VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN HỮU HÒA
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XỔ SỐ KIẾN THIẾT
TỪ THỰC TIỄN TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
Chuyên ngành: Chính sách công
Mã số: 60 34 04 02
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS NGUYỄN MẠNH HÙNG
HÀ NỘI, năm 2017
LỜI CẢM ƠN
Trước hết, cho tôi được gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất tới thầy giáo,
PGS.TS Nguyễn Mạnh Hùng đã trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ tôi rất tận tình
trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
Xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo ở khoa Chính sách công, ở Học
viện Khoa học xã hội và Cơ sở học viện Đà Nẵng đã giúp đỡ tôi trong suốt quá
trình học tập và tạo điều kiện cho tôi hoàn thành đề tài này.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng song luận văn không tránh khỏi những thiếu
sót, rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của thầy giáo hướng dẫn, các thầy
giáo, cô giáo ở Học viện Khoa học xã hội, Cơ sở học viện Đà Nẵng, các bạn
học viên và những người quan tâm để luận văn được đầy đủ nội dung và đạt
được kết quả cao nhất.
Xin chân thành cảm ơn!
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong Luận văn
thạc sỹ là hoàn toàn trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác trong
cùng lĩnh vực.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này./.
Tác giả luận văn
Nguyễn Hữu Hòa
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC THỰC
HIỆN CHÍNH SÁCH XỔ SỐ KIẾN THIẾT.............................................. 10
1.1. Xổ số kiến thiết và chính sách xổ số kiến thiết ........................................ 10
1.2. Nội dung về chính sách xổ số .................................................................. 17
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến thực hiện chính sách XSKT ........................ 24
1.4. Quan điểm, mục tiêu, định hướng của Đảng và Nhà nước liên quan
đến hoạt động kinh doanh xổ số kiến thiết...................................................... 32
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XỔ SỐ
KIẾN THIẾT TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ............................................ 36
2.1. Khái quát về hoạt động xổ số kiến thiết ở thành phố Đà Nẵng ............... 36
2.2. Những vấn đề đặt ra trong thực hiện chính sách xổ số kiến thiết ở
thành phố Đà Nẵng.......................................................................................... 38
CHƢƠNG 3. GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH
SÁCH XỔ SỐ KIẾN THIẾT TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG .................. 65
3.1. Định hướng phát triển hoạt động kinh doanh xổ số................................. 65
3.2. Một số giải pháp đẩy mạnh thực hiện chính sách xổ số kiến thiết trong
thời gian đến .................................................................................................... 67
KẾT LUẬN .................................................................................................... 76
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CBCNV-NLĐ : Cán bộ công nhân viên – người lao động
DNNN
: Doanh nghiệp nhà nước
DV
: Dịch vụ
ĐN
: Đà Nẵng
GDP
: Gross Domestic Product
Tổng sản phẩm trong nước
HĐGS
: Hội đồng giám sát
KTNN
: Kinh tế nhà nước
KT-XH
: Kinh tế - xã hội
TNHH MTV
: Trách nhiệm hữu hạn một thành viên
XHCN
: Xã hội chủ nghĩa
UBND
: Uỷ ban nhân dân
Vietlott
: Xổ số điện toán Việt Nam
XSKT
: Xổ số kiến thiết
XSTT
: Xổ số truyền thống
VEPR
: Viện Nghiên cứu kinh tế và chính sách
DANH MỤC CÁC BẢNG
Số hiệu
Tên bảng
bảng
1.1:
1.2:
1.3:
2.1:
Lịch quay số mở thưởng của các Công ty XSKT khu
vực miền Trung – Tây Nguyên
Kết quả hoạt động kinh doanh XSKT khu vực miền
Trung – Tây Nguyên giai đoạn 2014 - 2016
Tổng hợp doanh thu tiêu thụ theo các loại hình XSKT
giai đoạn 2014 – 2016
Tổng hợp doanh thu tiêu thụ chia theo các loại hình
XSKT giai đoạn 2014 – 2016
Trang
19
19
20
51
DANH MỤC CÁC HÌNH
Số hiệu
Tên hình
hình
1.1:
1.2:
2.1:
2.2:
2.3:
Các hoạt động trong chu trình chính sách
Tỷ trọng thị phần của các công ty trong khu vực năm
2016
Tỷ trọng doanh thu XSKT theo các loại hình giai đoạn
2014 - 2016
Tỷ trọng doanh thu tiêu thụ XSKT bình quân của
Công ty XSKT Đà Nẵng giai đoạn 2014 – 2016
Tỷ trọng doanh thu tiêu thụ loại hình XSTT của Công
ty XSKT Đà Nẵng giai đoạn 2014 – 2016.
Trang
28
29
51
53
53
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt của cơ chế thị trường,
hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, các doanh nghiệp đều gặp phải những khó
khăn, thuận lợi nhất định. Cùng với sự phát triển nhanh chóng của hoạt động
dịch vụ, hoạt động xổ số kiến thiết thời gian qua đã có những đóng góp đáng
kể cho sự tăng trưởng của nhóm dịch vụ. Xổ số được coi là ngành dịch vụ đặc
thù, có độ nhạy cảm cao, được nhiều quốc gia trên thế giới kinh doanh hoạt
động nhằm đáp ứng nhu cầu vui chơi giải trí có thưởng của người dân, tăng
thu cho ngân sách. Ở Việt Nam, xổ số được xác định là một ngành dịch vụ
đặc thù với tên gọi xổ số kiến thiết do Nhà nước độc quyền quản lý và kinh
doanh với phương châm “ích nước, lợi nhà”. Mục đích chính khi triển khai
kinh doanh xổ số kiến thiết của Đảng và Nhà nước ta là nhằm ngăn chặn lô đề
bất hợp pháp.
Hiện nay trong xã hội của chúng ta, tệ nạn cá cược dưới hình thức số đề
vẫn còn xảy ra phổ biến, gây ảnh hưởng nặng nề đối với xã hội. Số đề là hoạt
động bất hợp pháp, chủ đề không phải tốn chi phí tổ chức hệ thống vui chơi
có thưởng như của nhà nước nhưng lại thu về khoản lợi nhuận khổng lồ, các
khoản lợi nhuận này hoàn toàn không được kê khai và nộp thuế, gây thất thoát
lớn đối với nguồn thu của ngân sách nhà nước. Phương thức giao dịch số đề
rất đơn giản, đa dạng, linh hoạt. Các giao dịch không có chứng từ rõ ràng. Số
đề là loại tệ nạn gây nhiều hệ quả phức tạp cho xã hội. Công tác phòng chống
tệ nạn số đề thời gian qua tuy đã được triển khai thực hiện tích cực, nhưng
hoạt động số đề vẫn còn phổ biến và ngày càng tinh vi, rất khó xử lý dứt
điểm.
Trong thời gian gần đây, sản phẩm xổ số tự chọn số điện toán của Công
1
ty Xổ số điện toán Việt Nam - Vietlott ra đời với cơ cấu giải thưởng hấp dẫn,
công tác quản lý, kỹ thuật công nghệ và mô hình hoạt động hiện đại hơn. Là
sản phẩm mới nên được nhà nước ưu ái hơn, được phát hành trên toàn quốc,
được mở thưởng 1 tuần 3 kỳ. Các công ty khác chỉ được phát hành trong khu
vực (cả nước chia thành 3 khu vực) và 01 tuần chỉ được phát hành 01 kỳ, tối
đa là 2 kỳ (03 đơn vị): TP Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Khánh Hòa. Khu vực miền
Bắc thực hiện quay số mở thưởng chung do công ty XSKT Hà Nội thực hiện.
Một số đại lý của Công ty Vietlott in vé đưa cho người bán dạo đi bán và
chuyển vé đến các tỉnh, thành phố chưa triển khai thiết bị đầu cuối bán tràn
lan là không đúng quy định. Các quy định của nhà nước không thống nhất và
không công bằng cũng làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của các
Công ty XSKT các tỉnh, ảnh hưởng rất nhiều đến doanh thu tiêu thụ, gây thất
thu cho ngân sách địa phương.
Quá trình tổ chức hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp xổ số
kiến thiết thời gian qua mặc dù đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ, tuy
nhiên cũng đã bộc lộ những hạn chế:
- Quy mô thị trường nhỏ, hoạt động xổ số phát triển chưa thực sự ổn
định và vững chắc.
- Cơ cấu sản phẩm các loại hình xổ số chưa hợp lý, mẫu mã sản phẩm ít
được quan tâm đổi mới, chưa khai thác được thị trường tiềm năng; Xổ số kiến
thiết dễ bị số đề lợi dụng; công tác tuyên truyền chưa được thường xuyên và
hiệu quả.
- Công tác quản lý nhà nước bộc lộ nhiều bất cập, hạn chế đến tính
năng động của các doanh nghiệp xổ số kiến thiết.
- Kỹ thuật công nghệ phát hành và quản lý chủ yếu thủ công và lạc hậu
kìm hãm sự tăng trưởng, khó đa dạng loại hình sản phẩm xổ số.
Cùng với đó cũng có sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong ngành
2
với nhau. Việc chấp hành chính sách, chế độ chưa chặt chẽ, môi trường kinh
doanh chưa thực sự thuận lợi. Quy mô phát triển và đòi hỏi của thị trường đã
và đang đặt ra việc ban hành mới và sửa đổi các chính sách, các quy định để
đảm bảo cho hoạt động xổ số phát triển bền vững. Tại khu vực miền Trung –
Tây Nguyên, tình trạng chạy theo doanh thu và số thu nộp ngân sách dẫn đến
cạnh tranh giữa các công ty về chi trả hoa hồng, tăng lượng vé phát hành dẫn
đến tỷ lệ tiêu thụ có xu hướng chung giảm; công nợ đại lý lớn, tỷ lệ thế chấp
đối với tiền bán vé còn nợ của đại lý của một số công ty ở từng thời điểm cụ
thể còn ở mức thấp, dẫn đến rủi ro cao.
Trước yêu cầu cần đổi mới phương thức hoạt động, hiện đại hóa, tăng
cường ứng dụng công nghệ, nâng cao chất lượng công tác quản lý, nhằm phát
triển hoạt động xổ số kiến thiết tại địa phương trong tình hình mới, việc
nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn; việc đánh giá tình hình tổ chức triển
khai thực hiện; phân tích những khó khăn, thuận lợi, các yếu tố tác động đến
việc thực hiện chính sách xổ số kiến thiết trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
nhằm nhìn nhận một cách khách quan, toàn diện vấn đề. Qua đó đề xuất các
giải pháp đổi mới, hoàn thiện chính sách xổ số kiến thiết, góp phần tăng thu
ngân sách, thực hiện tốt chính sách phúc lợi, xã hội, tăng cường đầu tư cho y
tế, giáo dục tại địa phương. Chính vì những lý do nêu trên tôi lựa chọn nghiên
cứu đề tài “Thực hiện chính sách xổ số kiến thiết từ thực tiễn tại thành phố
Đà Nẵng”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Theo Báo cáo kinh tế vĩ mô của TS. Nguyễn Đức Thành - Viện trưởng
Viện Nghiên cứu kinh tế và chính sách (VEPR), số thu từ hoạt động xổ số
kiến thiết của các Công ty XSKT và của Công ty Vietlott được đưa vào cân
đối ngân sách Nhà nước từ năm 2016 theo Luật NSNN sửa đổi năm 2015.
Việc đưa vào cân đối ngân sách Nhà nước nhằm thực hiện tốt công tác quản
3
lý, giám sát của các Bộ, ngành, địa phương. Đồng thời là chỉ tiêu để các
doanh nghiệp XSKT cố gắng phấn đấu, qua đó góp phần tăng thu NSNN. Kết
quả kinh doanh của các Công ty xổ số kiến thiết năm 2016 có sự tăng trưởng
đáng kể (bao gồm cả xổ số điện toán). Tổng doanh thu từ hoạt động XSKT cả
nước năm 2016 đạt trên 75.900 tỷ đồng, tương đương 3,32 tỷ USD. Riêng khu
vực miền Nam (21 công ty), trong năm 2016, doanh thu tiêu thụ toàn khu vực
đạt 66.700 tỷ đồng, tăng hơn 8% so với năm trước. Số nộp ngân sách khoảng
22.300 tỷ đồng (khoảng 1 tỷ USD), tăng 9% so với năm trước. Quý I/2017 thu
từ hoạt động xổ số kiến thiết ước đạt 10.000 tỷ đồng, tương đương 41,5% dự
toán cả năm. Chuyên gia VEPR cũng nhận định, hiện nguồn thu ngân sách
đang có hiện tượng chuyển dịch cơ cấu theo hướng tăng thu nội địa trong bối
cảnh nguồn thu từ xuất nhập khẩu giảm khiến ngân sách nhà nước có nhiều
khó
khăn
[http://dantri.com.vn/kinh-doanh/xo-so-kien-thiet-gop-10000-ty-
dong-cho-nha-nuoc-trong-quy-i-2017041117344368.htm].
Theo Ban nghiên cứu chuyên đề, Câu lạc bộ cán bộ trẻ thành phố Đà
Nẵng (2010): Hoạt động của Nhà nước trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế,
xã hội luôn đòi hỏi phải có các nguồn tài chính để chi tiêu cho những mục
đích xác định. Các nhu cầu chi tiêu này được thoả mãn bằng các nguồn thu
ngân sách Nhà nước, trong đó có thu từ hoạt động xổ số kiến thiết. Trong
những năm qua, tỷ trọng đóng góp của thu từ hoạt động xổ số trong tổng thu
ngân sách thành phố Đà Nẵng luôn tăng qua các năm, góp phần vào sự nghiệp
phát triển kinh tế - xã hội của thành phố. Nguồn thu này được sử dụng để đầu
tư vào các công trình phúc lợi xã hội quan trọng. Vì vậy, nhiều công trình
trường học, bệnh viện của thành phố đã được đầu tư xây dựng khang trang
hơn nhờ sự đóng góp không nhỏ từ thu của hoạt động xổ số kiến thiết, đặc
biệt có ý nghĩa là công trình Bệnh viên Ung thư….[1, tr.5].
Hoạt động kinh doanh xố số của miền Trung nói chung, thành phố Đà
4
Nẵng nói riêng từ trước đến nay trải qua hai cơ chế phát hành. Theo cơ chế thị
trường chung như hiện nay, hoạt động xổ số của Đà Nẵng gặp nhiều bất lợi và
thua thiệt hơn các địa phương khác; các mặt hoạt động của Khối các tỉnh
miền Trung cũng không bằng cơ chế phát hành năm 2004 về trước: tốc độ
tăng trưởng thấp, chi phí cao, bất cập và phát sinh nhiều khó khăn trong quản
lý,…
Tốc độ phát triển bình quân doanh thu giai đoạn 2005 – 2009 tăng
17,47%/năm, trong đó xổ số truyền thống tăng 20,5%/năm; xổ số lô tô tăng
trưởng âm 23,6%/năm; xổ số bóc tăng 11,2%/năm [1, tr.21].
Sau khi khối thị trường chung ra đời từ năm 2005, hoạt động số đề diễn
ra mạnh mẽ, tác động đến kết quả phân chia thị trường và thị phần (số đề gọi
là “đài chính, đài phụ”) làm cho địa bàn của các công ty thay đổi, công ty nào
là “đài phụ” sẽ không bán được vé, mặc dù về hình thức vé, mệnh giá vé, các
chế độ tài chính cho đại lý, cơ cấu giải thưởng,… của tất cả công ty là như
nhau. Hoạt động số đề cũng làm cho loại hình xổ số Lô tô của công ty XSKT
Đà Nẵng bị ảnh hưởng, ngân sách thất thu lớn. Công tác phát hành vé, hoa
hồng đại lý, thế cấp, quản lý tiền mặt, chi tiêu nội bộ, quản lý công nợ, quản
lý kho vé, thực hiện uỷ quyền giao dịch… còn chưa chặt chẽ, vẫn còn để xảy
ra sai sót [1, tr.23].
Chính phủ, Bộ Tài chính cũng đã ban hành đầy đủ các quy trình, quy
định, thể lệ,… để quản lý quá trình kinh doanh xổ số; tuy nhiên trước những
yêu cầu phát triển về kinh tế, văn hoá, xã hội cần thiết phải bổ sung các tình
huống phòng ngừa để không bị lợi dụng sơ hở gây ảnh hưởng xấu đến uy tín
của hoạt động xổ số ở thành phố Đà Nẵng. Báo cáo, chuyên đề cũng tập trung
đưa ra những tình huống lợi dụng sơ hở có thể xảy ra trong các khâu của quy
trình hoạt động xổ số và đề ra những giải pháp để phòng tránh, đồng thời
cũng kiến nghị một số giải pháp góp phần tăng nguồn thu từ hoạt động xổ số,
5
góp phần tăng thu ngân sách thành phố Đà Nẵng.
Tại Hội nghị “Đánh giá hoạt động xổ số kiến thiết 2006 - 2009 và định
hướng phát triển đến năm 2015” do Bộ Tài chính tổ chức tại Đà Nẵng vào
ngày 11/3/2010 đã tập trung đánh giá vào những kết quả đạt được của hoạt
động xổ số kiến thiết sau hơn 4 năm với những bước phát triển đáng kể. Theo
đó đã đáp ứng được một phần nhu cầu vui chơi giải trí lành mạnh của một bộ
phận người dân trong xã hội, góp phần ổn định xã hội, hạn chế tình trạng
người dân tham gia cờ bạc bất hợp pháp. Cụ thể, tốc độ tăng doanh thu XSKT
bình quân của cả nước là 18%/năm so với năm 2005 (thời kì 2004-2005 tăng
bình quân 22%). Thu NSNN từ hoạt động xổ số năm 2009 đạt 34.552 tỷ đồng,
bằng 2,1% GDP. Theo Thứ trưởng Bộ Tài chính Trần Xuân Hà, đây là một
nguồn thu rất quan trọng để phục vụ cho các dự án phát triển địa phương. Báo
cáo cũng nêu lên một số hạn chế, tồn tại của hoạt động xổ số thời gian qua
như: mô hình tổ chức thị trường chưa ổn định; cơ cấu sản phẩm chưa hợp lý,
công nghệ quản lý lạc hậu; khung chính sách và công tác quản lý nhà nước
cần tiếp tục phải được bổ sung, tăng cường; việc chấp hành chính sách, chế độ
chưa chặt chẽ, môi trường kinh doanh chưa thực sự thuận lợi. Từ đó đã đưa ra
những định hướng và giải pháp phát triển hoạt động kinh doanh xổ số đến
năm 2015. Phối hợp triển khai tốt công tác phòng chống hoạt động lô, đề cờ
bạc bất hợp pháp. [http://baochinhphu.vn/Tin-hoat-dong-dieu-hanh/Hoatdong-xo-so-kien-thiet-giai-doan-20062009-Gop-phan-phat-trien-dich-vu-taichinh-phu-hop-voi-phat-trien-KTXH/49017.vgp].
Đến nay, các công trình nghiên cứu của Ban nghiên cứu chuyên đề,
Câu lạc bộ cán bộ trẻ thành phố Đà Nẵng (2010) và một số nội dung tồn tại
nêu ra tại Hội nghị “Đánh giá hoạt động xổ số kiến thiết giai đoạn 2006 2009 và định hướng phát triển đến năm 2015” do Bộ Tài chính tổ chức tại Đà
Nẵng vào ngày 11/3/2010 vẫn chưa được điều chỉnh, bổ sung, sửa đổi. Luận
6
văn tiếp tục nghiên cứu và đưa ra giải pháp phù hợp.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở đánh giá thực trạng thực hiện chính sách xổ số kiến thiết ở
thành phố Đà Nẵng, luận văn đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả thực hiện chính sách xổ số kiến thiết ở thành phố Đà Nẵng trong
thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thứ nhất, làm rõ lý luận về chính sách xổ số kiến thiết;
Thứ hai, đánh giá thực trạng và làm rõ những vấn đề đặt ra trong thực
hiện chính sách xổ số kiến thiết ở thành phố Đà Nẵng hiện nay;
Thứ ba, đề xuất phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả thực
hiện chính sách xổ số kiến thiết ở thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Việc thực hiện chính sách xổ số kiến thiết trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu về chính sách xổ số kiến thiết từ
thực tiễn tại thành phố Đà Nẵng từ năm 2014 đến nay; đề xuất những nội
dung cơ bản hoàn thiện chính sách xổ số kiến thiết để thực hiện mục tiêu phát
triển xổ số kiến thiết trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, tạo nguồn thu cho ngân
sách địa phương, góp phần phát triển kinh tế - xã hội của thành phố.
Trong luận văn chỉ đi sâu vào những nội dung liên quan đến tình hình
thực hiện chính sách tiêu thụ sản phẩm và hoạt động kinh doanh xổ số kiến
thiết; về những khó khăn, tồn tại, về những bất cập trong thực hiện chính sách
xổ số kiến thiết từ thực tiễn trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
7
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn sử dụng cách tiếp cận đa ngành, thực hiện một số phương
pháp nghiên cứu chính sách công cụ thể: phương pháp tổng hợp, thống kê,
phân tích hệ thống, so sánh dựa trên kết quả thực tế, từ đó dự báo xu hướng
phát triển, đề ra chính sách trong giai đoạn mới.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp thu thập thông tin được sử dụng để thu thập, phân tích
và khai thác thông tin từ các nguồn có sẵn liên quan đến đề tài nghiên cứu,
bao gồm cả nghị quyết, nghị định, thông tư, báo cáo của Đảng, của Nhà nước,
các bộ ngành Trung ương, địa phương; Ban Thường trực Hội đồng Xổ số kiến
thiết miền Trung; các công trình nghiên cứu, các tài liệu thống kê của chính
quyền, các tổ chức, cá nhân liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến vấn đề
chính sách xổ số kiến thiết nói chung và thực tiễn tại thành phố Đà Nẵng nói
riêng. Đồng thời thu thập các tài liệu của các tổ chức và các học giả trong
nước liên quan đến đề tài; tìm hiểu và vận dụng các lý thuyết của các Bộ,
ngành, địa phương liên quan đến hoạt động xổ số kiến thiết.
- Phương pháp phỏng vấn sâu: Sử dụng phương pháp đối thoại với một
số đối tượng nhằm thu thập thông tin.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn hệ thống hóa những vấn đề cơ bản, cơ sở lý luận và thực tiễn
về chính sách xổ số kiến thiết của Nhà nước; nghiên cứu thực trạng thực hiện
chính sách xổ số kiến thiết tại thành phố Đà Nẵng; nêu lên những khó khăn,
tồn tại, hạn chế.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn đã đưa ra những biện pháp cải thiện hoạt động kinh doanh;
8
hoàn thiện chính sách xổ số kiến thiết, góp phần giúp xổ số kiến thiết địa
phương thích ứng với nền kinh tế thị trường và tạo dựng được một vị trí vững
chắc cho sự tồn tại và phát triển của xổ số kiến thiết địa phương; có tốc độ
tăng trưởng cả về doanh thu và số thu nộp ngân sách, đáp ứng ngày càng tốt
hơn nguồn vốn cho xây dựng các công trình phúc lợi xã hội, y tế, giáo dục.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, kiến nghị và tài liệu tham khảo, kết
cấu của luận văn được bố cục theo ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc thực hiện chính sách xổ
số kiến thiết.
Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách xổ số kiến thiết tại thành
phố Đà Nẵng.
Chương 3: Giải pháp đẩy mạnh việc thực hiện chính sách xổ số kiến
thiết tại thành phố Đà Nẵng.
9
CHƢƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH XỔ SỐ KIẾN THIẾT
1.1. Xổ số kiến thiết và chính sách xổ số kiến thiết
1.1.1. Một số khái niệm
* Khái niệm về chính sách công:
Có nhiều khái niệm về chính sách công trên thế giới tùy thuộc vào các
hình thái nhà nước, hệ thống chính trị khác nhau.
Theo Peter Aucoin, 1971 “Chính sách công bao gồm các hoạt động
thực tế do Chính phủ tiến hành”
Theo William Jenkin, 1978 “Chính sách công là một tập hợp các quyết
định có liên quan lẫn nhau của một nhà chính trị hay một nhóm các nhà chính
trị gắn liền với việc lựa chọn các mục tiêu và các giải pháp để đạt các mục
tiêu đó”
Ở Việt Nam chính sách công được quan hiểu chính thức như sau:
“Chính sách công là tập hợp các quyết định có liên quan nhằm lựa chọn mục
tiêu cụ thể và lựa chọn các giải pháp, các công cụ nhằm giải quyết các vấn đề
của xã hội theo mục tiêu tổng thể đã xác định” (PGS.TS Đỗ Phú Hải, Tạp chí
lý luận chính trị số 1/2014). [21, tr.23]
* Chủ thể chính sách công:
Chính sách là công cụ được Nhà nước dùng để điều hành hoạt động
kinh tế - xã hội. Vì vậy, chủ thể ban hành chính sách là Nhà nước, cụ thể là
các cơ quan có thẩm quyền trong bộ máy Nhà nước.
Chủ thể ban hành chính sách xổ số kiến thiết gồm các cơ quan có thẩm
quyền như: Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Bộ Nội vụ,
Bộ Tài chính… Trong số các cơ quan kể trên Bộ Tài chính là các cơ quan
10
đóng vai trò chính trong việc tham mưu và trực tiếp xây dựng chính sách xổ
số kiến thiết.
Chính sách xổ số kiến thiết ở Việt Nam được Đảng định hướng trong
các văn kiện Đại hội Đảng, Nghị quyết, trên cơ sở đó Chính phủ cụ thể hóa
vào chương trình, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn
cụ thể.
* Đặc trưng chính sách công:
Thứ nhất, chính sách công mang tính cộng đồng. Đặc trưng này bắt
nguồn từ ý chí chính trị của nhà nước được thể hiện dưới dạng thể chế bang
văn bản quy phạm pháp luật. Mà ý chí chính trị của mọi nhà nước đều được
xác lập trên cơ sở mục tiêu phát triển chung toàn xã hội mà nhà nước là người
có trách nhiệm tổ chức thực hiện.
Thứ hai, chính sách công mang tính hệ thống, đồng bộ. Về mặt hình
thức, tính hệ thống của chính sách công thể hiện là những tập hợp các quyết
định hình thành trong những giai đoạn khác nhau vượt ra ngoài giai đoạn
hoạch định chính sách ban đầu. Chính sách không chỉ được thể hiện rõ ràng
trong một quyết định duy nhất, mà có thể được phản ảnh trong một chuỗi các
quyết định có liên hệ với nhau, giúp chúng ta nhận thức được nội hàm của
chính sách. Về mặt nội dung, tính hệ thống của chính sách bao hàm sự thống
nhất giữa các mục tiêu và biện pháp thực hiện trong mỗi loại chính sách.
Ngoài ra, giữa các loại chính sách và giữa chính sách với các công cụ quản lý
vĩ mô khác cũng hợp thành một hệ thống hướng đến mục tiêu phát triển chung
của toàn xã hội.
Thứ ba, chính sách công mang tính ổn định tương đối. Nội dung chính
sách công về cơ bản là ổn định trong một giai đoạn nhất định, bởi chính sách
công là kết quả của ý chí chính trị của nhà nước nên nó không dễ gì thay đổi.
Tuy nhiên trên thực tế, chúng ta vẫn thấy chính sách công thay đổi theo thời
11
gian, vì trong quá trình tồn tại chính sách công vẫn cần phải được điều chỉnh
về mục tiêu hay biện pháp cho phù hợp với điều kiện thực tế, hoặc do có
những thay đổi trong định hướng chính trị ban đầu, hoặc kinh nghiệm trong
thực thi chính sách có thể được phản hồi vào quá trình ra quyết định chính
sách. Điều này không có nghĩa là các chính sách luôn thay đổi, mà do quá
trình thực thi chính sách là năng động, thích ứng. Thậm chí ngay cả nhận thức
chính trị về các vấn đề chính sách công cũng thay đổi qua các thời kỳ.
Thứ tư, chính sách công vừa là sản phẩm của hoạt động quản lý nhà nước,
vừa là công cụ thực hiện chức năng quản lý xã hội. Về cơ bản chính sách
công được xem là đầu ra của quá trình quản lý nhà nước, là sản phẩm trí tuệ
của đội ngũ CB, CC, thậm chí là sản phẩm chung của cả xã hội. Điều đó thể
hiện ở việc chấp nhận mục tiêu và các biện pháp thực thi chính sách công của
các tầng lớp nhân dân. Nếu mục tiêu của chính sách công do nhà nước đề
xuất phù hợp với nguyện vọng của người dân, thì tất yếu nó dễ dàng đi vào
cuộc sống và ngược lại. Việc duy trì chính sách ra sao cũng phản ánh trình độ
tổ chức, quản lý điều hành, phối hợp các quá trình kinh tế-xã hội của nhà
nước. Ngược lại chính sách công cũng trở thành phương tiện để nhà nước
thực hiện quản lý vĩ mô trong việc phát triển kinh tế - xã hội. Những phương
tiện được nhà nước thiết lập đó bao gồm hệ thống pháp luật, chính sách, chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch và các nguồn lực công trong xã hội. [22, tr.45]
* Khái niệm về xổ số:
Xổ số ra đời từ rất sớm, hiện nay đã phát triển trên hơn 100 nước trên
thế giới. Vì vậy có nhiều quan niệm khác nhau về nó.
- Bộ dân chánh Trung Quốc quan niệm “xổ số là một hình thức phát
hành có mệnh giá và trong đó có in số, hình thù mà người mua có thưởng
hoặc không có thưởng”.
- Các nhà kinh tế Thụy Sĩ cho rằng “Xổ số là một hình thức rút thưởng
12
theo vận may, với mục đích dành lấy tiền thưởng hoặc một quyền lợi nào đó”.
- Nước Úc cho rằng “Xổ số là hoạt động vui chơi ăn tiền, là một thực
trạng xã hội. Nhà nước nhận trách nhiệm đứng ra tổ chức cho nhân dân vui
chơi theo đúng luật pháp, nhằm đảm bảo quyền lợi của người chơi. Đồng thời
qua đó thu tiền để xử dụng cho những công việc lợi ích chung toàn xã hội”.
- Đối với người Pháp “Xổ số là các trò chơi ngẫu nhiên, đáp ứng nhu
cầu vui chơi giải trí của dân chúng đồng thời tạo nguồn thu cho ngân sách”.
- Các nhà Tài chính Việt Nam có đưa ra khái niệm: “Xổ số là hoạt động
vui chơi giải trí có thưởng, được nhà nước tổ chức và quản lý chặt chẽ để huy
động các nguồn tiền nhàn rỗi trong dân cư đáp ứng cho các mục tiêu phúc lợi
xã hội”. [http://doc.edu.vn/tai-lieu/luan-van-hoan-thien-co-che-tai-chinh-caccong-ty-xo-so-kien-thiet-khu-vuc-mien-nam-41776/].
- Theo Nghị định 30/2007/NĐ-CP của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam:
“xổ số là các sự kiện có kết quả ngẫu nhiên”; “kinh doanh xổ số là hoạt động
kinh doanh dựa trên các sự kiện có kết quả ngẫu nhiên, được tổ chức theo
nguyên tắc doanh nghiệp thu tiền tham gia dự thưởng của khách hàng và thực
hiện trả thưởng cho khách hàng khi trúng thưởng”.
Ở Việt Nam, từ năm 1962 hoạt động xổ số mới bắt đầu phát triển,
nhưng chỉ tập trung ở những đô thị và những nơi đông dân cư. Năm 1986,
Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) ban hành Chỉ thị
số 228/CT về việc thống nhất sự lãnh đạo, quản lý và phát hành xổ số kiến
thiết trong cả nước thì ngành xổ số kiến thiết Việt Nam mới có những bước
tiến mạnh mẽ, đóng góp một phần kinh phí lớn vào nguồn thu ngân sách và
tham gia đầu tư các công trình phúc lợi xã hội.
* Khái niệm về xổ số kiến thiết: Có nhiều khái niệm về xổ số kiến thiết.
Xổ số kiến thiết là công cụ tài chính của Nhà nước để điều tiết, phân
phối lại thu nhập quốc dân, khai thác thêm nguồn thu cho ngân sách. Nghĩa là
13
- Xem thêm -