VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN THỊ HUYỀN
TIỂU THUYẾT VÀ PHÓNG SỰ VŨ TRỌNG PHỤNG
NHÌN TỪ LỊCH SỬ TIẾP NHẬN
20
Chuyên ngành
: Lý luận văn học
Mã số
: 62.22.01.20
LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
1: PGS.TS. Tôn Thảo Miên
2: PGS.TS. Vũ Tuấn Anh
Hà Nội, 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả trong
luận án là trung thực và chƣa từng đƣợc ai công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các tài liệu tham khảo, trích dẫn có xuất xứ rõ ràng, minh bạch.
Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về công trình nghiên cứu của mình.
Tác giả
Trần Thị Huyền
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .....................................................................................................................1
Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ...........................................7
1.1. Tình hình nghiên cứu lý thuyết tiếp nhận ở phƣơng Tây và Việt Nam ...............7
1.2. Tình hình nghiên cứu tiểu thuyết và phóng sự Vũ Trọng Phụng. ......................12
CHƢƠNG 2. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC NGHIÊN
CỨU VŨ TRỌNG PHỤNG ......................................................................................25
2.1. Khái niệm về tiếp nhận văn học .........................................................................25
2.2. Quá trình tiếp nhận tác phẩm văn học ................................................................31
2.3. Xung quanh thuật ngữ chủ thể tiếp nhận ...........................................................56
CHƢƠNG 3. VẤN ĐỀ CHỦ THỂ TIẾP NHẬN TRONG VIỆC TIẾP NHẬN TIỂU
THUYẾT VÀ PHÓNG SỰ VŨ TRỌNG PHỤNG ..................................................64
3.1. Những tiền đề tiếp nhận .....................................................................................64
3.2. Chủ thể tiếp nhận từ lịch sử tiếp nhận tiểu thuyết và phóng sự Vũ Trọng Phụng .......67
Chƣơng 4. NHỮNG QUAN ĐIỂM TIẾP NHẬN TIỂU THUYẾT .........................87
VÀ PHÓNG SỰ VŨ TRỌNG PHỤNG ...................................................................87
4.1. Tiếp nhận từ quan điểm xã hội ...........................................................................87
4.2. Tiếp nhận từ phân tâm học ...............................................................................101
4.3.Tiếp nhận từ quan điểm đánh giá về giá trị hiện thực và nhân đạo ..................113
4.4. Tiếp nhận từ thi pháp học.................................................................................128
Tiểu kết ....................................................................................................................146
KẾT LUẬN .............................................................................................................148
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1.Trong lịch sử văn học Việt Nam nói chung và dòng văn học hiện thực phê
phán nói riêng,Vũ Trọng Phụng là một cây bút tiêu biểu, là một nhà văn có vị trí
trọng yếu. Ngay từ khi mới xuất hiện Vũ Trọng Phụng đã trở thành một khuôn mặt
lạ trên văn đàn, nhƣng cũng chính vì cái “lạ” cái dữ dội và quyết liệt ấy mà cả cuộc
đời ông chất chứa đầy giông tố. Chỉ với thời gian chƣa đầy 10 năm cầm bút, làm
báo và viết văn, bằng tài năng và sức lao động không mệt mỏi, Vũ Trọng Phụng đã
vƣơn tới những đỉnh cao rực rỡ trong sự nghiệp văn chƣơng và báo chí.Tám tiểu
thuyết, bẩy thiên phóng sự xuất sắc đã đƣa ông lên vị trí một “tiểu thuyết gia trác
tuyệt” trên địa hạt văn chƣơng và “ông vua phóng sự đất Bắc trong làng báo”.
Thực tiễn này thu hút sự chú ý của rất nhiều nhà phê bình, nghiên cứu và của
độc giả. Đã có rất nhiều cuộc tranh luận gay gắt về tác phẩm và tƣ tƣởng của Vũ
Trọng Phụng. Ngƣời ta không ngừng đọc, không ngừng hoan nghênh, phê phán,
nhƣng cũng tích cực tìm hiểu, khám phá lại giá trị của mỗi tác phẩm. Trong nền văn
học Việt Nam, ông đƣợc đánh giá là một trong những hiện tƣợng văn học phức tạp
bậc nhất và chịu sự đánh giá thăng trầm suốt nửa thế kỷ. Lịch sử nghiên cứu văn
học cũng có rất nhiều công trình nghiên cứu về các sáng tác của ông đặc biệt là ở
tiểu thuyết và phóng sự, hai thể loại đƣợc coi là thành công nhất của Vũ Trọng
Phụng, trong đó phải kể đến công trình nghiên cứu của Nguyễn Đăng Mạnh,
Nguyễn Hoành Khung, Nguyễn Trác, Phùng Tất Đắc, Mai Xuân Nhân, Trƣơng
Tửu, Hà Minh Đức… Nhiều công trình tuyển tập, toàn tập về sáng tác của ông cũng
đƣợc tập hợp, xuất bản. Đó là các công trình của Nguyễn Đăng Mạnh, Trần Hữu
Tá, Tôn Thảo Miên …, những bài viết của các nhà văn cùng thế hệ với ông nhƣ
Ngô Tất Tố, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng, Lê Văn
Trƣơng,Tam Lang,Vũ Bằng… Đặc biệt những năm gần đây xuất hiện rất nhiều
những nhà nghiên cứu tham gia nghiên cứu về tác phẩm của ông, nhƣ luận văn
Thạc sĩ và Tiến sĩ của Trần Đăng Thao, Võ Thị Quỳnh, Nguyễn Quang Trung…
Sáng tác Vũ Trọng Phụng đã từng đƣợc tìm hiểu ở nhiều khía cạnh, từ thể loại, vấn
đề đến nhân vật, tuy nhiên chƣa có một công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về
tiểu thuyết và phóng sự nhìn từ lịch sử tiếp nhận. Thực tế này đã gây nhiều khó
1
khăn cho việc thẩm định lại giá trị tác phẩm của ông. Giai đoạn này, thập niên thứ
hai của thế kỷ XXI việc nhìn nhận lại quá trình đánh giá về cuộc đời và sáng tác
cũng nhƣ những đóng góp của Vũ Trọng Phụng vào lịch sử văn học Việt Nam là
một việc làm cần thiết, đó cũng là cánh cửa mở ra những phƣơng diện mới, những
cách tiếp cận mới.
1.2. Quá trình sáng tạo và thƣởng thức một tác phẩm văn học vận hành qua ba
khâu : Nhà văn - Tác phẩm - Ngƣời đọc, trong đó ngƣời đọc (ngƣời tiếp nhận) đƣợc
xem là khâu cuối của quá trình ấy, khâu cuối này đƣợc lý luận quan tâm từ vài thập
kỷ trở lại đây. Mỹ học tiếp nhận của trƣờng phái Konstanz đã mở rộng hƣớng
nghiên cứu văn học, lần đầu tiên quan tâm tới độc giả, “đặt mục tiêu cách tân và mở
rộng sự phân tích của nghiên cứu văn học bằng cách đƣa vào lƣợc đồ quá trình văn
học sử một bậc độc lập mới: “Độc giả” [82 -98]. Đó cũng là khái niệm cơ bản, là
vấn đề trung tâm của lý thuyết tiếp nhận. Số phận lịch sử của tác phẩm qua mỗi thời
kỳ là do tầm đón nhận quy định; tầm đón nhận bị chi phối bởi cái chuẩn thẩm mỹ
của thời đại và chính ngƣời đọc tạo nên những cách đánh giá khác nhau về tác
phẩm, tạo nên đời sống cho văn bản. Cũng trên ý nghĩa đó, vấn đề sáng tác của Vũ
Trọng Phụng trong văn học nghệ thuật luôn là một vấn đề lớn, gắn với các quan
điểm khác nhau, cách nhìn nhận khác nhau và thậm chí là cách đánh giá trong mỗi
độc giả ở cùng một giai đoạn. Trong vô vàn những cách tiếp nhận đó không ai có
thể xem mình là ngƣời cuối cùng thủ đắc chân lý. Với đề tài Tiểu thuyết và Phóng
sự Vũ Trọng Phụng nhìn từ lịch sử tiếp nhận, tác giả luận án đi sâu vào hai thể loại
tiểu thuyết và phóng sự đƣợc soi chiếu bằng lý thuyết tiếp nhận, tổng hợp những
nhận định, đánh giá về tác phẩm qua mỗi thời kỳ, qua những môi trƣờng và điều
kiện lịch sử. Khi nghiên cứu về Vũ Trọng Phụng cũng nhƣ tác phẩm của ông, chúng
tôi đặt đối tƣợng này trong bối cảnh của lịch sử dân tộc và thời đại để thấy đƣợc tƣ
tƣởng nghệ thuật của nhà văn, những đóng góp không ai thay thế đƣợc của ông đối
với tiến trình lịch sử văn học dân tộc.
Thực tế cho thấy tuy có nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra với sáng tác
của Vũ Trọng Phụng nhƣng chƣa có một công trình nào nghiên cứu, khảo sát sáng
tác của ông theo hƣớng tiếp nhận. Chính vì lý do này mà tác giả luận án sẽ tìm hiểu
theo hƣớng đó, mong góp một số ý kiến để lý giải sự thay đổi trong các sắc thái tiếp
2
nhận và truy tìm các quy luật ẩn giấu sau đó. Đồng thời việc tiếp cận với những
thành tựu của tƣ duy lí luận văn học hiện đại và hậu hiện đại, giúp chúng tôi mở ra
những nhận thức mới về phƣơng thức tồn tại của tác phẩm văn học. Công trình của
chúng tôi là một công trình chuyên biệt đầu tiên nghiên cứu về vấn đề này.
1.3. Hơn 70 năm đã trôi qua, trên cơ sở những tài liệu đã thu thập đƣợc ở thời
điểm hiện tại, chúng tôi nhận thấy cần nhìn nhận lại để có những nhận xét xác đáng
hơn về Vũ Trọng Phụng. Việc nghiên cứu một cách có hệ thống sẽ có những đánh
giá chuẩn xác hơn về nhà văn, đồng thời đây cũng là việc làm có ý nghĩa đối với
công tác nghiên cứu di sản văn học quá khứ nói chung. Từ những lý do vừa trình
bày chúng tôi quyết định chọn vấn đề Tiểu thuyết và phóng sự Vũ Trọng Phụng
nhìn từ lịch sử tiếp nhận làm đề tài luận án của mình, nhƣ một mũi đột phá nhằm
tìm hiểu sâu hơn những giá trị ngày càng tỏa sáng trong tác phẩm Vũ Trọng Phụng.
Chúng tôi tin rằng đây sẽ là một cách tiếp cận mới mẻ đầy thách thức nhƣng chắc
chắn cũng hết sức thú vị.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Thực hiện đề tài “Tiểu thuyết và phóng sự Vũ Trọng Phụng nhìn từ lịch sử tiếp
nhận” chúng tôi mong muốn kiểm nghiệm lại những quan điểm của lý thuyết tiếp
nhận, thông qua lịch sử tiếp nhận tiểu thuyết và phóng sự Vũ Trọng Phụng nhƣ một
minh chứng để chứng minh.
Trên cơ sở khái quát lịch sử tiếp nhận tiểu thuyết và phóng sự của Vũ Trọng
Phụng, chúng tôi phục hiện diện mạo, đƣa ra cái nhìn hệ thống về các hình thức tiếp
nhận, các ý kiến đánh giá. Đồng thời lý giải cách hiểu khác nhau về hai thể loại này
của Vũ Trọng Phụng trong lịch sử nghiên cứu, phê bình văn học dân tộc. Sự phát
triển của những bài viết, bài nghiên cứu về Vũ Trọng Phụng trong những năm gần
đây chứng tỏ sự quan tâm của độc giả đối với Vũ Trọng Phụng. Qua vấn đề tiếp
nhận tiểu thuyết và phóng sự Vũ Trọng Phụng, chúng tôi sẽ trả lời cho những câu
hỏi của lí luận văn học về tác phẩm văn học “Ý nghĩa của tác phẩm văn học có phải
nhất thành bất biến”, qua đó xác định những đóng góp của Vũ Trọng Phụng đối với
nền văn học nƣớc nhà.
Luận án dành một số trang nhất định cho việc tìm hiểu những quan điểm tiếp
nhận cơ bản về tác phẩm của Vũ Trọng Phụng.
3
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án bao gồm:
Thứ nhất: Luận án là đề tài vận dụng lý thuyết tiếp nhận vào khảo sát trƣờng
hợp một tác giả thông qua sáng tác.Tuy nhiên do dung lƣợng của một luận án tiến
sĩ, nên chúng tôi giới hạn khảo sát việc tiếp nhận về tiểu thuyết và phóng sự của Vũ
Trọng Phụng trong giới nghiên cứu phê bình, còn các con đƣờng tiếp nhận khác
luận án không bao quát hết đƣợc.
Thứ hai: Luận án sẽ tiến hành khảo sát tình hình giới thiệu và nghiên cứu về
Vũ Trọng Phụng từ năm 1933 tới nay trong đó tập trung vào hai thể loại tiểu thuyết
và phóng sự, lý giải một số cách hiểu của ngƣời đọc về tác phẩm Vũ Trọng Phụng.
Phạm vi nghiên cứu của luận án.
Trong khuôn khổ của một luận án, do điều kiện chủ quan và khách quan,
chúng tôi xin đƣợc giới hạn phạm vi tìm hiểu các công trình nghiên cứu, phê bình
tại Việt Nam.
Khi nói đến lịch sử tiếp nhận cũng có nghĩa là nói đến ngƣời tiếp nhận ở
những giai đoạn lịch sử khác nhau. Ở mỗi giai đoạn lại có những quy định về tầm
đón nhận khác nhau và tầm đón nhận này lại bị quy định bởi xã hội, thời đại. Để tìm
hiểu sự tiếp nhận, luận án sẽ tiến hành phân kỳ lịch sử của quá trình này.
Đặc biệt, chúng tôi chỉ giới hạn nghiên cứu khảo sát ở hai thể loại thành công
nhất và gây nhiều tranh cãi nhất, đó là tiểu thuyết và phóng sự, thống kê, phân tích
những bài viết, công trình nghiên cứu cũng nhƣ các vấn đề về Vũ Trọng Phụng ở
từng giai đoạn.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1.Cơ sở lý luận: Luận án sử dụng phƣơng pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử nhƣ là nền tảng khi triển khai luận án.
Đặc biệt, luận án sử dụng lý thuyết tiếp nhận nhƣ là công cụ để giải quyết những
vấn đề mà luận án đặt ra.
4.2.Phƣơng pháp nghiên cứu: Luận án sử dụng các phƣơng pháp sau:
Phƣơng pháp lịch sử - xã hội : Vận dụng phƣơng pháp này để xem xét tiểu
thuyết và phóng sự của Vũ Trọng Phụng qua những giai đoạn lịch sử khác
nhau.Trong quá trình vận động, phát triển, trong những mối liên hệ với điều kiện xã
4
hội lịch sử, văn hóa cụ thể có tác động gì tới việc tiếp nhận tƣ tƣởng cũng nhƣ tác
phẩm của Vũ Trọng Phụng. Phƣơng pháp này sẽ đƣợc vận dụng cho chƣơng 3 và
chƣơng 4 của luận án.
Phƣơng pháp khảo sát, thống kê: Sử dụng phƣơng pháp này chúng tôi nhằm
mục đích xem xét, tập hợp, phân loại các công trình, bài báo, tiểu luận phê bình về
Vũ Trọng Phụng. Tiếp đó tiến hành thống kê sắp xếp theo từng giai đoạn, từng vấn
đề, những bƣớc thăng trầm và từng cách tiếp cận, đánh giá khác nhau; hệ thống hóa
bức tranh về tiểu thuyết và phóng sự Vũ Trọng Phụng trong quá trình vận động,
phát triển, với điều kiện lịch sử xã hội cụ thể.
Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp: Với phƣơng pháp này luận án sẽ chỉ ra đƣợc
thái độ, cách nhìn, nguyên nhân của những cách nhìn đó; tổng hợp lại và rút ra đƣợc
những kết luận cần thiết trong khi nghiên cứu. Phƣơng pháp này sẽ đƣợc sử dụng
thƣờng xuyên trong quá trình làm luận án.
Phƣơng pháp so sánh, đối chiếu: Trong quá trình giải quyết vấn đề luận án
chúng tôi sẽ tiến hành so sánh giữa các bài viết, ở các vấn đề, ở các tác giả, các thời
điểm, các giai đoạn khác nhau, cũng có khi so sánh ngay trong một tác giả, một vấn đề
ở cùng một thời điểm. Ngoài ra khi cần thiết sẽ so sánh giữa trào lƣu hiện thực phê
phán và trào lƣu lãng mạn.
Trong quá trình triển khai luận án chúng tôi còn sử dụng các phƣơng pháp khác
nhƣ phƣơng pháp hệ thống, phân loại…
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Đƣa ra một cái nhìn hệ thống về quá trình tiếp nhận tác phẩm văn học và sự
ảnh hƣởng của những quan niệm đó trong lịch sử tiếp nhận tiểu thuyết và phóng sự
của Vũ Trọng Phụng
Bƣớc đầu hệ thống, phân tích, nhận xét về việc nghiên cứu và ảnh hƣởng của
Vũ Trọng Phụng đối với nền văn học, góp phần khẳng định giá trị các tác phẩm của
ông từ bình diện nghiên cứu tiếp nhận.
Khẳng định vai trò của chủ thể tiếp nhận trong việc nghiên cứu, thẩm định các
giá trị văn học. Qua lịch sử tiếp nhận tiểu thuyết và phóng sự Vũ Trọng Phụng luận
án khẳng định: Lịch sử văn học không chỉ là sự tổng hợp các con số về tác phẩm mà
còn là sự tiếp nhận về nó.
5
Vận dụng lý thuyết tiếp nhận vào khảo sát một hiện tƣợng văn học. Thấy đƣợc
tầm đón nhận Vũ Trọng Phụng thông qua việc nghiên cứu tác phẩm của ông, chỉ ra
thực trạng tiếp nhận và hƣớng đi tiếp theo.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Ý nghĩa lý luận: Luận án cố gắng phác họa quá trình tiếp nhận tác phẩm văn
học trong tƣ duy lý luận văn học qua các giai đoạn một cách hệ thống, trong đó
ngƣời đọc là nhân tố quan trọng trong quá trình tiếp nhận tác phẩm văn học. Phần
nào áp dụng lý thuyết vào khảo sát thực tiễn văn học Việt Nam.
Ý nghĩa thực tiễn: Hoàn thành đề tài này chúng tôi mong muốn đem đến một
cái nhìn mới mẻ và khoa học trong cách tiếp cận về tác phẩm Vũ Trọng Phụng, tiếp
tục nghiên cứu sâu hơn mảng tiểu thuyết và phóng sự của ông, góp phần nâng cao
chất lƣợng cho công tác giảng dậy trong các trƣờng cao đẳng, phổ thông, cho những
ngƣời quan tâm nghiên cứu về Vũ Trọng Phụng.
7. Bố cục của luận án
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phần nội
dung luận án đƣợc triển khai làm 4 chƣơng:
Chƣơng 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu
Chƣơng 2: Những vấn đề lý thuyết liên quan đến việc nghiên cứu tiểu thuyết
và phóng sự Vũ Trọng Phụng
Chƣơng 3: Vấn đề chủ thể tiếp nhận trong việc tiếp nhận tiểu thuyết và phóng
sự Vũ Trọng Phụng
Chƣơng 4: Những quan điểm tiếp nhận tiểu thuyết và phóng sự Vũ Trọng Phụng.
6
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Tình hình nghiên cứu lý thuyết tiếp nhận ở phƣơng Tây và Việt Nam
1.1.1.Thành tựu của mỹ học tiếp nhận phương Tây
Trong quan niệm truyền thống về tác phẩm văn học với nhiều khuôn mẫu lý
thuyết đƣợc coi là chuẩn mực, nhiều khái niệm mang tính kinh điển nhƣ đề tài, chủ
đề, tƣ tƣởng, nhân vật…từng là những công cụ để thẩm định tác phẩm đã dần trở
nên lỗi thời trƣớc thực tiễn sáng tạo đang biến đổi.
Từ những thập niên đầu của thế kỷ XX, nghệ thuật nhân loại đã có những bƣớc
đột phá quan trọng thay đổi cả tƣ duy lẫn hình thức trong đó vai trò của ngƣời đọc
đƣợc gia tăng, cùng với sự ra đời của các trƣờng phái ở phƣơng Tây với một hệ
thống khái niệm mới đáp ứng thực tiễn sáng tạo đang biến đổi mau lẹ.
Với sự xuất hiện của mỹ học tiếp nhận, lý luận văn học quan tâm nhiều tới
độc giả - ngƣời cụ thể hóa cho văn bản. Trong thực tế, trƣờng phái mỹ học tiếp nhận
Konstanz (Đức) đã tập hợp đƣợc nhiều nhà khoa học xuất sắc, bên cạnh những điểm
tƣơng đồng, những nhà khoa học này cũng có những quan điểm khác nhau về lý
thuyết tiếp nhận.
Dựa trên những kết quả nghiên cứu tác phẩm văn học theo hiện tƣợng học của
Husserl, Roman Ingarden cho ra đời cuốn sách Tác phẩm văn học, đề cập đến
phƣơng thức tồn tại của tác phẩm văn học dƣới ánh sáng của hiện tƣợng học. Trong
cuốn sách này ông đã xem quá trình đọc là quá trình ngƣời đọc hƣớng tới văn bản,
cấp cho văn bản ý nghĩa, ông đã chỉ ra bản chất của quá trình đọc, đọc là quá trình
cụ thể hóa văn bản, có nghĩa bản thân văn bản không ở quá trình hoàn tất mà nó
luôn dang dở, luôn chờ ngƣời đọc đến để bổ sung cụ thể hóa nó. Theo ông tác phẩm
văn học nhƣ là khách thể mang tính chủ ý, đời sống của tác phẩm văn học phụ thuộc
vào những hoạt động cụ thể hóa (đọc) văn bản có chủ ý của ngƣời đọc hƣớng tới.
Một mặt, tồn tại một văn bản văn học đƣợc xem nhƣ sản phẩm sơ lược với những
chỗ trống và những sự việc chƣa xác định, giống nhƣ một bộ xương, mặt khác
thông qua sự cụ thể hóa (đọc) nhƣ là hoạt động của ý thức hƣớng về nó mà bộ
xƣơng đƣợc đắp thêm da thịt và tác phẩm hoàn thành. Ông cũng tìm ra những khả
năng khác nhau để lĩnh hội và lý giải giá trị tác phẩm văn học: “Tác phẩm văn học
không đồng nhất với mọi sự đọc và trong phê bình văn học, những ý kiến khác nhau
7
không liên quan đến bản thân tác phẩm mà chỉ liên quan đến sự cụ thể hóa của từng
nhà phê bình‟‟[31- 43]. Ngoài Roman Ingarden, Heidegger là ngƣời đã tạo ra những
biến thể mới của hiện tƣợng học nhƣ tƣờng giải học và mỹ học tiếp nhận, những
quan điểm này của Heidegger đã đƣợc H.G.Gadame một nhà tƣờng giải học triết
học ngƣời Đức phát triển trong công trình Chân lý và phương pháp (1960).
H.G.Gadame đã cho thấy đƣợc văn bản nghệ thuật còn có những khả năng mới
trong quan hệ với những yếu tố khác, và với ngƣời tiếp nhận. H.G.Gadame đã đặt
hàng loạt câu hỏi : “Nghĩa của văn bản thể hiện qua cái gì? Vai trò của sự chủ ý của
nhà văn trong nghĩa này là gì? Có thể hiểu đƣợc những tác phẩm mà về mặt lịch sử
và văn hóa là xa lạ đối với ngƣời đọc? Có thể có sự hiểu “khách quan” hay mọi sự
hiểu đều lệ thuộc vào tình thế lịch sử cụ thể” [29 - 15].
Dựa trên lý luận của H.G.Gadame, Hans Robert Jauss và Wolfgang Iser cũng
đƣa ra những quan điểm của riêng mình về lý thuyết tiếp nhận. Trong công trình
Lịch sử văn học như là sự khiêu khích đối với khoa học văn học ông cho rằng tác
phẩm văn học là một quá trình mà không phải là một sản phẩm cố định, nghĩa của
tác phẩm không phụ thuộc vào chủ ý của tác giả, ý nghĩa của tác phẩm văn học còn
ở trong tinh thần tiếp nhận của ngƣời đọc. “Jauss đã phân biệt tầm đón nhận từ bên
trong văn bản nghệ thuật, có ảnh hƣởng đƣợc quyết định thông qua văn bản và sự
tiếp nhận liên quan đến ngƣời đọc của một xã hội nhất định gọi là yêu cầu xã hội‟‟
[24 - 53]. Jauss nhấn mạnh không thể quan niệm đời sống cuả tác phẩm văn học
trong lịch sử nếu không có sự tham gia tích cực của những ngƣời mà tác phẩm phục
vụ, chính sự tác động của họ sẽ đƣa tác phẩm đi vào dòng chảy liên tục và sinh
động của kinh nghiệm văn học, nơi mà chân trời tiếp nhận không ngừng biến đổi.
Jauss cũng cho rằng tác phẩm văn học đồng thời bao gồm hai phƣơng diện: Văn bản
với tƣ cách là một cấu trúc cho sẵn và sự tiếp nhận của ngƣời đọc đối với văn bản,
cấu trúc văn bản đƣợc cụ thể hóa bằng những ngƣời cảm thụ. Vì vậy ý nghĩa của tác
phẩm văn học không phải vĩnh hằng, phi thời gian mà đƣợc hình thành trong lịch
sử, điều đó cũng có nghĩa khi điều kiện lịch sử và xã hội của sự tiếp nhận biến đổi
thì ý nghĩa của tác phẩm cũng thay đổi theo. Đó là một quá trình tích cực làm biến
đổi giá trị và ý nghĩa tác phẩm qua các thế hệ cho đến hiện tại. Nhƣ vậy ông cho
rằng không nên quan niệm tác phẩm nhƣ một cái gì cố định, bất biến, trái lại về mặt
nội dung cũng nhƣ hình thức, nó luôn mang ý nghĩa của một cuộc đối thoại. Quan
8
điểm này của Jauss sẽ là gợi ý tích cực để chúng tôi thực hiện đề tài của luận án.
Từ phƣơng diện tiếp cận tác phẩm văn học này, Wolfgang Iser một đồng
nghiệp của Jauss, bên cạnh những điểm tƣơng đồng còn có những quan điểm khác.
Theo Wolfgang Iser, khi ta tiếp cận với một văn bản luôn có một thứ ngƣời đọc
tiềm ẩn trong văn bản, trong quá trình tiếp nhận văn bản ngƣời đọc luôn gặp bóng
ma vô hình, mà ngƣời ta gọi đó là người đọc tiềm ẩn. Ở đó ngƣời đọc tiềm ẩn mách
nƣớc cho ta đi theo hƣớng nào đó để khám phá tác phẩm. Về sau Derrida cũng cho
rằng văn bản văn học không khép kín, nghĩa của nó không bị trói buộc bằng sự giúp
đỡ của tác giả hay là sự liên quan với hiện thực mà văn bản văn học luôn mở, nó
cần đƣợc bổ sung và tạo khả năng bổ sung. Có thể thấy mỗi một giai đoạn xuất hiện
những trƣờng phái lí luận với những quan niệm khác nhau về tác phẩm văn học,
mỗi một giai đoạn là bƣớc chuyển quan trọng trong quá trình vận động phức tạp về
tƣ tƣởng bắt đầu từ bƣớc chuyển quan trọng từ vai trò của hiện thực và tác giả (quan
niệm truyền thống) đến vai trò của văn bản (tƣ duy lí luận hiện đại) và bƣớc đột phá
từ văn bản đến ngƣời đọc. Đặt tác phẩm trong hệ thống mở hƣớng về ngƣời đọc,
càng về sau vấn đề này càng đƣợc mở rộng với sự lí giải của các nhà khoa học về
tác phẩm văn học trong mối quan hệ với ngƣời đọc.
Nhƣ vậy mỹ học tiếp nhận đã bác bỏ tính chất khép kín của mỹ học sáng tạo
trƣớc đây, và khẳng định ý nghĩa của văn bản sẽ phong phú hơn nhờ ngƣời đọc.
Đây chính là đóng góp quan trọng, một hƣớng nghiên cứu mới về tác phẩm văn học
cũng nhƣ phƣơng thức tồn tại của tác phẩm văn học. Lí thuyết tiếp nhận thế kỷ XX
trên đây cung cấp cơ sở khoa học để có thể lý giải hiện tƣợng Vũ Trọng Phụng, đề
tài mà chúng tôi đang nghiên cứu trong luận án này trên cơ sở khoa học.
1.1.2.Sự phát triển lý thuyết tiếp nhận ở Việt Nam
Thế kỷ XX ghi nhận một giai đoạn đầy biến động trong hành trình của tƣ duy
lí luận văn học nhân loại. Quan niệm văn học hiện đại đã xóa bỏ khái niệm tác giả
truyền thống từng tồn tại suốt nhiều thế kỷ; quan hệ nhân quả trƣớc đây cũng đƣợc
thay thế bằng quan niệm chủ thể và kết cấu ý nghĩa đƣợc tạo ra bên trong khuôn
khổ của ngôn ngữ, xác định đƣợc vai trò trung tâm tạo nghĩa của văn bản văn học
độc lập với tác giả và với môi trƣờng ra đời của nó. Lý luận văn học hậu hiện đại đã
nêu lên ý nghĩa của văn bản văn học qua sự tiếp nhận của ngƣời đọc, điều đó đã làm
thay đổi bản chất của tác phẩm văn học, một khái niệm trung tâm của hệ thống lý
9
luận. Trƣớc một trào lƣu văn học có tính chất quốc tế thì Việt Nam cũng không nằm
ngoài vùng ảnh hƣởng
Việc nghiên cứu về tiếp nhận văn học ở Việt Nam cũng bắt đầu xuất hiện vào
khoảng những năm 70 của thế kỷ XX với sự xuất hiện rải rác các bài nghiên cứu
trên các báo, các tạp chí. Bên cạnh bài của Wolfgang Iser và Hans Robert Jauss với
công trình Lịch sử văn học như là sự khiêu khích đối với khoa học văn học, thì
những công trình kinh điển về lý thuyết tiếp nhận vẫn chƣa đƣợc giới thiệu ở Việt
Nam.Từ những năm 80 trở đi vấn đề này mới đƣợc quan tâm nghiên cứu nhiều hơn
với sự xuất hiện hàng loạt các bài nghiên cứu của các tác giả nhƣ: Nguyễn Văn
Hạnh, Huỳnh Vân, Hoàng Trinh, Nguyễn Văn Dân, Vƣơng Anh Tuấn, Nguyễn Lai,
Nguyễn Thanh Hùng, Trần Đình Sử, Trƣơng Đăng Dung…. Nguyễn Văn Hạnh là
ngƣời đề cập đến khâu tiếp nhận nhƣ là một phƣơng pháp nghiên cứu mới ở Việt
Nam. Trong bài viết Ý kiến của Lênin về mối quan hệ giữa văn học và đời sống, ông
cho rằng: “Giá trị của một tác phẩm thật ra không chỉ đóng khung lại trong phạm vi
sáng tác mà còn lan rộng ra đến phạm vi thƣởng thức. Chính ở khâu thƣởng thức,
tác phẩm mới có ý nghĩa xã hội thực tế của nó. Quan điểm này tất yếu sẽ dẫn đến
những tiêu chuẩn mới để đánh giá tác phẩm, đến một phƣơng pháp nghiên cứu
mới”. Sự nhạy cảm và ý nghĩa thời sự của vấn đề mà tác giả nêu ra là ngòi nổ cho
một cuộc tranh luận trên Tạp chí Văn học vào năm 1971 với các ý kiến của Nam
Mộc, Sơn Tùng, Phùng Văn Tửu, Nghĩa Nguyên, Vũ Tuấn Anh… Năm 1980
Hoàng Trinh có bài Văn học so sánh và vấn đề tiếp nhận văn học đã đề cập đến vấn
đề tiếp nhận trên bình diện sáng tác, là sự ảnh hƣởng, sáng tạo của nền văn học trên
thế giới. Ngoài ra, Nguyễn Lai với bài viết Tiếp nhận văn học - một số vấn đề thời
sự, cũng về vấn đề tiếp nhận vào năm 1990, trong công trình Ngôn ngữ với sáng tạo
và tiếp nhận văn học tác giả đã đặc biệt nhấn mạnh đến phẩm chất năng động chủ
quan của chủ thể tiếp nhận. Nguyễn Thanh Hùng với hàng loạt các bài viết về tiếp
nhận văn học nhƣ: Trao đổi thêm về tiếp nhận văn học, Đọc và tiếp nhận văn
chương, Đọc - hiểu tác phẩm văn chương trong nhà trường đã lƣu ý đến quá trình
tự giác và tự phát trong tiếp nhận.
Nguyễn Văn Dân là ngƣời đầu tiên đã giới thiệu tổng quan về mỹ học tiếp
nhận của trƣờng phái Konstanz tới công chúng Việt Nam. Trên Tạp chí Thông tin
khoa học xã hội, trong các công trình của mình ông đã đề xuất một số khái niệm
10
nhƣ sau: Ngưỡng tâm lý, người đọc, tầm đón nhận, khoảng cách thẩm mỹ, phản tiếp
nhận… có ở các bài:Văn học nghệ thuật và sự tiếp nhận, Nghiên cứu văn học, lý
luận và ứng dụng, Phương pháp luận nghiên cứu văn học. Đây là một hƣớng
nghiên cứu nhiều tiềm năng và những đột phá mới...
Năm 1990, Huỳnh Vân, nhà nghiên cứu chuyên sâu và tiếp cận tƣ liệu tận
nguồn đã công bố hai bài viết : Văn học và hiện thực, Quan hệ văn học - hiện thực
và vấn đề tác động, tiếp nhận và giao tiếp thẩm mỹ nhấn mạnh đến chức năng giao
tiếp của văn học và cho rằng tiếp nhận là một khâu không thể thiếu trong nghiên
cứu văn học. Vấn đề này tiếp tục thôi thúc tác giả, trong hai năm 2009 và 2010 với
hai bài viết: Vấn đề tầm đón nhận và xác định tính nghệ thuật trong mỹ học tiếp
nhận của Hans Robert và Hans Robert Jauss lịch sử văn học và lịch sử tiếp nhận,
tác giả đã đi vào lý giải khái niệm của mỹ học tiếp nhận, và đi vào phân tích quan
niệm của Jauss về lịch sử tiếp nhận với những luận điểm có sức thuyết phục cao.
Nhìn chung các tác giả đã đề cập đến vấn đề chủ thể tiếp nhận, nhấn mạnh sự
tác động của ngƣời đọc đối với văn học, và xem vấn đề tiếp nhận là một vấn đề cần
đƣợc nghiên cứu trong nền lí luận của văn học nƣớc ta hiện nay. Ngoài ra còn có
các nhà nghiên cứu khác nhƣ Phƣơng Lựu, Trần Đình Sử, Huỳnh Nhƣ Phƣơng,…
Phƣơng Lựu với Giáo trình tiếp nhận văn học, Lý luận văn học, Lý luận phê bình
văn học phương Tây thế kỷ XX, Mười trường phái phê bình văn học phương Tây
tác giả đã bàn đến vấn đề tiếp nhận một cách súc tích, có cái nhìn tổng thể về sự
phát triển của lý thuyết tiếp nhận. Tác giả Trần Đình Sử đã lý giải cụ thể những vấn
đề cơ bản nhất của lý thuyết tiếp nhận trong hàng loạt các công trình nghiên cứu:
Mấy vấn đề tiếp nhận văn học, Lý luận tiếp nhận và phê bình văn học, Ngôn ngữ
với việc lĩnh hội tác phẩm thơ…
Vào những năm cuối của thập niên 90 nhà nghiên cứu Trƣơng Đăng Dung,
ngƣời có công trong việc du nhập lý thuyết tiếp nhận vào Việt Nam. Ông đã nghiên
cứu vấn đề này một cách khoa học và hệ thống trong các công trình nghiên cứu, các
bài viết trên các tạp chí. Trong công trình Từ văn bản đến tác phẩm văn học ông
cho rằng mỗi lần đọc là một lần ngƣời đọc “vấp ngã” vào văn bản và đặt vấn đề,
tính chất mở của tác phẩm là điều kiện của sự thƣởng thức thẩm mĩ. Chuyên luận
Tác phẩm văn học như là quá trình đã đƣa ra vấn đề quan trọng khi nghiên cứu tác
phẩm văn học: “Tác phẩm văn học không tĩnh mà động, không phải sản phẩm cố
11
định mà là quá trình” [24 - 43].Trong một bài viết khác trên Tạp chí Văn học nƣớc
ngoài số 4/2003 với nhan đề Phương thức tồn tại của tác phẩm văn học ông nhấn
mạnh vai trò của ngƣời đọc và nêu lên hƣớng tiếp cận phƣơng thức tồn tại của tác
phẩm văn học. Một là tính chất ngôn ngữ, hai là khả năng tạo lập đời sống cụ thể
của văn bản văn học thông qua ngƣời đọc. Với những bài viết cụ thể và sâu sắc của
mình, Trƣơng Đăng Dung đã có những đóng góp đáng quý vào việc nghiên cứu lý
thuyết tiếp nhận nói riêng và lý luận văn học nƣớc nhà nói chung. Ông đƣợc đánh
giá là ngƣời bền bỉ và chuyên sâu với những luận điểm có hàm lƣợng khoa học và
sức thuyết phục cao.
Khi lý thuyết tiếp nhận đƣợc đƣa vào giảng dạy ở bậc đại học, đã có nhiều
luận án tiến sĩ đề cập đến vấn đề này nhƣ: Lê Thị Hồng Vân với Tác phẩm văn học
nhìn từ mối quan hệ giữa văn bản và người đọc (2007). Trần Thị Quỳnh Nga với
Việc tiếp nhận văn xuôi cổ điển Nga thế kỷ XIX ở Việt Nam (2005). Hoàng Phong
Tuấn với Vấn đề tiếp nhận thơ nôm Hồ Xuân Hương (2014)…
Có thể thấy, những công trình trên của các nhà nghiên cứu đã cung cấp một cái
nhìn khái quát, cụ thể về lý thuyết tiếp nhận, chỉ ra những ƣu điểm hạn chế đồng
thời có sự bổ sung trong quá trình vận dụng. Chúng tôi xem đây là những gợi ý
quan trọng có tính chất định hƣớng trong quá trình thực hiện đề tài.
Vận dụng lý thuyết tiếp nhận vào nghiên cứu văn học ở Việt Nam mà cụ thể là
tác giả Vũ Trọng Phụng, tiền đề quan trọng tiếp cận chính là một phƣơng diện mới:
Lịch sử của người đọc, lịch sử của tiếp nhận.
1.2. Tình hình nghiên cứu tiểu thuyết và phóng sự Vũ Trọng Phụng.
Trong lịch sử văn học Việt Nam hiện đại, ít có nhà văn nào mà sự đánh giá của
giới nghiên cứu và bạn đọc lại phong phú, phức tạp nhƣ Vũ Trọng Phụng. Vấn đề
Vũ Trọng Phụng “nhƣ một nghi án kéo dài, nhƣ để khiêu khích dƣ luận suốt trong
nhiều thập kỷ”(Nguyễn Hoành Khung). Theo sự thống kê của nhóm nghiên cứu
Nguyễn Ngọc Thiện, Hà Công Tài trong Vũ Trọng Phụng về tác gia và tác phẩm,
tính đến năm 2005 đã có trên 200 bài báo, tiểu luận, chƣơng sách, tác phẩm nghiên
cứu, phê bình về Vũ Trọng Phụng cùng với hàng chục luận án Tiến sĩ, hàng trăm
luận văn Thạc sĩ trong cả nƣớc, tính cho tới thời điểm này con số đó hẳn đã tăng lên
rất nhiều. Nếu nhƣ tiến hành một cuộc tổng duyệt tỉ mỉ tất cả các công trình này
trong một số ít trang cho phép là điều khó có thể thực hiện đƣợc. Điều này đã phần
12
nào nói lên đƣợc vị thế cũng nhƣ những cống hiến của ông đối với lịch sử văn học
nƣớc nhà cũng nhƣ sự quan tâm đặc biệt của giới nghiên cứu dành cho ông bởi “dẫu
là một viên ngọc còn tỳ vết, hiện tƣợng Vũ Trọng Phụng vẫn nổi lên nhƣ một niềm
tự hào, một mời mọc khó cƣỡng” (Nguyễn Quang Trung). Căn cứ vào phạm vi
nghiên cứu của đề tài chúng tôi sẽ trình bầy vấn đề xét trên hai lĩnh vực tiểu thuyết
và phóng sự, dựa trên những mốc lịch sử lớn có ý nghĩa đối với xã hội và đời sống
văn học.
Vũ Trọng Phụng đƣợc đánh giá là một hiện tƣợng văn học “phức tạp bậc nhất”
trong lịch sử văn học Việt Nam, sự phức tạp ấy đã tạo nên những bƣớc thăng trầm
trong lịch sử tiếp nhận. Đã có lúc tác phẩm của ông bị phủ định sạch trơn, có lúc bị
quy kết là “phản động”, nhƣng có những lúc đƣợc ngợi ca không tiếc lời, lý giải
điều này xuất phát từ ngƣời đọc, một chủ thể quan trọng của quá trình tiếp nhận tác
phẩm. Trong lịch sử văn học đã có nhiều công trình nghiên cứu về tiểu thuyết và
phóng sự Vũ Trọng Phụng từ các góc độ khác nhau và mỗi một góc độ phần nào
khẳng định giá trị tiểu thuyết và phóng sự Vũ Trọng Phụng. Trong phần này chúng
tôi xin điểm lại một số công trình cụ thể nhƣ sau:
Trƣớc năm 1945, bắt đầu từ năm 1933 sau khi công bố những phóng sự đầu
tiên của mình trên tờ Ngọ báo: Cạm bẫy người (1933); Kỹ nghệ lấy Tây (1934), Vũ
Trọng Phụng đã khiến ngƣời đọc và giới phê bình lúc đó phải chú ý. Các nhà
nghiên cứu Lê Tràng Kiều, Phùng Tất Đắc, Mai Xuân Nhân với những kết luận sâu
sắc, những đánh giá tổng quát đƣợc xem nhƣ dấu hiệu khởi sắc ban đầu về sự tiếp
nhận tiểu thuyết và phóng sự Vũ Trọng Phụng.
Nhà văn Phùng Tất Đắc trong lời tựa cuốn Kỹ nghệ lấy Tây đã ca ngợi “Ngòi
bút phóng sự của ông Vũ Trọng Phụng đã nói tới một độ rất cao trong nghệ thuật.
Cuốn sách này… vào hàng những công trình ảnh hƣởng xa rộng hơn, những công
trình có thể vạch phƣơng hƣớng cho văn nghệ, những công trình giúp đƣợc tài liệu
cho đời sau khảo xét về buổi này” [40 - 9]. Trên báo Tràng An (in lại trên Hà Nội
mới số 42 ngày 21/10/1936) Mai Xuân Nhân đã đánh giá cao Kỹ nghệ lấy Tây: “
Kiệt tác ấy đã đƣa ông Vũ Trọng Phụng đến con đƣờng bổn phận của một nhà cầm
bút sống trong cái tình thế trầm trọng của một thời đại khó khăn” [107]. Tác giả bài
viết đã đánh giá cao tài năng viết phóng sự của Vũ Trọng Phụng và chính Mai Xuân
Nhân đã trao cho Vũ Trọng Phụng danh hiệu “Ông vua phóng sự đất Bắc”.
13
Năm 1934 - Dứt tình cuốn tiểu thuyết đầu tay ra mắt độc giả đã nhận nhiều ý
kiến khen chê khác nhau của Cô Lệ Chi, Nguyễn Lê Thanh trên các báo, Đông Tây,
Tao đàn. Năm 1936 có thể coi là một năm đặc biệt trong cuộc đời sáng tạo nghệ
thuật của Vũ Trọng Phụng với sự ra đời của bốn tiểu thuyết : Giông tố, Số đỏ, Vỡ
đê, Làm đĩ và hai phóng sự Cơm thầy cơm cô,Vẽ nhọ bôi hề…cũng từ đây với lối
viết “táo bạo” của mình Vũ Trọng Phụng nhận đƣợc những phản hồi mạnh mẽ từ
phía ngƣời tiếp nhận. Các bài viết của Ông Minh Tƣớc, của Lan Khai của Nguyễn
Triệu Luật đã ghi lại không khí văn học của dƣ luận lúc bấy giờ. Nhƣng cũng trong
thời gian này nổi lên một số ý kiến phản đối gay gắt, tiêu biểu nhƣ Thái Phỉ, Nhất
Chi Mai, Lê Thanh, Mộng Sơn…Một cuộc tranh luận về Vũ Trọng Phụng, tập trung
vào vấn đề “Dâm hay không dâm” đã nổ ra quanh các tác phẩm Kỹ nghệ lấy Tây,
Lục xì, Làm đĩ, Số đỏ, Giông tố…
Cuộc tranh luận thế kỷ đã nổ ra xung quanh tác phẩm của Vũ Trọng Phụng và
nhận đƣợc sự phản hồi từ phía ngƣời tiếp nhận, họ phê phán nặng nề, quy chụp cho
văn chƣơng của ông là “văn chƣơng dâm uế” và đánh giá tác giả của những thứ văn
chƣơng đó “là nhà văn nhìn thế gian qua cặp kính đen, có bộ óc đen và nguồn văn
cũng đen nữa”(Nhất Chi Mai)
Sau khi Vũ Trọng Phụng mất (Tháng 10/1939), xuất hiện những lời ngợi ca tài
đức của ông. Trong suốt thời gian sau đó, nhiều bài viết vẫn tiếp tục tìm hiểu về
ông. Tạp chí Tao đàn đã dành hẳn một số đặc biệt để tƣởng niệm ông với nhiều bài
tiểu luận phê bình, chân dung văn học, hồi ký, câu đối khóc…
Các bài viết của các tác giả Lƣu Trọng Lƣ, Tam Lang, Lan Khai, Ngô Tất
Tố… đã thể hiện tình cảm yêu thƣơng, khâm phục tài năng Vũ Trọng Phụng. Tam
Lang đã đánh giá rất cao tài năng Vũ Trọng Phụng. Xúc động trƣớc cái chết của Vũ
Trọng Phụng, các bài viết dƣờng nhƣ thiên về ca ngợi và mới chỉ dừng lại ở những
khái quát chƣa đi vào những vấn đề cụ thể. Cũng trên Tạp chí Tao đàn số đặc biệt
tháng 12/1939, dƣới nhan đề: Dứt tình với làng văn, bài viết của các tác giả Lệ Chi,
Nguyễn Lê Thanh đã ca ngợi ngòi bút tả chân khéo léo của Vũ Trọng Phụng. Báo
Đuốc Nhà Nam đã nhận xét: “Cả câu chuyện trƣớc mắt ta. Nó mê hoặc ta, làm ta
say sƣa mà mời mọc ta. Vì ta ham thích quá, mà cả một câu chuyện dài dƣờng nhƣ
thu ngắn lại” [ 2 - 653 ]
.
Ngoài ra các bài viết của Trƣơng Tửu, Trƣơng Chính, Vũ Ngọc Phan về các
14
tiểu thuyết Giông tố, Số đỏ, Vỡ đê đều đánh giá cao Vũ Trọng Phụng, thậm chí
Trƣơng Chính còn cho rằng “Vũ Trọng Phụng có những đóng góp quan trọng cho
thể loại tiểu thuyết”[160 - 442]. Nhƣ vậy cái nhìn của Trƣơng Chính ở giai đoạn
này không còn phiến diện nhƣ giai đoạn trƣớc nữa. Bên cạnh đó giai đoạn này cũng
xuất hiện những ý kiến trái chiều. Năm 1944 tác giả Lƣơng Đức Thiệp khi bàn về
Văn chương và xã hội đã phê phán các nhà văn tả chân, ông cho rằng các nhà văn tả
chân chỉ thấy hiện tƣợng sa sút, nhìn thấy khuyết điểm rồi phơi bầy ra chứ không
xác định đƣợc nguyên nhân gây ra những đồi bại ấy. Ông nhận xét: “Trong các văn
sĩ thuộc loại phóng sự, ngọn bút sâu sắc và dồi dào nhất vẫn là Vũ Trọng Phụng
song chủ nghĩa tả chân còn đầy tính cách lãng mạn, một xu hƣớng cải lƣơng phản
chiếu một quan niệm xã hội thiếu sót nên không thể giúp nhà phóng sự đặt vấn đề
đƣợc đúng quan niệm”[155 ].
Có thể thấy ở giai đoạn này sau khi tác giả đã qua đời các bài viết khen, chê
vẫn tiếp tục diễn ra, tuy nhiên mới chỉ dừng lại ở những nhận xét riêng lẻ cho từng
vấn đề, đây sẽ là những gợi mở quan trọng, là nguồn tƣ liệu cần thiết để tiến hành
nghiên cứu đề tài của chúng tôi.
Sau năm 1945 quá trình tiếp nhận tiểu thuyết và phóng sự Vũ Trọng Phụng có
những bƣớc thăng trầm, một phần do hoàn cảnh lịch sử quy định. Tại hội nghị tranh
luận văn nghệ Việt Bắc năm 1949, Tố Hữu, Nguyên Hồng, Nguyễn Đình Thi đều
khẳng định Vũ Trọng Phụng là cây bút “tả thực xã hội”. Nhà thơ Tố Hữu đã trân
trọng nói về công lao của Vũ Trọng Phụng “Cách mạng cảm ơn Vũ Trọng Phụng đã
vạch rõ cái thực xấu xa, thối nát của xã hội” [160 -109]. Nguyên Hồng khi đánh giá
về tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng cũng hết sức đề cao sự sáng tạo của ông: “Nghệ
thuật phải là sự sáng tạo. Cái xã hội của Xuân Tóc Đỏ, của bà Phó Đoan là cái xã
hội thối nát, nhầy nhụa làm cho ngƣời ta ngấy lên” [160 - 108]. Nguyễn Đình Thi
sau này đã gọi Vũ Trọng Phụng là văn hào, là “tiểu thuyết gia trác tuyệt” của văn
học Việt Nam.
Sự xuất hiện các bài viết của Nguyễn Đình Thi (Nhất lãm về văn học Việt
Nam - văn học Xô viết số 9 -1955), Nguyễn Tuân (Đọc lại truyện Giông tố). Phan
Khôi trong tập san Vũ Trọng Phụng với chúng ta vẫn tiếp tục tìm tòi, chỉ ra những
đóng góp ở phóng sự Vũ Trọng Phụng về mặt nội dung tố cáo hiện thực, ông coi
những phóng sự của Vũ Trọng Phụng đều là những tác phẩm thông cảm và tố khổ
15
cho hạng ngƣời cùng khổ ở Việt Nam. Theo nhà văn Nguyên Hồng: “Với hai thiên
phóng sự Cơm thầy cơm cô và Lục xì và hai tiểu thuyết Số đỏ và Giông tố, Vũ
Trọng Phụng đã làm chuyển động cả dƣ luận văn học bấy giờ, giơ cao thêm ngọn cờ
hiện thực, góp thêm một phần đấu tranh quyết liệt cho một nền văn học tiến bộ”
[160 - 122]. Cũng trong thời gian này các nhà văn và các học giả nhƣ Đào Duy
Anh, Phan Khôi, Hoàng Cầm,Trƣơng Tửu tiếp tục nêu lên những ý kiến khẳng định
tƣ tƣởng và tài năng Vũ Trọng Phụng. Phan Khôi đánh giá Vũ Trọng Phụng là “nhà
tiểu thuyết hiện thực phê phán”.Trƣơng Chính trong bộ Lược thảo lịch sử văn học
Việt Nam (1957) tập III đã dành hẳn một phần để viết về Vũ Trọng Phụng, đánh giá
Vũ Trọng Phụng là một nhà văn hiếm có và “là một ngƣời có địa vị không ai tranh
dành đƣợc”. Còn Văn Tâm với cuốn chuyên luận Vũ Trọng Phụng - nhà văn hiện
thực đã có những nhận định sơ lƣợc về phƣơng diện nội dung và hình thức sáng tác
của Vũ Trọng Phụng. Văn Tâm khẳng định: “Vũ Trọng Phụng là nhà văn hiện thực
độc nhất của văn học cận đại biết hƣớng niềm tin vào tƣơng lai” [144 - 253] đồng
thời cũng phủ nhận những ý kiến mang tính chất quy chụp nặng nề của Nhất Chi
Mai, Thái Phỉ, Lan Khai về vấn đề cái dâm trong sáng tác của Vũ Trọng Phụng.
Đáng chú ý trong thời gian này là lời phát biểu của đồng chí Trƣờng Chinh tại Đại
hội văn nghệ toàn quốc lần thứ 2 (2/1957) “đối với một số tác phẩm có tính chất
hiện thực phê bình nhƣ những truyện, phóng sự của Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng,
Nam Cao…chúng ta có nhiệm vụ giữ gìn và phát triển tất cả các di sản văn nghệ”.
Đây là một trong những nhận định có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển văn
nghệ cũng nhƣ khẳng định vai trò quan trọng của một số cây bút hiện thực.
Nhìn một cách tổng thể, việc nghiên cứu về Vũ Trọng Phụng giai đoạn này
vẫn tiếp tục thu hút đƣợc sự quan tâm của các nhà nghiên cứu. Tuy chƣa có nhiều
công trình nghiên cứu chuyên sâu nhƣng đó cũng là tiền đề cơ sở để tiếp tục thúc
đẩy những xu hƣớng nghiên cứu mới.
Vào thời điểm những năm 1957 -1958 trở đi, trên miền Bắc nƣớc ta cuộc đấu
tranh chống Nhân Văn - Giai Phẩm trở nên quyết liệt, vấn đề đánh giá Vũ Trọng
Phụng mang mầu sắc chính trị, tác phẩm của ông bị cuốn vào một cơn lốc dữ dội,
có ý kiến phê phán gay gắt, thậm chí có ý kiến phủ nhận hoàn toàn sự nghiệp văn
học của Vũ Trọng Phụng. Một loạt các bài viết của ông Hoàng Văn Hoan,Vũ Đức
Phúc đã chĩa mũi nhọn phê phán, Vũ Trọng Phụng lập tức bị quy kết là phần tử nghi
16
vấn và độc hại. Trong một thời gian dài tác phẩm của ông bị cấm lƣu hành và giảng
dạy trong nhà trƣờng, còn tác giả của chúng thì bị quy kết một cách nặng nề là trốt
kít, phản động… Trong công trình Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam 1930 -1945,
nhóm Vũ Đức Phúc đã tỏ thái độ phê phán kịch liệt tác phẩm Vũ Trọng Phụng.
Hoàng Văn Hoan trong Một vài ý kiến về vấn đề tác phẩm Vũ Trọng Phụng trong
văn học Việt Nam cho rằng trong một vài tác phẩm của Vũ Trọng Phụng là “cả một
ý thức thừa nhận thú tính, cổ lệ, nhục dục” [70 -236]. Nhận định này của nhà nghiên
cứu có phần khắt khe và chƣa xác đáng.
Không đồng tình với cách tiếp cận đó, một số nhà văn đã công khai lên tiếng
hoặc gián tiếp ủng hộ và khẳng định Vũ Trọng Phụng. Nguyên Hồng, Nguyễn Công
Hoan, Bùi Huy Phồn vẫn giữ lập trƣờng kiên định của mình. Trên Tạp chí Văn học
số 3/1965, Nguyễn Đăng Mạnh có bài Chủ nghĩa tự nhiên trong sáng tác của Vũ
Trọng Phụng, trong chừng mực có thể, ông đã cố gắng tìm những đóng góp của Vũ
Trọng Phụng để cái nhìn về Vũ Trọng Phụng bớt gay gắt hơn. Vào năm 1966 -1967
tại Sài gòn Vũ Trọng Phụng đƣợc tổ chức kỷ niệm với sự tham gia của những nhà
văn nhƣ Vũ Bằng, Tam Lang, Phạm Thế Ngũ, Dƣơng Nghiễm Mậu... Dƣơng
Nghiễm Mậu, trong Tập san Văn số 67 ra ngày 1/10/1966 đã đánh giá cao văn
nghiệp của Vũ Trọng Phụng, cho rằng Vũ Trọng Phụng đã để lại cho chúng ta một
bức họa sâu sắc, đầy đủ hơn hết về tình trạng xã hội ấy. Phạm Thế Ngũ trong cuốn
Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (tập 3) nhấn mạnh những nhân vật xỏ lá, lƣu
manh của ông nhƣ Nghị Hách,Vạn Tóc Mai, Xuân Tóc Đỏ đã từ lâu trở thành những
chân dung bất hủ. Tác giả Nguyễn Trác ở công trình Lịch sử văn học Việt Nam tập V
(1930 -1945), sau khi giới thiệu tóm tắt bốn thiên phóng sự của Vũ Trọng Phụng tác
giả đã nhắc lại đánh giá những tác phẩm trên đã đƣa Vũ Trọng Phụng lên hàng “Ông
vua phóng sự đất Bắc”. Thế Phong trong Lược sử văn nghệ Việt Nam - Nhà văn tiền
chiến 1930 – 1945, sau khi phân tích khuynh hƣớng trong hai tác phẩm Giông tố và
Số đỏ đã coi Vũ Trọng Phụng là nhà văn xã hội vào bậc nhất trong lịch sử văn học
Việt Nam ở tiền chiến: “Đọc văn ông, hình nhƣ có một sức quyến rũ vô hình, hấp
dẫn, say mê ngƣời đọc để rồi sau đó muốn phá đổ những bất công của xã hội thối nát
đi” [122 - 400]. Các nhà nghiên cứu Đào Duy Anh,Trƣơng Tửu, Nguyễn Hoành
Khung đầu những năm 80 vẫn tiếp tục tìm tòi, chỉ ra những đóng góp của Vũ Trọng
Phụng và phần nào tháo gỡ đƣợc những kết án nặng nề cho Vũ Trọng Phụng.
17
- Xem thêm -