS trong bản án, quyết định hình sự không đạt được thì hoạt động của
các cơ quan tiến hành tố tụng như điều tra, truy tố, xét xử trước đó cũng trở
nên vô nghĩa.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của THNVDS trong bản án, quyết định
hình sự, trong những năm vừa qua, Chi cục THADS huyện Quế Võ, tỉnh Bắc
Ninh đã triển khai đồng bộ nhiều biện pháp, phối hợp với các lực lượng tổ
chức THNVDS trong bản án, quyết định hình sự và đã đạt được những kết
quả quan trọng, góp phần hoàn thành tốt các nhiệm vụ của công tác thi hành
2
án dân sự trên địa bàn huyện nói chung; nhiều vụ việc phức tạp, tồn đọng kéo
dài đã được tổ chức thi hành dứt điểm; một số việc thi hành án có ảnh hưởng
đến tình hình an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội tại địa phương cũng đã
được chính quyền các cấp quan tâm chỉ đạo và tổ chức thi hành hiệu quả.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, hoạt động THNVDS
trong bản án, quyết định hình sự của Chi cục THADS huyện Quế Võ, tỉnh
Bắc Ninh vẫn còn bộc lộ những tồn tại, hạn chế, chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu
của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới. Số lượng việc,
đặc biệt là lượng tiền tồn đọng qua các năm còn lớn. Nhiều bản án, quyết định
về hình sự đã có hiệu lực pháp luật nhưng chưa được tổ chức thi hành dứt
điểm. Tình trạng trên có nhiều nguyên nhân cả về chủ quan và khách quan
như: Về chủ quan: Một số CHV, cán bộ làm công tác thi hành án còn hạn chế
về chuyên môn nghiệp vụ, tinh thần trách nhiệm chưa cao, chưa tận tụy với
công việc. Về khách quan: Ý thức chấp hành pháp luật của người dân trên địa
bàn huyện còn chưa cao; nhiều vụ việc người phải thi hành án cố tình chây ỳ,
trốn tránh không thực hiện nghĩa vụ thi hành án; một số cấp ủy, chính quyền
địa phương chưa nhận thức đầy đủ trách nhiệm của mình trong việc phối hợp
giải quyết việc THADS theo quy định của pháp luật; công tác phối hợp thi
hành án của một số cơ quan hữu quan theo qui định của pháp luật còn chưa
chặt chẽ và đồng bộ; cơ sở pháp lý về áp dụng pháp luật THADS chưa được
hoàn thiện, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về THADS chưa đầy đủ,
chưa được sửa đổi, bổ sung đồng bộ; cơ chế áp dụng pháp luật thi hành án hiện
nay chưa thực sự hợp lý, làm giảm hiệụ quả của công tác THADS. Thực tế đó,
đòi hỏi cần phải có những giải pháp tổng thể khắc phục những hạn chế nêu trên
nhằm tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thi hành án dân sự của Chi
cục THADS huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh, đảm bảo cho các bản án, quyết định
của Toà án có hiệu lực pháp luật được thi hành trên thực tế.
Xuất phát từ lý do trên, học viên lựa chọn đề tài: "Thi hành nghĩa vụ
dân sự trong bản án, quyết định hình sự từ thực tiễn huyện Quế Võ, tỉnh
Bắc Ninh" để nghiên cứu viết luận văn thạc sĩ luật học.
3
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Cho đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu, bài viết về THNVDS
trong bản án, quyết định hình sự trên các sách báo, tạp chí (Tạp chí Tòa án
nhân dân, Tạp chí kiểm sát, Tạp chí dân chủ và pháp luật, Tạp chí luật học
v.v...). Tuy nhiên, các công trình, bài viết mới chỉ đi vào những vấn đề chung
mà chưa đi sâu vào việc nghiên cứu về cơ sở lý luận cũng như những bất cập
đang tồn tại trong thực tiễn.
Trong các giáo trình giảng dạy tại các trường Đại học, Học viện cũng chỉ
đề cập rất ít và ở góc độ cơ bản về vấn đề này ở các công trình sau:
- GS.TSKH Lê Cảm: "Một số vấn đề lý luận chung về các giai đoạn tố
tụng hình sự", Tạp chí Kiểm sát, số 02/2004 [10];
- PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí: "Bàn về nguyên tắc giải quyết vấn đề dân
sự trong vụ án hình sự", Tạp chí Khoa học, (Luật học), số 26, 2010 [16];
- Yến Minh: "Công tác thi hành án dân sự còn nhiều vướng mắc, bất
cập", đăng trên trang thông tin điện tử của Tổng Cục thi hành án dân sự - Bộ
Tư pháp ngày 13/08/2013 [25].
- Nguyễn Thanh Thủy: "Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự", Luận
văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, 2001 [43];
- Nguyễn Quang Thái: "Đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án dân
sự ở Việt Nam", Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh, 2003 [41];
- Kim Sơn Trúc: "Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự và thực
tiễn áp dung trên địa bàn tỉnh Hà Giang”, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học
Quốc gia Hà Nội 2015 [39].
- Nguyễn Bích Thảo, Nguyễn Thị Hương Giang: "Hoàn thiện cơ chế xác
định điều kiện thi hành án dân sự ở Việt Nam từ kinh nghiệm quốc tế”, Tạp
chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội: Luật học, Tập 34, Số 1 (2018) [42].
- Tống Duy Lượng, "Những vấn đề đặt ra trong công tác thi hành án
dân sự, kinh doanh thương mại”, Tạp chí Kiểm sát, số 23 năm 2018 [24].
- Đoàn Thị Phượng, "Hoạt động thi hành án dân sự ở tỉnh Bình Định và
4
bài học kinh nghiệm”, Tạp chí dân chủ, pháp luật số 3 năm 2019 [27].
Các công trình nói trên đã đề cập đến các khía cạnh khác nhau của việc
THNVDS trong bản án, quyết định hình sự của tòa án nhưng chưa có công
trình nào nghiên cứu một cách tương đối toàn diện và tương đối có hệ thống
về THNVDS trong bản án, quyết định hình sự của tòa án và các giải pháp
nâng cao hiệu quả THNVDS trong bản án, quyết định hình sự của tòa án dưới
cấp độ một luận văn thạc sĩ Luật học.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Bổ sung góp phần hoàn thiện lý luận về THNVDS trong bản án, quyết
định hình sự; đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả THNVDS trong bản
án, quyết định hình sự trên địa bàn huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh trong thời
gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, tác giả của luận văn đã đặt ra và giải quyết
các nhiệm vụ sau:
- Phân tích, làm rõ lý luận THNVDS trong bản án, quyết định hình sự
của cơ quan thi hành án dân sự.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng THNVDS trong bản án, quyết định hình
sự trên địa bàn huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh; nêu ra ưu điểm kết quả đã đạt
được, đồng thời chỉ ra những hạn chế, thiết sót và nguyên nhân của hạn chế,
thiếu sót trong THNVDS trong bản án, quyết định hình sự trên địa bàn huyện
Quế Võ, tỉnh bắc Ninh.
- Dự báo tình hình có liên quan và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu
quả THNVDS trong bản án, quyết định hình sự trên địa bàn huyện Quế Võ,
tỉnh Bắc Ninh trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực tiễn
THNVDS trong bản án, quyết định hình sự trên địa bàn huyện Quế Võ, tỉnh
5
Bắc Ninh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung nghiên cứu của luận văn: Nghiên cứu, khảo sát hoạt động thi
hành hình phạt tiền, tịch thu tài sản và các quyết định dân sự khác trong bản
án, quyết định hình sự trên địa bàn huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.
- Về chủ thể: Chi cục THADS huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.
- Về thời gian: Từ năm 2015 đến hết năm 2019.
- Về không gian: huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài luận văn được nghiên cứu dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác
- Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh và các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp
luật của Nhà nước ta về xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt
Nam xã hội chủ nghĩa, chính sách THNVDS trong bản án, quyết định hình sự
của tòa án và các Nghị quyết và Chỉ thị của Đảng, các văn bản pháp luật của
Nhà nước về pháp luật hình sự và pháp luật về THNVDS trong bản án, quyết
định hình sự của tòa án.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài luận văn được thực hiện thông qua các phương pháp nghiên cứu
cụ thể sau đây:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Tác giả luận văn đã nghiên cứu, phân
tích, tổng hợp các văn bản quy phạm pháp luật, các công trình khoa học của
các nhà khoa học nghiên cứu về THNVDS trong bản án, quyết định hình sự
của tòa án. Kết quả nghiên cứu tài liệu được tác giả trình bày ở phần nhận thức
chung về hoạt động THNVDS trong bản án, quyết định hình sự của tòa án;
- Phương pháp thống kê, phân tích số liệu: Từ các báo cáo tổng kết công
tác năm của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh từ năm
2015 đến hết năm 2019, học viên đã thống kê, phân tích các số liệu có liên
quan đến tình hình, đặc điểm các bản án và quyết định hình sự của Tòa án và
kết quả thi hành bản án và quyết định hình sự trên địa bàn huyện Quế Võ, tỉnh
6
Bắc Ninh. Kết quả phân tích, thống kê số liệu đã được tác giả sử dụng để làm
rõ những nội dung về thực trạng hành bản án và quyết định hình sự trên địa
bàn huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh ở Chương 2.
- Phương pháp thống kê, so sánh: Từ những báo cáo kết quả THNVDS
trong bản án, quyết định hình sự trên địa bàn huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh để
so sánh, phân tích, đánh giá các kết quả đã đạt được trong công tác này.
- Phương pháp nghiên cứu điển hình: Trên cơ sở khảo sát thực trạng
THNVDS trong bản án, quyết định hình sự trên địa bàn huyện Quế Võ, tỉnh
Bắc Ninh làm rõ, tác giả đã lựa chọn, nghiên cứu những vụ việc điển hình để
đưa vào làm ví dụ minh chứng trong luận văn. Qua nghiên cứu, làm rõ tình
hình, đặc điểm và chỉ ra những nguyên nhân, điều kiện dẫn đến những hạn
chế trong THNVDS trong bản án, quyết định hình sự trên địa bàn huyện Quế
Võ, tỉnh Bắc Ninh.
- Phương pháp tổng kết thực tiễn: Đề tài nghiên cứu, tổng kết thực tiễn
các mặt hoạt động THNVDS trong bản án, quyết định hình sự trên địa bàn
huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh. Từ đó, phân tích, đánh giá và đưa ra những
nhận xét về những kết quả đã đạt được, hạn chế, thiếu sót, nguyên nhân của
hạn chế, thiếu sót để đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả THNVDS trong
bản án, quyết định hình sự trên địa bàn huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.
- Phương pháp chuyên gia: Trực tiếp trao đổi với các nhà khoa học, các
đồng chí lãnh đạo, cán bộ chấp hành viên có kinh nghiệm trong THNVDS
trong bản án, quyết định hình sự trên địa bàn huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh;
tiến hành xin ý kiến đóng góp của các nhà khoa học, các chuyên gia, cán bộ
thực tiễn nhằm làm sáng tỏ các nội dung trong luận văn để tác giả tiếp thu,
chỉnh sửa và hoàn thiện luận văn.
6. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài luận văn
6.1. Ý nghĩa khoa học
Bổ sung, hoàn thiện lý luận về THNVDS trong bản án, quyết định hình
sự. Những giải pháp là cơ sở cho việc nghiên cứu, tổng kết trong lực lượng thi
hành án nói chung, là tài liệu nghiên cứu học tập, tham khảo trong các cơ sở
7
đào tạo tư pháp nói riêng. Những kết quả nghiên cứu của luận văn đã đạt được
sẽ góp phần bổ sung, hoàn thiện lý luận về khoa học luật tố tụng hình sự, là
tài liệu tham khảo hữu ích cho những cán bộ nghiên cứu về khoa học luật tố
tụng hình sự và khoa học tư pháp.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Qua nghiên cứu luận văn giúp phân tích, làm rõ thực trạng THNVDS
trong bản án, quyết định hình sự trên địa bàn huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.
Xác định những nguyên nhân hạn chế, thiếu sót và đưa ra các giải góp phần
nâng cao hiệu quả THNVDS trong bản án, quyết định hình sự trên địa bàn
huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh trong thời gian tới.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, nội dung kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và
phần phụ lục, luận văn được kết cấu gồm 03 chương:
Chương 1: Nhận thức về thi hành nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết
định hình sự.
Chương 2: Tình hình liên quan và thực trạng thi hành nghĩa vụ dân sự trong
bản án, quyết định hình sự trên địa bàn huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.
Chương 3: Dự báo và giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành nghĩa vụ dân sự
trong bản án, quyết định hình sự trên địa bàn huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh.
8
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THI HÀNH NGHĨA VỤ DÂN SỰ
TRONG BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH HÌNH SỰ
1.1. NHẬN THỨC VỀ NGHĨA VỤ DÂN SỰ TRONG BẢN ÁN,
QUYẾT ĐỊNH HÌNH SỰ
Bản án, quyết định hình sự là quyết định bằng văn bản của Tòa án nhân
danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam xét xử một vụ án hình sự cụ
thể. Trong các bản án, quyết định hình sự của Tòa án các NVDS phát sinh từ
quyết định hình phạt tiền; quyết định tịch thu tài sản; quyết định truy thu tiền,
tài sản thu lời bất chính; quyết định về án phí quyết định trả lại tài sản, sửa
chữa hoặc bồi thường thiệt hại; buộc công khai xin lỗi, cấp dưỡng (gọi chung là
các quyết định dân sự trong bản án). Do vậy, để làm rõ NVDS trong bản án,
quyết định hình sự, trước tiên cần làm rõ về hình phạt tiền, tịch thu tài sản và
các quyết định dân sự trong bản án, quyết định hình sự:
1.1.1. Khái niệm, căn cứ áp dụng hình phạt tiền và tịch thu tài sản
1.1.1.1. Khái niệm, căn cứ áp dụng hình phạt tiền
- Khái niệm:
Theo Điều 30 BLHS, sửa đổi, bổ sung năm 2017, quy định: “Hình phạt
là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy định trong
Bộ luật này, do Toà án quyết định áp dụng đối với người hoặc pháp nhân
thương mại phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người ,
pháp nhân thương mại đó” [36].
Mục đích của hình phạt là nhằm trừng trị người phạm tội, giáo dục họ trở
thành người có ích cho xã hội đồng thời còn nhằm mục đích đấu tranh phòng
ngừa và chống tội phạm.
Mặc dù được ghi nhận khá sớm trong pháp luật hình sự, song vẫn chưa
có một khái niệm pháp lý chính thức nào về hình phạt tiền trong các văn bản
pháp luật hình sự và cho đến nay hình phạt tiền mới chỉ được ghi nhận trong
9
các giáo trình, sách báo pháp lý chuyên ngành. Có thể kể đến một số quan
điểm sau:
- Phạt tiền là một loại hình phạt được áp dụng là hình phạt chính hoặc
hình phạt bổ sung, khi hình phạt chính là loại hình phạt khác. Phạt tiền do Tòa
án quyết định trong những trường hợp do luật định mà theo đó người bị kết án
buộc phải trả một số tiền tùy theo mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây
ra, đồng thời xem xét đến tình hình tài sản của người bị kết án và sự biến
động của giá cả.
- Phạt tiền là hình phạt không tước tự do, nhẹ hơn hình phạt cải tạo
không giam giữ, buộc người bị kết án phải nộp sung công quỹ nhà nước một
khoản tiền nhất định.
- Phạt tiền là hình phạt tước của người phạm tội một khoản tiền nhất
định sung công quỹ nhà nước.
Các khái niệm trên mặc dù đã cố gắng chỉ ra các dấu hiệu pháp lý đặc
trưng của hình phạt tiền nhưng còn dài dòng, chưa phù hợp với một khái niệm
mang tính chất pháp lý. Khái niệm "Phạt tiền là hình phạt tước của người
phạm tội một khoản tiền nhất định sung công quỹ nhà nước" sử dụng thuật
ngữ pháp lý "người phạm tội" để chỉ đối tượng bị áp dụng hình phạt tiền là
chưa hợp lý vì chỉ những người bị Tòa án quyết định áp dụng hình phạt tiền
mới bị tước một khoản tiền nhất định sung công quỹ nhà nước. Do vậy, sẽ là
chính xác hơn nếu sử dụng thuật ngữ "người bị kết án" thay cho thuật ngữ
"người phạm tội".
Như vậy, có thể đưa ra khái niệm: Phạt tiền là hình phạt được qui định
trong Bộ luật hình sự Việt Nam, nhằm tước đi của người bị kết án một khoản
tiền nhất định sung công quỹ nhà nước.
- Căn cứ áp dụng hình phạt tiền:
Trong hệ thống hình phạt Việt Nam, hình phạt tiền có thể được áp dụng
là hình phạt chính hoặc hình phạt bổ sung. Trong tổng số 318 Điều luật qui
định về tội phạm cụ thể quy định trong Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung
10
2017, số điều luật qui định hình phạt tiền là hình phạt chính có 114/318 chiếm
tỷ lệ 35,8%.
Tại Khoản 1 Điều 33 BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định
các hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội: ‘‘1. Hình phạt chính
bao gồm: Phạt tiền” [36]
Khoản 1 Điều 35 BLHS 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 qui định căn
cứ để áp dụng phạt tiền là hình phạt chính như sau:
1. Phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính đối với các trường hợp
sau đây:
a) Người phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng do bộ
luật này quy định;
b) Người phạm tội rất nghiêm trọng xâm phạm trật tự quản lý kinh
tế, môi trường, trật tự công cộng, an toàn công cộng và một số tội
phạm khác do Bộ luật này qui định.
...
4. Hình phạt tiền đối với pháp nhân thương mại phạm tội được quy
định tại Điều 77 của Bộ luật này [34].
Điều 77 BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 qui định quy định:
1. Phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính hoặc hình phạt bổ
sung đối với pháp nhân thương mại phạm tội.
2. Mức tiền phạt được quyết định căn cứ vào tính chất, mức độ
nguy hiểm của tội phạm và có xét đến tình hình tài chính của của
pháp nhân thương mại phạm tội, sự biến động của giá cả nhưng
không được thấp hơn 50.000.000 đồng [36].
Như vậy, phạt tiền được qui định là hình phạt chính cho các nhóm tội
phạm sau:
+ Nhóm tội phạm có tính chất vụ lợi, như: Tội buôn lậu; tội vận chuyển
trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới; tội sản xuất, tàng trữ, vận chuyển,
buôn bán hàng cấm; tội đầu cơ; tội trốn thuế; tội lừa dối khách hàng...
11
+ Nhóm tội phạm dùng tiền làm phương tiện phạm tội, như: Tội đánh
bạc; tội tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc...
+ Nhóm tội phạm khác: đây là một số tội tuy không thuộc hai trường hợp
trên nhưng nhà làm luật thấy rằng cần thiết áp dụng phạt tiền là hình phạt
chính đối với người phạm tội nhằm đạt được tối đa mục đích của hình phạt,
như: Tội gây rối trật tự công cộng; tội hành nghề mê tín dị đoan; tội truyền bá
văn hóa phẩm đồi trụy; tội vi phạm qui chế về khu vực biên giới; tội chứa
chấp hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có; tội vi phạm quy
định về xuất cảnh, nhập cảnh hoặc ở lại Việt Nam trái phép...
+ Pháp nhân thương mại phạm tội.
Ngoài ra để quyết định áp dụng phạt tiền là hình phạt chính thì phải
căn cứ theo qui định chung tại Điều 50 BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung
năm 2017:
1. Khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ vào qui định của Bộ luật
này, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành
vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và
tăng nặng trách nhiệm hình sự
2. Khi quyết định áp dụng hình phạt tiền, ngoài căn cứ quy định tại
khoản 1 Điều này, Toà án căn cứ vào tình hình tài sản, khả năng thi
hành của người phạm tội [36].
Một điều kiện không thể bỏ qua khi quyết định áp dụng phạt tiền là hình
phạt chính là điều kiện kinh tế của người phạm tội phải có khả năng thực hiện
nộp một khoản tiền nhất định theo hình thức một lần hay nhiều lần trong thời
hạn do Tòa án quyết định.
Phạt tiền còn được áp dụng là hình phạt bổ sung trong hệ thống hình
phạt Việt Nam. Tại Khoản 2 Điều 35 BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm
2017 qui định căn cứ để áp dụng phạt tiền là hình phạt bổ sung như sau: “2.
Hình phạt tiền được áp dụng là hình phạt bổ sung đối với người phạm tội về
tham nhũng, ma túy hoặc những tội phạm khác do Bộ luật này qui đinh” [36].
12
Khoản 2 Điều 33 BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 quy định các
hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội: ‘‘2. Hình phạt bổ sung bao
gồm: Phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính” [36]
Trong tổng số 318 điều luật qui định về tội phạm cụ thể, số điều luật qui
định hình phạt tiền là hình phạt bổ sung có 126/318 chiếm tỷ lệ 39,6%. Phạt
tiền được qui định là hình phạt bổ sung cho các nhóm tội phạm sau:
+ Nhóm tội phạm về tham nhũng, như: Tội tham ô; tội nhận hối lộ; tội lạm
dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản; tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn
trong khi thi hành công vụ; tội lạm quyền trong khi thi hành công vụ...
+ Nhóm tội phạm về ma túy, như: Tội trồng cây thuốc phiện, cây cooca,
cây cần sa hoặc các loại cây khác có chứa chất ma túy; tội sản xuất trái phép
chất ma túy; tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất
ma túy...
+ Nhóm tội phạm khác: Đây là một số tội tuy không thuộc hai trường hợp
trên nhưng nhà làm luật thấy rằng cần thiết áp dụng phạt tiền là hình phạt bổ
sung đối với người phạm tội nhằm đạt được tối đa mục đích trừng trị người
phạm tội và mục đích phòng chống tội phạm, như: tội mua bán người; tội mua
bán người dưới 16 tuổi; tội đánh tráo người dưới 01 tuổi; tội chiếm đoạt người
dưới 16 tuổi; tội vu khống và một số tội phạm về xâm phạm sở hữu...
+ Pháp nhân thương mại phạm tội.
Để áp dụng phạt tiền là hình phạt bổ sung thì Tòa án còn căn cứ vào qui
định chung tại Điều 50 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Điểm khác biệt so với trường hợp áp dụng phạt tiền là hình phạt chính
thì khi áp dụng phạt tiền là hình phạt bổ sung, điều kiện kinh tế của người
phạm tội không phải là điều kiện bắt buộc để áp dụng.
1.1.1.2. Khái niệm hình phạt tịch thu tài sản và căn cứ áp dụng hình
phạt tịch thu tài sản
- Khái niệm:
Theo quy định tại Điều 45 BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017:
13
“Tịch thu tài sản là tước một phần hoặc toàn bộ tài sản thuộc sở hữu của
người bị kết án để nộp vào ngân sách nhà nước” [36].
Tịch thu tài sản là biện pháp cưỡng chế rất nghiêm khắc về mặt kinh
tế. So sánh với các hình phạt chính không tước quyền tự do và cả với một
số hình phạt bổ sung khác thì hình phạt tịch thu tài sản còn nghiêm khắc
hơn rất nhiều.
Tính nghiêm khắc của hình phạt này thể hiện ở chỗ người bị kết án có
thể bị tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản thuộc sở hữu của họ để nộp vào
ngân sách Nhà nước, nhằm mục đích triệt để thu hồi các tài sản của người bị
kết án do thu lợi bất chính mà có, đồng thời triệt tiêu cơ sở kinh tế của họ
nhằm ngăn ngừa họ có thể sử dụng các tài sản đó vào hoạt động phạm tội, gây
nguy hại cho xã hội, thông qua đó giáo dục người bị kết án ý thức tôn trọng
pháp luật, không phạm tội mới và răn đe những người có nguy cơ phạm tội
trong xã hội, thực hiện phòng ngừa chung trong xã hội. Như vậy, chức năng
cơ bản của loại hình phạt này là chức năng phòng ngừa tội phạm.
- Căn cứ áp dụng hình phạt tịch thu tài sản:
Theo qui định tại điểm đ Khoản 2 Điều 32 BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ
sung năm 2017 thì tịch thu tài sản là hình phạt bổ sung nên chỉ được áp dụng
cùng các hình phạt chính chứ không được áp dụng một cách độc lập. Trong
tổng số 318 điều luật qui định về tội phạm cụ thể, số điều luật có qui định
hình phạt tịch thu tài sản là 47/318 chiếm tỷ lệ 14,7%.
Tại Điều 45 BLHS năm 2015, sửa đổi , bổ sung năm 2017 qui định điều
kiện áp dụng hình phạt tịch thu tài sản như sau:
Tịch thu tài sản chỉ được áp dụng đối với người bị kết án về tội
phạm nghiêm trọng, tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc
biệt nghiêm trọng xâm phạm an ninh quốc gia, tội phạm về ma
tuý, tham nhũng hoặc tội phạm khác do Bộ luật này qui định. Khi
tịch thu toàn bộ tài sản vẫn để cho người bị kết án và gia đình họ
có điều kiện sinh sống [36].
14
Như vậy, với người bị kết án về tội ít nghiêm trọng không bị áp dụng
hình phạt tịch thu tài sản. Ngoài ra, để thể hiện tính nhân đạo của Nhà nước ta
thì trong trường hợp người bị kết án bị tịch thu toàn bộ tài sản, các cơ quan tố
tụng trong quá trình thực hiện vẫn phải để cho người bị kết án và gia đình họ
có điều kiện sinh sống.
Các tội có thể bị áp dụng hình phạt tịch thu tài sản là các tội thuộc nhóm
tội xâm phạm an ninh quốc gia theo như qui định của Điều 122 BLHS năm
2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; các tội xâm phạm sở hữu; các tội xâm phạm
trật tự quản lý kinh tế; các tội về ma túy; các tội xâm phạm an toàn công
cộng, trật tự công cộng; các tội về chức vụ.
Tài sản bị tịch thu phải thuộc sở hữu của người bị kết án hoặc tài sản do
người phạm tội có được do thu lời bất chính.
1.1.2. Khái niệm, căn cứ áp dụng quyết định dân sự trong bản án,
quyết định hình sự
1.1.2.1. Khái niệm
Trong các bản án hình sự của Tòa án, bên cạnh các quyết định về hình
phạt tù, hình phạt tiền, tịch thu tài sản còn có các quyết định dân sự khác.
Quyết định dân sự trong các bản án hình sự như quyết định về án phí; các
quyết định dân sự thuộc phần các biện pháp tư pháp qui định trong chương
VII của BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 như: quyết định tịch
thu vật, tiền trực tiếp liên quan đến tội phạm (Điều 47); quyết định trả lại
tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại; quyết định buộc công khai xin
lỗi (Điều 48).
Như vậy có thể hiểu: Quyết định dân sự trong bản án hình sự là các
phán quyết pháp lý mang tính quyền lực do Tòa án có thẩm quyền ban hành
nhằm xác định các quyền và nghĩa vụ pháp lý cụ thể của các cá nhân, tổ chức
hoặc xác định những biện pháp trách nhiệm pháp lý đối với người vi phạm
pháp luật.
1.1.2.2. Căn cứ áp dụng
15
Cơ sở pháp lý để thực hiện vấn đề này là Bộ luật TTHS. Điều 30 Bộ luật
TTHS năm 2015 quy định giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự như
sau: Việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự được tiến hành cùng
với việc giải quyết vụ án hình sự. Trường hợp vụ án hình sự phải giải quyết
vấn đề bồi thường, bồi hoàn mà chưa có điều kiện chứng minh và không ảnh
hưởng đến việc giải quyết vụ án hình sự thì vấn đề dân sự có thể tách ra để
giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.
Các hoạt động của cơ quan Nhà nước nói chung và của các cơ quan tiến
hành tố tụng nói riêng đều cần một khoản chi phí nhất định. Chính vì vậy,
Nhà nước buộc người bị kết án phải chịu một khoản chi phí là án phí để bù
đắp các chi phí tiến hành TTHS.
Người phạm tội trong quá trình thực hiện tội phạm nếu có lỗi và làm
phát sinh các thiệt hại về tài sản, sức khỏe, tính mạng và danh dự, nhân phẩm
của người khác nên ngoài trách nhiệm hình sự còn phải chịu trách nhiệm về
dân sự. Khi các cơ quan tiến hành tố tụng chứng minh, giải quyết trách nhiệm
hình sự cũng phải chứng minh, giải quyết các quan hệ dân sự phát sinh do
hành vi phạm tội và đó là các căn cứ áp dụng quyết định dân sự trong bản án,
quyết định hình sự như quyết định: trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường
thiệt hại, công khai xin lỗi.
1.1.3. Khái niệm nghĩa vụ dân sự trong bản án, quyết định hình sự
Hình phạt phạt tiền và tịch thu tài sản dù với vai trò là hình phạt chính
hoặc bổ sung do Tòa án quyết định trong bản án, quyết định hình sự thì đều
dẫn đến một hậu quả là tước bỏ của người bị kết án một phần hoặc toàn bộ tài
sản, tiền nên về bản chất dưới góc độ pháp luật dân sự thì đó lại là các nghĩa
vụ dân sự phát sinh từ các quyết định hình sự trong bản án, quyết định hình sự
và ngoài ra còn nhiều nghĩa vụ dân sự phát sinh từ các quyết định dân sự khác
mà tòa án quyết định buộc người bị kết án phải chịu.
Các quyết định hình phạt tiền, tịch thu tài sản và các quyết định dân sự
như trên sau khi được Tòa án quyết định áp dụng thì phát sinh các nghĩa vụ
- Xem thêm -