Nguyễn Quốc Trung
m
n h A xuẠt b An
HỐNGĐỨC
N G U Y Ễ N Q UỐ C TR U N G
TIỀN VÀ TÂM LÝ
NHÀ XUẤT BẢN HỒNG ĐỨC
"Moneyosophy là tâm lý về tiền ứng ảụng trong
kinh doanh, bấn hàng và khởi nghiệp."
Nguyễn Quốc Trung
P hần 1
NHẬP MÔN CỦA
MONEYOSOPHY
C hư ơng 1
TRUYỆN c ổ TÍCH CHỈ DÀNH CHO
NHỮNG “NGƯỜI NGHÈO”
Truyện cổ tích như một tài sản kế thừa
qua các thế hệ
ở V iệt Nam, những câu chuyện cổ tích đã nhen
nhóm sâu sắc vào tâm thức của mỗi người và ừ ở
thành một ữong những bài học đầu đời quen thuộc
mà các bậc phụ huynh và thầy cô giáo dành cho ữẻ
nhỏ. Đó là lý do vì sao chúng ta có thể kể lại vanh
vách từng câu chuyện cổ tích dài hoặc nhớ đại ý của
mỗi truyện ngay cả khi đã qua thời tuổi thơ. Hầu như
thể loại này đều có một mô típ giống nhau, bởi thế,
tôi muốn đặt ra cho bạn hai câu hỏi: “Trong truyện
cổ tích, bạn thích những nhân vật nào? Họ có chung
đặc điểm gì?”
T ôi dám chắc phần đa câu trả lời của mọi người
sẽ là: “T ô i thích những nhân vật chúih diện, tốt
bụng.” Trong truyện Tẩm C ảm , bạn sẽ thích Tấm và
ghét Cám, ừong truyện T hạch Sanh, bạn sẽ ghét Lý
Thông và cảm thưorng, ngưỡng mộ Thạch Sanh. Ban
đầu, nhân vật chính diện thường là “người nghèo” tốt
bụng, gánh chịu nhiều bất công bởi sự đàn áp, phân
biệt đối xử của người giàu. Sau đó, họ bỗng nhiên
thoát “nghèo” nhờ một cú hích đổi đời dựa ừên sự
may mắn, tình cờ chứ không phải đi từ năng lực thật
sự của họ. K hi “người nghèo” như họ phất lên, kẻ
giàu ứong truyện cổ tích thường bị gán vào tội chết
hoặc gặp báo ứng vì tội ác họ gây ra. Truyện cổ tích
gieo vào tâm trí con người quan điểm sống: “ở hiền
gặp lành, ác giả ác báo.” Truyện cổ tích dạy cho con
người thái độ sống lạc quan và niềm tin tưởng mãnh
liệt vào tương lai. Họ hi vọng nó sẽ thay đổi nhờ vào
sự may mắn, miễn là bản thân họ sống hiền lành, tốt
bụng.
N gay từ khi trẻ bước vào mẫu giáo, các bậc cha
mẹ vẫn không ngừng kể những câu chuyện cổ tích
cho con cái mình nghe. Từ S ọ D ừa, Tẩm Cảm đến
T hạch Sanh, C ây kh ế... V ì sao truyện cổ tích lại được
truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác? Không có một
câu ữ ả lời nào gãy gọn nhất cho vấn đề này, chúng ta
chỉ biết nó đã ữ ờ thành truyền thống trong xã hội
V iệt. Người lớn kể chuyện cổ tích vì đơn giản đó là
bài học sinh động và quan ừọng giúp ừ ẻ nhỏ phân
biệt người tốt kè xấu, biết yêu ghét và học cách sống
lạc quan. Không ai có thể bác bỏ giá trị thiết thực của
nguồn tri thức quý giá này và tôi cũng như v ậ y ...
Đằng sau truyện cổ tích là một đời thực
hoàn toàn khác
T ru y ện cổ tích ch ỉ đơn thuần là th ế giới
tro n g tr í tư ở n g tư ợ n g củ a loài người, với những
nhân vật siêu nhiên như Bụt, Thánh, Thần, B à Tiên,
Ồng T iê n ,... mà ừong đời sống thực không bao giờ
có. M ột cô bé bán diêm ừong đời sống thực lâm vào
cảnh bi thưong vì đói rét sẽ không có một phép màu
nào xuất hiện giúp đõ cô ngoài bàn tay tương frợ của
những người xung quanh. Cũng như thế, Tấm của
thế kỉ X X I sẽ không thể ừ ở thành hoàng hậu vì làm
gì có Bụt ữong thế giới thực này? B ở i thế, đừng
m ang những ảo tư ởn g tru yện cổ tích đễ gắn nó
vào b ứ c tra n h cuộc sống hiện thự c. Truyện cổ tích
chỉ đơn thuần đóng vai trò như một bài học đạo đức,
gột sạch tâm hồn trẻ thơ, để chúng không vướng bận
những xô bồ của thời thế quá sớm. Tuy nhiên, điều
đó không có nghĩa rằng người lớn nên gieo vào tâm
trí ừ ẻ quan niệm giàu nghèo là dựa vào số phận.
Không có ai tự dưng giàu lên và ngẫu nhiên nghèo
đi: Cuộc sống thực tế không bao giờ là câu chuyện
cổ tích với kết thúc có hậu kia. Không phải câu
chuyện cô gái tốt bụng xừứi đẹp vớ được hoàng tử,
không phải câu chuyện nàng công chúa ngủ trong
rừng và tìm thấy bạch mã hoàng tử của cuộc đời
mình. T h ế giói thự c hoàn toàn kh ác. Đ ó là m ột
cuộc đấu tra n h không ngừng nghỉ.
Truyện cổ tích thường gồm hai tuyến nhân vật:
“Người nghèo” lương thiện và kẻ xấu giàu sang.
Trong khi “người nghèo” được mô tả chi li từ ngoại
hình xinh đẹp đến phẩm chất tốt bụng thì người giàu
gắn liền với sự châm biếm: đê tiện, độc ác, cậy thế
cậy quyền, ngu ngốc, giàu x ổ i,... V ào thời điểm ấy,
giai tầng cụ thể ữong xã hội của họ thường được gọi
là: Phú ông, phú hộ, bá hộ, lão nhà giàu,.,. Đ ọc xong
câu chuyện cổ tích nào, càng thương “người nghèo”
bao nhiêu thì ta đâm ra ghét kẻ giàu bấy nhiêu, Khi
người nghèo lấy lại công bằng, trở nên giàu có và
hạnh phúc ở đoạn kết, ta lại thêm mãn nguyện khi
thấy kẻ giàu bị đày xuống hố sâu, hoặc biến thành
quái quỷ và những thứ gàn dở, xấu xa khác. B ở i vậy,
từ khi còn nhỏ, chúng ta m ang tâm lí vô th ứ c ghét
những kẻ nhà giàu, bởi truyện cổ tích đã dạy cho ta
bài học về lòng lương thiện của những “người
nghèo” chứ ít khi đả động đến một anh nhà giàu
lương thiện và chiến thắng anh chàng “nghèo khó”,
bần hàn. Hơn nữa, truyện cổ tích cững chỉ ra rằng:
K ẻ trọc phú, nhân vật phản diện ừong trang giấy kia
đều ngu ngốc và kết cục cũng gặp tai họa.
V à rồi tôi tự vấn lòng mình, “cuối cùng những
nhân vật chứứi diện đều giàu có, vậy họ có ừ ở nên
độc ác, hợm hĩnh và biến thành những lão bá hộ độc
ác, tham lam hay không?” T ôi tin là không, bời
những nhân vật đó đều là những người tốt bụng, giàu
lòng yêu thưomg và chăm chỉ. B ỗn g nhiên, truyện cổ
tích đến đây gặp mâu thuẫn. Rõ ràng không phải
người giàu nào cũng xấu xa, vẫn có rất nhiều người
giàu tài giỏi và tốt bụng. Thế giới thực là như vậy!
M ỗi việc xảy ra ữong đời đều có nguyên do của
nó và tương tự như vậy, những người giàu không tự
dưng giàu lên và hưởng cuộc đời phú quý. Cũng
không ai đem đến cho họ một kho bạc hay thậm chí
một căn nhà to, cửa rộng. M ọi phép mầu ừong truyện
cổ tích chi nằm trong trí tưỏng tượng và ảo tưởng của
chúng ta, chứ chúng chưa bao giờ bước ra ngoài thực
tế để hô biến “người nghèo” lương thiện ữ ở thành kẻ
giàu có. Không dừng lại ở đó, người giàu đâu ngu
ngốc, nếu ngu ngốc thì họ đã không kiếm ra ngần ấy
tiền và sống một cuộc đời vương giả như thế. V ậy
mấu chốt của vấn đề là đâu? V ì sao có những người
thoát nghèo rồi ữ ở thành triệu phú, tỷ phú ừong khi
đó có những “người nghèo” lại cứ mãi “nghèo” đi,
thậm chí họ biến cuộc đời mình rơi vào cảnh “nghèo
gia truyền”? Đáp án chỉ có thể là họ tự mình gây dựng
cơ nghiệp, họ không phó mặc số phận hoặc chờ đợi
Bụt hiện lên và ban cho ba điều ước, cuộc sống nay
khác truyện cổ tích ở hai chữ “thực tế”.
Lý Gia Thành và con đường trở thành tỷ phú
Con đường lập nghiệp từ nghèo khổ tới
giàu nhất châu Ả của ông trùm Li-Ka Sing (Lý
Gia Thành) cho chúng ta góc nhìn cận cảnh hcm
về việc người nghèo vượt lên số phận bằng chính
năng lực của mình. Con đường làm giàu của ông
rất gian nan và đáng ngưỡng mộ, từ một cậu bé
phải bỏ học đ ể phụ giúp gia đình đến một trong
những người giàu cỏ nhất trên thế giới với tài
sản hcm 20 tỷ USD. Câu chuyện ấy như thế nào?
Từ khi còn nhỏ, ông mang trên đôi vai
gánh nặng gia đình, sau khi gia đình ông từ
miền Nam Trung Quốc di cư sang Hồng Kông
trong thể chiến thứ 2, cha ông qua đời vì bệnh
lao. Ông phải bỏ học khi chưa đầy 16 tuổi để
làm công nhân tại một nhà mảy. Trong 4 năm
lao động gian nan và không ngùng nghi, ông gửi
90% số tiền bản thân kiếm được về phụ giúp mẹ
ông. Có thể những khó khăn và thành công khi
còn trẻ với cách lao động chân chỉnh của mình
đã dạy cho ông những giá trị lớn lao, làm tiền đề
cho sự nối tiếng về lòng bác ải của ông trong
ngày hôm nay.
ở tuổi 22, Lý Gia Thành mở nhà máy đầu
tiên và chi trong vài năm đã gặt hái thành cõng
rực rỡ với tư cách là nhà sản xuất, doanh nhân
10
cũng như nhà đầu tư. Nay, ông là chủ tịch tập
đoàn H òa Ký Hoàng Phổ (Hutchison Whampoa
Limited) và Trường Giang Thực Nghiệp (Cheung
Kong Holdings) tại Hồng Kỗng. ôn g được coi là
nhà đầu tư có tầm ảnh hưởng nhất châu Á. Vào
tháng 3 năm 2007, tạp chí Porbes đã xếp ông vị
trí thứ 9 trong bảng xếp hạng danh sách người
giàu nhất thế giới với tài sản 23 tỵ USD.
Mỗi người thành công đều có bỉ kíp của
riêng mình và điều bỉ ẩn nào đã đưa một Lý Gia
Thành nghèo kiết xác trở thành tỷ phủ giàu nhất
châu Ả? Đó chỉnh là nô lực làm giàu từ chính
năng lực bản thân. Mặc dù phải bỏ học ngay từ
nhỏ, thậm chi chưa cỏ bằng Đại học nhưng ông
Lý luôn luôn là “kẻ ngổn sách ” và cho rằng
thành công của ông nhờ khả năng tự học. Năm
2010, ông nói với tọp chí Forbes: “Niềm vui
thích quan trọng nhất đối với tôi là làm việc
chăm chi và kiểm nhiều lợi nhuận hơn. ”
Tháo gỡ những ảo tiPỞng
Chàng hoàng tử và công chúa trong những
truyện cổ tích đang bận đi tìm hạnh phúc của mình
ừên ừang giấy, họ sẽ mãi không bước ra ngoài cuộc
sống thực đâu, bởi thế hãy ảo tưởng ít thôi! Không
thể phủ định rằng, những câu chuyện cổ tích khiến
người nghèo cảm thấy bản thân họ được an ủi phần
11
nào. Không tự nhiên mà tôi đưa ra kết luận đó. B ở i
trong thực tế, người ta nghèo bởi họ không có chí
làm giàu, họ vướng vào vòng luẩn quấn tài chứứi và
luôn cho rằng ‘^ham mê tiền b ạc là nguồn gốc của
m ọi điều xấu ” . L ý do khiến “người nghèo” mãi
“nghèo” đi là như vậy. G iáo dục
con cái bằng cách kể chuyện cổ
tích cho chúng nghe không có
gi sai, nhưng nhiều người lớn
gây lỗi sai lớn ở chỗ họ không
viộtU:ách \ chọầ
có
ịọc., .Kê, từ Liâu
ỊịãAvMông ỵ đ g
^ ìm
bảo với các con của mình rằng
đời sống thực khác với truyện
cổ tích ở chỗ nào, mà thậm chí
đôi lúc họ còn chả hiểu.
B ở i vậy, triệu phú và tỷ
phú trên th ế giới không dạy
con m ình cách tư duy như
tru yện cổ tích . Chẳng hạn, mô
típ quen thuộc ữong thể loại này
nhấn
mạnh
quan
niệm
cha
truyền con nối thì họ giáo đục con cái nghiêm khắc
qua tuyên bố không để lại cho con m ột đồng nào.
Như B ill Gates, tỷ phú giàu nhất thế giới không để
lại bất cứ thứ gì cho những đứa con của mình, ông
thậm chí còn lập The G ates E oun datỉon (một tổ chức
từ thiện của ông) để giúp đỡ những người có hoàn
cảnh đặc biệt khó khăn, những v ừ ig thiên tai, bị
12
khủng b ố ,... ở nước M ỹ nói riêng và ưên thế giới nói
chung. Những nhân vật có tầm ảnh hưởng như
W arren B u ffett cũng chèo con thuyền ý tưởng chung
như G ates. C ách giáo dục của họ khác x a hẳn V iệt
Nam. N ếu người V iệt phấn đấu làm giàu để dành
dụm cho con thì nhiều bậc phụ huynh nước ngoài
tuyên bố không để lại bất cứ thứ
gì cho con cái của họ. Họ muốn
các con của họ trưởng thành
pổ tích,^b<Ịữt\sẽ}.^
ị: ẻ .
: ::ị,:■•■íl* M 'V
TV
hiển chănề
cùng với những giá trị của tầng
lớp
trung
lưu
như
cha
mẹ
chúng. Họ muốn những đứa con
phải học cách vật lộn với cuộc
sống, làm việc chăm chỉ và nỗ
lực phấn đấu như những gì mà
họ đã làm ừong quá khứ để có
thành tựu như ngày hôm nay.
T ừ cách giáo dục đó, những đứa
frẻ biết bản thân chúng cần tự
lực cánh sinh và tự lo cho cuộc
đời. B ở i thế chúng không ỷ lại
số tài sản khổng lồ kia và vung
tay quá frán số tiền mà cha mẹ
chúng kiếm được. Phưorng pháp giáo dục này thể
hiện sự tiến bộ và cách cư xử mẫu mực của người
lớn. C uộc đời luôn im lặng với chúng ta, nó chỉ xô
đẩy chúng ta mà thôi, bởi thế, không có một mô típ
13
quen ứiuộc nào ừong đời thực cả. Chỉ có truyện cổ
tích mới có một mô típ y chang nhau từ đầu đến cuối.
Nếu những người làm cha làm mẹ ở V iệt Nam
nỗ lực làm việc, tích góp tiền bạc để dành dụm cho
con cái thì họ đang tạo một bức tường chắn lớn ngăn
cản sự phát ữiển của con. Trong những câu chuyện
cổ tích, người ta không nói rõ người giàu đã làm giàu
như thế nào, nhưng ta biết người nghèo giàu lên bởi
sự tương ữ ợ của thế lực siêu nhiên. Sự giàu có ấy
được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. K hi cha
mẹ giàu có thì cuộc đời của những đứa con cũng
chắc chắn sống ừong cảnh vinh hoa phú quý. N hưng
ở th ò i hiện đại, khi cha m ẹ nỗ lực làm việc, sau đó
để lại tà i sản cho con m à không dạy ch ún g về tà i
ch ỉn h th ì cuối cùng số tiền ấy cũng tiêu ta n . Tiền
không thể sinh ra tiền nếu không có lao động và nỗ
lực làm giàu. Nếu bạn muốn những đứa con mình
lớn lên giàu có và hạnh phúc, hãy thôi áp đặt những
câu chuyện cổ tích để dạy chúng cách tư duy làm
giàu và nhìn vào đời sống thực với những tấm gương
vượt khó bằng nỗ lực của họ để dạy chúng cách đối
mặt với những rào cản và tảng đá lớn ữong đời.
Nếu những câu chuyện cổ tích không chi dừng
lại ở chỗ nhân vật chúứi “nghèo khó” ữ ở nên giàu có
thì tôi tin rằng phần phía sau là một câu chuyện hoàn
toàn khác khi bạn đọc đến đây. Không chi tôi mà
ngay cả bạn vẫn có thể chứng kiến rất rõ hậu quả của
14
việc cha m ẹ không nghiêm khắc dạy cho con về vấn
đề tài chúih. Những đứa con sẽ đinh ninh rằng cuối
cùng thì gia sản cũng thuộc về tay mình nên chúng
không chịu nỗ lực chỉ biết ỷ lại vào số tiền m à cha
mẹ chúng có. K hi chúng không nhận thức được vấn
đề tiền bạc, chúng sẽ không rõ giá trị sức lao động và
lao vào con đường tệ nạn, cư xử không đúng chuẩn
mực và sớm muộn cũng trở thành những kẻ ăn hại.
R ồi tôi nhận ra, truyền thống cha truyền con nối
ữong câu chuyện cổ tích ừ ở thành tâm lý vô thức của
nhiều người V iệt Nam.
Truyện cổ tích chỉ dành cho “ngiPỜi nghèo”?
T ru y ệ n cỗ tích có ch ứ c năng xoa dịu hiện
th ự c n g ặt nghèo và bỉ th ảm , giúp “ ngư òi nghèo”
có niềm lạc q u an sống hon. M à một ữong những
giấc m ơ cao cả của họ là làm vua hay hoàng hậu,
những nhân vật tượng trưng cho giàu có quyền lực.
Cổ tích là thế giới ảo diệu, mộng mơ, cho phép
người đọc bay vào những khát vọng mênh mông và
bao la, khiến “người nghèo” luôn tin rằng ở hiền sẽ
gặp lành và nhất định một cơ duyên nào đó sẽ giúp
mình đổi đời hay phất lên. Nhưng những câu chuyện
cổ tích không bao giờ xây dựng lên hiện thực x ã hội,
chúng chỉ có vai ữò gột sạch tâm hồn ta, không để
cái ác thống trị chứ không diễn tả được cuộc ữanh
đấu bằng năng lực, trí tuệ để giàu có lên như cuộc
15
sống hiện tại đang diễn ra. B ở i thế, tôi không tin
vào những chuyện cổ tích , đó có lẽ ch ỉ là những
câu chuyện dành cho **người nghèo” ...
K hi tin vào truyện cổ tích nghĩa là chúng ta vẫn
gieo niềm tin rằng rồi mình sẽ giàu lên thôi. Những
ảo tưởng giàu có mà thiếu đi động lực và hành động
thực tế thì mãi chỉ là viển vông. Nhìn vào bức ữanh
đời sống khách quan, chúng ta thấy một bộ phận siêu
giàu nhưng bên cạnh đó có quá nhiều người nghèo
khổ. Nhưng số “người nghèo” ấy đâu thể tước đi
ngôi vị của kẻ giàu như ừong truyện cổ tích, thậm
chí dù ừong mơ họ cũng không nghĩ mình làm được
điều đó. B ở i thế, “người nghèo” thường bi quan, họ
đọc truyện cổ tích để xoa dịu sự ngột ngạt trong cuộc
sống thường nhật của mình. Họ kể cho con truyện cổ
tích và gieo vào chúng tâm lí vô thức ghét người
giàu. M ột ữong những lý do khiến “người nghèo”
mãi nghèo đi bởi họ sống ừong ảo vọng và an phận
với cuộc đời.
Con người ta thực sự định hình cuộc đời của họ
qua suy nghĩ của chính họ. “Người nghèo” không thể
giàu lên bởi họ mặc định cho mình suy nghĩ tiêu cực
“mình thì làm sao có thể giàu” và suy nghĩ đó buộc
họ chặt cứng ở một chỗ. Nhưng người giàu luôn nghĩ
họ giàu và vì thế họ có động lực để khiến bản thân
giàu có hơn. “Người nghèo” không chỉ “nghèo” vì
thiếu tiền bạc mà họ còn “nghèo” ngay cả frong suy
16
nghĩ của chính mình. Điều đó chứng tỏ một điều
rằng câu chuyện làm giàu của cuộc sống hôm nay
không phải là bức franh ừong những truyện cổ tích,
bởi truyện cổ tích chi vẽ lên một phần rất đặc biệt
của cuộc sống, còn phần lớn chúng ta đổi đời bằng
chứứi bàn tay và khối óc của mình. V à điều đó tạo
tiền đề cho những câu chuyện cổ tích thời hiện đại,
những truyện mà chúng ta nên học hỏi về nỗ lực
vưom đến thành công, từ đó phá bỏ tâm lí làm giàu
sai lầm trong thực tế.
Góc suy ngẫm
Chúng ta có thể kể chuyện cổ tích cho con cái
của mình, để cho chúng hiểu về nhân sinh quan, giữa
cái thiện và cái ác, giữa những cuộc đấu ừanh để
giành lại công bằng và nuôi dưỡng sự hồn nhiên,
ngây thơ của tuổi nhỏ. N hưng không có nghĩa
ch ún g ta vẫn luôn gieo hình ảnh m ột th ế giới th ự c
luôn giống n h ư tro n g câu chuyện cổ tích , “Người
nghèo” may mắn ữ ở thành kẻ giàu hay người giàu là
những kẻ ngu ngốc thực ra rất hiếm có trong cuộc
sống thực. Đ ó là lý do vì sao “chuyện cổ tích chỉ
dành cho người nghèo”, ch l khi chúng ta b iết gạn
lọc những d ữ kiện th ự c tế và có m ối tư ơn g quan
với đòi th ự c th ì lúc ấy m ới có thể th o át nghèo!
17
C hư ơng 2
ĐỘNG L ự c KIẾM TIỀN
CHO Đ ỡ KHỎ
Tất cả chúng ta, ai cũng cần ĐỘNG LỰCI
V ì sao các khoá học tạo động lực lại ra đời? V ì
sao triệu phú và tỷ phú trên thế giới thường tổ chức
các hội thảo, buổi diễn thuyết? V à tại sao con người
ta cần sự khuyến khích và động viên trước khi bắt tay
làm một điều gì đó? Những câu hỏi đó khiến tôi nhận
ra một điều rằng: “ K iếm tiền và làra giàu ch ắc chắn
cần động lự c!”
18
Cuộc sống hiện đại ngày hôm nay m ở ra những
nhu cầu mới cho loài người. C ác khoá học tạo động
lực không ngừng diễn ra để giúp m ỗi người có niềm
cảm hứng sống. M ột N ick V u jicic không tay không
chân nhưng anh đã khiến bao con người may mắn
hom anh về thể hình có niềm lạc quan vui sống. M ột
Adam K hoo - triệu phú tuổi 2 6 của Singapore cũng
tổ chức các khoá học tạo động lực như Lập trình
ngôn ngữ tư duy (N LP) để giúp m ỗi người đi đến
mục tiêu của mình với nguồn năng lượng dồi dào và
khả năng làm việc hiệu quả nhất. Nhu cầu “có động
lực” để có thể thực hiện m ột điều nào đó thật ra đã
xuất hiện từ khi chúng ta còn nhỏ bé. M ột đứa ữ ẻ 3
tuổi luôn muốn cha mẹ khuyến khích khi nhận phiếu
bé ngoan. M ột học sinh nhận điểm kém sẽ hi vọng
lời động viên hom là sự chỉ trích để lần sau sẽ cố
gắng hom nữa. Thời gian du học ờ Singapore, tôi
nhận ra rằng những giảng viên ở đây luôn cố gắng
tạo động lực học cho sinh viên nhiều nhất có thể. K hi
một người làm bài tập chưa tốt hoặc thậm chí sai
hoàn toàn, họ vẫn khuyến khích sinh viên của mình
bằng những từ như “good jo b !” (tốt lắm !). Sinh viên
cảm thấy việc đến trường không còn quá căng thẳng
và áp lực nữa. Họ cảm thấy bản thân được yêu
thương và trân ữọng, bởi thế họ có động lực học tập
và tích lũy nhiều kiến thức hom. Nhu cầu mong muốn
được trao động lực là thiết yếu ừong cuộc sống của
19
mỗi người, là gia vị quan trọng khiến mỗi cá thể tràn,
trề năng lượng làm việc hiệu quả hơn.
Động lực là động cơ thúc đẩy hành động
của con người. Đó là trạng thái nội tại, tạo sinh lực
và hướng con người đến hành vi có mục đích.
Nền tảng của động lực là các cảm xúc mà cụ thể
là nó dựa trên sự né tránh những xúc cảm tiêu
cực và tìm kiếm những cảm xúc tích cực.
(Theo: Đàm phản giải phóng “con tin ” - George Kohlrieser)
T ôi chợt nhớ đến câu chuyện của một người
đàn ông muốn bỏ thuốc lá. ô n g cố gắng để bỏ thuốc
nhưng chẳng bao lâu sau ông lại hút thuốc ừ ở lại.
Ông cũng chẳng thể nhớ nổi hậu quả ghê gớm đến từ
việc hút thuốc đó. R ồi một ngày, cô con gái bé bỏng
của ông chạy đến bên ông với hai hàng nước mắt
giàn dụa. Cô bé sà vào lòng ông khóc nức nở, cô bé
kể lại những tác hại của thuốc lá mà cô giáo đã kể và
nhấn mạnh cô sợ ông sẽ chết trước khi thấy con gái
mặc chiếc váy cưới vào ngày frọng đại của cuộc đời
mình. Nghe đến đó, người đàn ông kia thật sự xúc
động và cảm thấy không chỉ sống có lỗi với bản thân
mà còn thiếu ừách nhiệm với đứa con gái bé bỏng
của mình. Ngay lập tức, ông dập tắt điếu thuốc đang
hút dở, và frấn an cô bằng lời hứa sẽ bỏ thuốc ngay
lúc này và nhất định ở bên cô khi cô lấy chồng. B ở i
thế, cứ mỗi khi thèm thuốc, hai hàng nước mắt của
con gái lại hiện lên khiến ông không thể hút. Người
20
đàn ông ấy 15 năm sau đã dự đám cưới của con gái,
ông đã bỏ ứiuốc lá từ lâu.
Câu chuyện ấy neo lại ữong tôi nhiều suy nghĩ
về động lực kiếm tiền. Trước khi bắt đầu một mục
tiêu nào đó, con ngưòd ta đều nuôi ừong dòng máu
mình m ột động lực nhất định. Nhưng không phải
động lực nào cũng có thể khiến bạn đủ năng lượng đi
đến mục tiêu cuối c ừ ig . Có những người chi đi được
nửa chừng vì họ tạo cho mình những động lực sai
lầm. V à chúng ta bắt đầu đi sâu vấn đề bằng những
lập luận dưới đây.
Động lực kiếm tiền cho đỡ khổ đã đủ?
K hi còn nhỏ, cha mẹ tôi thường dạy tôi hãy đặt
câu hỏi trước khi làm một điều gì đó. V iệc đặt câu
hỏi sẽ giúp tôi dành thời gian cho một mục tiêu có
ích. Nếu không biết bản thân làm điều đó vì cái gì,
tôi chỉ đang lãng phí thời gian cho một thứ m à mình
chưa định nghĩa nổi mục đích của nó gắn liền với
bản thân. V à điều đó cũng đồng nghĩa với việc tôi
đang thực hiện nó với tư duy vô định.
B ở i thế với việc kiếm tiền, tôi cũng sẽ đặt ra
những câu hỏi “V ì sao?” với tất cả các bạn.
• M ục tiêu kiếm tiền của bạn là gì?
• K hông có tiền bạn có sổn g được không?
• Có kh i n ào trong cu ộc đ ờ i việc kiếm tiền trở
thành mục đích cùa bạn?
21
- Xem thêm -