VAI TRÒ CỦA XHTD TRONG QUẢN TRỊ RỦI RO
VÀ KIỂM SOÁT NỢ XẤU CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM
Nguyễn Xuân Bắc
Phó trưởng Phòng Thẩm định Dự án và Xử lý nợ
Vụ Tín dụng -Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Trong kinh doanh, hoạt động tín dụng là nghiệp vụ cơ bản, sinh lời chủ
yếu cho ngân hàng thương mại (NHTM). Tuy nhiên, hoạt động tín dụng cũng
chứa đựng hầu hết các rủi ro nghiêm trọng, gây tổn thất lớn cho ngân hàng.
Thực hiện quản lý rủi ro nhất là rủi ro tín dụng nhằm đảm bảo an toàn và nâng
cao chất lượng tín dụng là yêu cầu khách quan, quan trọng hàng đầu để ổn định
và phát triển của các NHTM.
Xếp hạng tín dụng (XHTD) là một trong những công cụ quản lý rủi ro tín
dụng khoa học và hiệu quả mà các NHTM đang triển khai áp dụng. Tuy nhiên,
các chỉ tiêu cơ bản trong chấm điểm và XHTD khách hàng hiện nay của một số
NHTM vẫn còn hạn chế, không phù hợp với chuẩn mực quốc tế và tình hình
thực tế Việt Nam nên kết quả xếp hạng chưa phản ánh đúng tình hình khách
hàng, làm cho công tác quản trị điều hành trong hoạt động tín dụng, quản lý rủi
ro tín dụng gặp nhiều khó khăn.
Do vậy, xây dựng và hoàn thiện hệ thống XHTD phù hợp với chuẩn mực
quốc tế và thực tiễn Việt Nam là rất cần thiết và đang được Ngân hàng Nhà
nước (NHNN), các NHTM triển khai thực hiện nhằm ngăn ngừa và hạn chế rủi
ro tín dụng, giảm tỷ lệ nợ xấu trong hệ thống ngân hàng.
I. TỔNG QUAN VỀ XẾP HẠNG TÍN DỤNG
1. Khái niệm xếp hạng tín dụng
Xếp hạng tín dụng khách hàng vay vốn của NHTM là việc NHTM sử
dụng hệ thống XHTD nội bộ của mình để đánh giá khả năng trả nợ của khách
hàng vay, mức độ rủi ro của khoản vay, làm cơ sở để đưa ra quyết định cấp tín
dụng, quản lý rủi ro, xây dựng chính sách khách hàng phù hợp đối với từng đối
tượng khách hàng theo kết quả xếp hạng.
Ngoài ra, xếp hạng tín dụng khách hàng còn nhằm mục đích phân loại và
giám sát danh mục tín dụng. Việc phân loại và xếp hạng tín dụng được thực hiện
cho tất cả các khách hàng và được tiến hành định kỳ; cũng như khi xuất hiện
những dấu hiện suy giảm khả năng thực hiện các nghĩa vụ tài chính của khách
hàng.
2. Sự cần thiết phải XHTD trong hoạt động tín dụng ngân hàng
Rủi ro tín dụng và hậu quả của nó luôn được các ngân hàng quan tâm
hàng đầu. Các ngân hàng luôn mong muốn đo lường được rủi ro và đưa ra các
giải pháp kiểm soát. Công tác XHTD có vai trò quan trọng trong việc phân tích,
đánh giá khách hàng cả trước và sau khi cấp tín dụng.
1
- Khi khách hàng đề nghị vay vốn, ngân hàng dựa trên nguồn thông tin thu
thập được về khách hàng, thực hiện phân tích các yếu tố định tính, định lượng để
đo lường khả năng trả nợ và thiện chí trả nợ của khách hàng. Số liệu phân tích là
cơ sở để XHTD các khách hàng và kết quả xếp hạng là một trong các căn cứ
quan trọng để đưa ra quyết định cho vay hay từ chối cho vay. Đồng thời, dựa
vào mức xếp hạng để áp dụng các chính sách tín dụng thích hợp.
- Sau khi cấp tín dụng, định kỳ ngân hàng phải tiến hành phân tích khả
năng trả nợ gốc và lãi của khách hàng về các khoản đã cho vay dựa trên nguồn
thông tin thu thập được từ khi cấp tiền vay đến thời điểm tái xếp hạng nhằm
đánh giá việc thực hiện các cam kết của khách hàng trong hợp đồng tín dụng,
chú trọng đến những vi phạm hợp đồng để đánh giá sự thay đổi rủi ro tín dụng
so với thời điểm ban đầu. Qua đó, điều chỉnh thứ hạng của khách hàng và đưa ra
các giải pháp, chính sách đối với khoản vay nhằm hạn chế rủi ro tín dụng.
- Ngân hàng cũng thực hiện xếp hạng tín dụng khách hàng không trả nợ
đúng hạn nhằm phân tích rủi ro tín dụng và đưa ra các biện pháp giảm tổn thất
cho ngân hàng.
3. Vai trò của xếp hạng tín dụng
3.1. Đối với thị trường tài chính
Ngày nay hầu hết những thị trường chứng khoán của các nước trên thế
giới đều tồn tại các tổ chức XHTD, đây là xu thế phù hợp với điều kiện kinh tế
thế giới hiện nay, vì kết quả XHTD là một nguồn cung cấp thông tin cho những
nhà đầu tư, nhằm xóa đi khoảng tối thông tin giữa người cho vay và người đi
vay. Vai trò quan trọng của XHTD trên thị trường tài chính là:
- Các nhà đầu tư sử dụng kết quả XHTD để thực hiện chiến lược đầu tư
sao cho rủi ro thấp nhất nhưng kết quả đạt được như mong muốn;
- Các tổ chức cần huy động vốn sử dụng kết quả XHTD để tạo niềm tin
với nhà đầu tư, từ đó thực hiện được chiến lược huy động vốn với chi phí thấp,
huy động lượng vốn như mong muốn;
- Thông qua XHTD, các tổ chức sử dụng kết quả XHTD để quảng bá hình
ảnh của mình, cung cấp thông tin cho các đối tác, tạo niềm tin của thị trường.
3.2. Đối với doanh nghiệp được xếp hạng
- Giúp các doanh nghiệp biết được sự đánh giá khách quan của cơ quan
bên ngoài về khả năng tài chính và tình hình hoạt động của doanh nghiệp;
- Tạo thuận lợi cho doanh nghiệp trong việc tiếp cận các nguồn vốn đầu tư
trong và ngoài nước;
- Các doanh nghiệp thông qua kết quả XHTD để quảng bá hình ảnh của
mình, đặc biệt đối với những doanh nghiệp làm ăn hiệu quả, được đánh giá, xếp
hạng cao bởi những cơ quan xếp hạng có uy tín;
2
- Giúp các doanh nghiệp xây dựng chiến lược phát triển của mình, xây
dựng cơ cấu tài chính, chính sách đầu tư thích hợp để đạt đến các mục tiêu đề ra.
3.3. Đối với ngân hàng thương mại
a) Cơ sở để lựa chọn khách hàng cho vay
Trong kinh tế thị trường, sự cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng yêu
cầu các quyết định tín dụng phải vừa nhanh, vừa có độ rủi ro thấp, vừa có hiệu
quả cao. Nếu không sẽ dễ mất đi cơ hội tăng thu nhập và mở rộng quy mô tín
dụng do khách hàng tìm đến ngân hàng khác hoặc tìm nguồn tài trợ ngoài ngân
hàng. Muốn có quyết định nhanh và chính xác, ngân hàng phải dự đoán tương
đối chính xác về khả năng và thiện chí trả nợ của khách hàng. Điều này phụ
thuộc vào yếu tố quan trọng là hệ thống thông tin của ngân hàng về khách hàng
trong quá khứ và hiện tại. Yêu cầu đặt ra là ngân hàng phải có hệ thống thông tin
đáng tin cậy và thực hiện tốt công tác XHTD nhằm tạo cơ sở cho việc đưa ra các
quyết định tín dụng tối ưu.
Thông qua kết quả XHTD khách hàng, ngân hàng sẽ đánh giá được mức
độ tín nhiệm của từng khách hàng vay vốn, xác định được mức độ rủi ro khi
cung cấp khoản vay, khả năng trả nợ vay. Dựa vào kết quả XHTD ngân hàng sẽ
quyết định cho vay hay từ chối cho vay đảm bảo tính khách quan, khoa học.
b) Cơ sở để xây dựng chính sách khách hàng và chính sách tín dụng
Trên cơ sở XHTD, ngân hàng sẽ phân loại khách hàng và áp dụng chính
sách khách hàng về lãi suất cho vay, hạn mức, thời hạn tín dụng phù hợp. Đồng
thời, cũng xây dựng chính sách tín dụng, áp dụng kỹ thuật cho vay tương ứng
với mỗi loại khách hàng. Đối với khách hàng có độ tín nhiệm cao, XHTD tốt,
ngân hàng sẽ áp dụng chính sách ưu đãi: cho vay với lãi suất thấp, giá trị khoản
vay lớn, điều kiện cho vay nới lỏng hơn,…Ngược lại, đối với khách hàng có độ
tín nhiệm thấp, XHTD thấp cũng đồng nghĩa với những khoản tín dụng hàm
chứa nhiều rủi ro, ngân hàng sẽ áp dụng chính sách cho vay và biện pháp kiểm
soát chặt chẽ hơn, nhằm hạn chế khả năng rủi ro tín dụng xảy ra.
c) Cơ sở để xây dựng danh mục tín dụng
Dựa vào kết quả XHTD ngân hàng sẽ đánh giá được mức độ rủi ro của
từng doanh nghiệp, từng lĩnh vực hoạt động kinh doanh của khách hàng từ đó
xây dựng danh mục tín dụng phù hợp theo định hướng của ngân hàng trong từng
thời kỳ.
d) Cơ sở để phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro
Theo Điều 4 Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của
Ngân hàng Nhà nước thì các TCTD phải xây dựng hệ thống XHTD nội bộ để hỗ
trợ cho việc phân loại nợ, quản lý chất lượng tín dụng phù hợp với phạm vi hoạt
động, tình hình thực tế của TCTD. Việc hỗ trợ của hệ thống XHTD nội bộ được
thể hiện ở chỗ kết quả XHTD khách hàng của hệ thống XHTD nội bộ sẽ làm căn
3
cứ để tính toán và trích lập dự phòng rủi ro theo quy định tại Điều 7 Quyết định
493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005.
Hàng năm TCTD phải đánh giá lại hệ thống XHTD nội bộ và chính sách
dự phòng rủi ro cho phù hợp với tình hình thực tế và các quy định của pháp luật.
II. TÌNH HÌNH XẾP HẠNG TÍN DỤNG TẠI VIỆT NAM
Ở Việt Nam, XHTD vẫn còn rất mới mẻ và hoạt động này mới ở bước
khởi đầu. Các tổ chức thực hiện XHTD ở Việt Nam hiện nay là Trung tâm
Thông tin Tín dụng của Ngân hàng Nhà nước (CIC), các doanh nghiệp kinh
doanh thông tin tín nhiệm và các ngân hàng thương mại.
1. Trung tâm Thông tin Tín dụng
Trong những năm đầu tiên do không đầy đủ và không cập nhật nên ý
nghĩa của các thông tin do CIC cung cấp để phục vụ cho hoạt động phòng ngừa
rủi ro tín dụng không cao. Hiện nay thông tin do CIC cung cấp đã đầy đủ hơn,
bao gồm thông tin phân tích tài chính, số ngân hàng quan hệ, dư nợ, tình trạng
nợ, cảnh báo tín dụng đã phần nào đáp ứng được yêu cầu của các TCTD.
Việc xếp hạng tín dụng khách hàng của CIC tại Việt Nam trong thời gian
vừa qua có thể chia thành các giai đoạn theo thời gian như sau :
- Ngày 29/01/2002, Thống đốc NHNN đã ban hành Quyết định số
57/2002/QĐ-NHNN về việc triển khai thí điểm đề án phân tích, xếp loại tín
dụng doanh nghiệp, thời gian thí điểm là 2 năm.
- Ngày 28/04/2004, Thống đốc NHNN đã ban hành Quyết định số
473/2004/QĐ-NHNN về triển khai đề án phân tích, xếp loại tín dụng doanh
nghiệp.
- Ngày 21/06/2006, Thống đốc NHNN đã ban hành Quyết định số
1253/2006/QĐ-NHNN cho phép CIC thực hiện nghiệp vụ phân tích, XHTD
doanh nghiệp nhằm mục đích tăng cường công tác quản lý rủi ro tín dụng trong
hệ thống ngân hàng và đánh giá năng lực của các doanh nghiệp.
Đối tượng phân tích, xếp loại tín dụng là doanh nghiệp thuộc mọi thành
phần kinh tế bao gồm doanh nghiệp nhà nước, công ty trách nhiệm hữu hạn,
công ty cổ phần, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân,…
Các sản phẩm, dịch vụ của CIC là một kênh thông tin hữu ích, đóng góp
tích cực trong công tác quản lý của NHNN cũng như bảo đảm hoạt động kinh
doanh tín dụng an toàn, hiệu quả, góp phần vào việc ổn định hệ thống ngân
hàng.
Theo CIC, CIC đã ký kết hợp đồng cung cấp thông tin với trên 1000 tổ
chức tín dụng, chi nhánh tổ chức tín dụng và các tổ chức khác có hoạt động ngân
hàng với trên 9.300 người sử dụng. Tình hình cung cấp thông tin của CIC qua
các năm như sau:
4
Cung cấp thông tin của CIC qua các năm
Đơn vị: Hồ sơ khách hàng
Nguồn: CIC
Với quy mô kho dữ liệu lớn, được thiết kế và xây dựng trên nền công
nghệ tin học hiện đại, thông tin được kiểm soát chất lượng đầu vào và bổ sung từ
nhiều nguồn khác nhau trong và ngoài nước, hệ thống thông tin tín dụng của
CIC là kênh thông tin hữu ích cho hoạt động quản lý của NHNN; hỗ trợ cho việc
chấm điểm, xếp hạng tín dụng nội bộ khách hàng vay của các tổ chức tín dụng.
2. Xếp hạng tín dụng của các ngân hàng thương mại
Hệ thống XHTD là công cụ quan trọng để tăng cường tính khách quan,
nâng cao chất lượng và hiệu quả tín dụng của các NHTM.
Hiện nay nhìn chung các NHTM đều đã xây dựng hệ thống XHTD để
phục vụ nội bộ cho công tác quản lý rủi ro tín dụng và chính sách khách hàng.
Mỗi NHTM đều có kinh nghiệm, điều kiện kinh doanh riêng biệt nên hệ thống
XHTD sẽ có những đặc trưng khác nhau về tiêu chí đánh giá, điểm số xếp hạng.
Các NHTM tự xây dựng hệ thống XHTD nội bộ phù hợp với đặc thù riêng và
tuân thủ theo các quy định của NHNN tại Điều 4 Quyết định số 493/2005/QĐNHNN ngày 22/4/2005, trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm các tổ chức trong
nước và quốc tế. Nhìn chung, các chỉ tiêu tài chính trong hệ thống xếp hạng của
các NHTM tương đối giống nhau, nhưng các chỉ tiêu phi tài chính thì có sự khác
biệt lớn. Tại các NHTM, hệ thống XHTD mang những tên gọi khác nhau do
XHTD chỉ là một phần trong tác nghiệp phân tích, thẩm định đánh giá khách
hàng.
5
Tuy nhiên, mức độ sử dụng XHTD trong việc quản lý rủi ro tín dụng ở
mỗi ngân hàng là khác nhau. Đối với những ngân hàng lớn, việc XHTD khách
hàng được dùng làm cơ sở để quyết định giới hạn tín dụng; giúp ngân hàng nâng
cao chất lượng cấp tín dụng và tăng cường hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng.
Đồng thời, cũng mang lại nhiều lợi ích cho khách hàng. Đối với khách hàng xếp
loại tốt có thể được áp dụng các ưu đãi về tín dụng như điều kiện vay được nới
lỏng, giảm lãi suất,…còn đối với các khách hàng có xếp hạng tín nhiệm thấp thì
cần phải phấn đấu nâng cao hiệu quả hoạt động đáp ứng yêu cầu ngày càng cao
về quản trị rủi ro của các ngân hàng.
3. Những mặt còn hạn chế đối với công tác XHTD tại Việt Nam
3.1. Hệ thống cung cấp thông tin còn thiếu
Hiện nay, ở Việt Nam thông tin về doanh nghiệp và ngân hàng còn thiếu.
Trung tâm thông tin tín dụng của NHNN đã không ngừng đổi mới và nâng cao
chất lượng hoạt động; đã đạt được những kết quả rất đáng khích lệ trong việc
cung cấp thông tin về tình hình hoạt động tín dụng, nhưng chất lượng thông tin
cung cấp chưa hoàn toàn đáp ứng được yêu cầu tra cứu thông tin của các
NHTM. Việc thiếu thông tin về doanh nghiệp cũng là thách thức cho hệ thống
ngân hàng trong việc mở rộng và kiểm soát tín dụng cho nền kinh tế. Nếu các
ngân hàng cố gắng chạy theo thành tích, mở rộng tín dụng trong điều kiện môi
trường thông tin không đầy đủ, thiếu chính xác về khách hàng thì nguy cơ nợ
xấu cho hệ thống ngân hàng có thể gia tăng.
3.2. Quy trình xếp hạng chưa rõ ràng
Hệ thống xếp hạng của các NHTM chỉ đưa ra các hướng dẫn về cách tính
các chỉ tiêu, hạng tín nhiệm mà khách hàng đạt được tương ứng với điểm số
nhưng lại chưa đưa ra quy trình đầy đủ cho việc xếp hạng bao gồm các bước tiến
hành, bắt đầu từ đâu, khi nào kết thúc, ai sẽ chịu trách nhiệm ở mỗi bước thực
hiện.
Thực tế cho thấy việc XHTD khách hàng tại các NHTM phần lớn là do
cán bộ tín dụng thực hiện, do vậy kết quả xếp hạng phụ thuộc nhiều vào ý kiến
chủ quan của cán bộ tín dụng, có thể không thực sự chính xác, khách quan.
4. Nguyên nhân của những hạn chế
4.1. Nguyên nhân khách quan
a) Thông tin phục vụ cho xếp hạng không đầy đủ
Khi XHTD khách hàng thì nguồn thông tin duy nhất mà ngân hàng có
được là dựa trên các báo cáo tài chính của doanh nghiệp gửi đến ngân hàng. Tuy
nhiên, để XHTD khách hàng được đầy đủ, phản ánh chính xác tình hình doanh
nghiệp thì nguồn thông tin từ báo cáo tài chính chưa đủ, đòi hỏi phải có nhiều
nguồn thông tin khác như từ các cơ quan thuế, hải quan, thông tin quan hệ với
các TCTD, các thông tin về tranh chấp kinh tế ... nhưng những thông tin này rất
6
khó thu thập do không được cung cấp. Thông tin trên các báo cáo tài chính của
doanh nghiệp hiện nay cũng chưa thực sự đáng tin cậy, đặc biệt là các doanh
nghiệp có quy mô nhỏ vì vậy đã ảnh hưởng đến kết quả XHTD.
Chính nguồn thông tin để XHTD khách hàng còn hạn chế cả về số lượng
và chất lượng đã ảnh hưởng đến kết quả xếp hạng, kết quả xếp hạng sẽ không
phản ánh chính xác mức độ tín nhiệm của doanh nghiệp.
b) Thị trường chưa có nhiều tổ chức XHTD để có thể cung cấp kết
quả XHTD cho ngân hàng tham khảo
Trong quản trị rủi ro, NHTM chủ yếu sử dụng hệ thống XHTD nội bộ để
đánh giá khách hàng. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, NHTM cần tham
khảo thông tin XHTD được công bố của các NHTM và tổ chức XHTD độc lập,
nhất là đối với các khách hàng có quan hệ tín dụng với nhiều ngân hàng khác
nhau để xếp hạng, đồng thời có thể dùng làm cơ sở để so sánh kết quả xếp hạng
của ngân hàng. Tại thị trường Việt Nam hiện nay chưa có nhiều các tổ chức xếp
hạng tín dụng độc lập, cung cấp kết quả xếp hạng tín dụng cho thị trường.
4.2. Nguyên nhân chủ quan
a) Nhận thức về xếp hạng tín dụng chưa cao
Thời gian qua các TCTD đã đánh giá được tầm quan trọng của XHTD
trong việc quản lý rủi ro, góp phần giảm thiểu rủi ro trong hoạt động tín dụng.
Tuy nhiên, các chỉ tiêu cơ bản trong chấm điểm và xếp hạng khách hàng của các
NHTM chưa đầy đủ và còn nhiều hạn chế dẫn đến sàng lọc khách hàng chưa
hiệu quả, cần tiếp tục hoàn thiện, bổ sung trong thời gian tới nhằm phù hợp hơn
với điều kiện kinh tế xã hội đã thay đổi và các hiệp ước mà Việt Nam cam kết.
Mặt khác, khi ban hành hệ thống XHTD khách hàng, ban lãnh đạo của các
NHTM chưa đánh giá đúng lợi ích của hệ thống XHTD trong hoạt động tín dụng
đặc biệt là trong phòng ngừa và quản lý rủi ro tín dụng. Chính vì vậy nội dung
chủ yếu của quyết định này là phân loại khách hàng để thực hiện chính sách
khách hàng, biện pháp đối xử với từng khách hàng và nhóm khách hàng cho phù
hợp như chính sách lãi suất, chính sách đảm bảo tiền vay, chính sách dịch vụ,
vv...mà chưa quan tâm để nâng cao hiệu quả ngăn ngừa rủi ro cũng như đảm bảo
an toàn cho hoạt động của các NHTM.
b) Trình độ cán bộ làm công tác xếp hạng tín dụng chưa đồng đều
Việc XHTD khách hàng do cán bộ tín dụng thực hiện, ngoài các chỉ tiêu
tài chính còn có các chỉ tiêu phi tài chính là những chỉ tiêu phụ thuộc rất lớn vào
khả năng đánh giá, thu thập thông tin của người xếp hạng. Năng lực, trình độ,
kinh nghiệm của người xếp hạng sẽ quyết định chất lượng xếp hạng.
Hiện nay đội ngũ cán bộ tín dụng tại các NHTM không đồng đều, nhiều
cán bộ tín dụng còn mới, chưa có đủ kinh nghiệm mặc dù đều được đào tạo bài
bản tại các trường đại học.
7
c) Ngân hàng chưa có cơ sở dữ liệu riêng
Xếp hạng khách hàng đòi phải sử dụng thông tin nhiều thời điểm, nếu
không có cơ sở dữ liệu để lưu trữ thông tin khách hàng thì khi đánh giá sẽ gặp
nhiều khó khăn. Hiện nay các NHTM chưa có cơ sở dữ liệu riêng để phục vụ
cho việc đánh giá, xếp hạng khách hàng. Chính vì vậy, nguồn dữ liệu tại các
NHTM rất thiếu, chưa đáp ứng được yêu cầu cho việc đánh giá xếp hạng.
d) Kết quả XHTD chưa được ứng dụng trong quản lý rủi ro tín dụng
Hệ thống xếp hạng các NHTM đang áp dụng có tác dụng rất lớn trong
công tác quản lý và phòng ngừa rủi ro tín dụng, tuy nhiên vẫn còn hạn chế cả về
các chỉ tiêu trong hệ thống XHTD cũng như việc quản lý, thực thi hệ thống
XHTD. Hệ thống XHTD còn nhiều chỉ tiêu tính điểm không phù hợp và trong
một số trường hợp việc áp dụng XHTD vẫn chưa được thực thi nghiêm túc. Khi
muốn cho vay hoặc muốn che đậy tình trạng thực tế của khách hàng vay vốn,
thông thường các NHTM tìm cách tăng điểm XHTD cho khách hàng bằng cách
tập trung vào các chỉ tiêu tính điểm phi tài chính vì đây là các chỉ tiêu chịu ảnh
hưởng của nhiều yếu tố chủ quan, nhận định của người đánh giá.
Từ những hạn chế và phân tích nguyên nhân, trong phần tiếp theo bài viết
sẽ đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác XHTD tại Việt Nam.
III. KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CÔNG TÁC XẾP HẠNG TÍN DỤNG
1. Đối với Ngân hàng Nhà nước
1.1. Hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động XHTD
Để hoàn thiện hệ thống XHTD tại các NHTM, cần phải rà soát và ban
hành các văn bản quy định và hướng dẫn các tiêu chuẩn sử dụng trong XHTD.
Các chỉ tiêu đánh giá phải phù hợp với thông lệ quốc tế nhưng không xa rời điều
kiện thực tế ở Việt Nam. Đồng thời, phải vừa đảm bảo tính linh hoạt, có thể điều
chỉnh phù hợp với những biến động của điều kiện kinh doanh trong tương lai.
Kết quả XHTD phải tính đến những dự báo về nguy cơ vỡ nợ dẫn đến mất khả
năng thực hiện nghĩa vụ tài chính với ngân hàng. Các chỉ tiêu tài chính được
đánh giá theo hướng dẫn của NHNN nhằm thống nhất trên phạm vi cả nước, hơn
nữa, số liệu tính toán của NHNN được hồi quy trên phạm vi rộng từ nhiều nguồn
khác nhau sẽ sát với thực trạng các nhóm ngành, nghề hơn số liệu của từng
NHTM, khi có biến động thì NHNN sẽ xem xét điều chỉnh và các NHTM theo
đó để cập nhật lại.
Chính vì vậy, trong thời gian tới NHNN cần phải ban hành các văn bản
quy phạm pháp luật, hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động XHTD phát triển.
1.2. Nâng cao chất lượng thông tin tín dụng của CIC
Việc hình thành tổ chức XHTD chuyên nghiệp có vai trò rất lớn trong việc
minh bạch hoá thông tin nền kinh tế. Trên cơ sở kinh nghiệm của các nước phát
triển, Việt Nam cần phải xây dựng tổ chức XHTD, có uy tín để thực hiện đánh
8
giá tín nhiệm các doanh nghiệp một cách khách quan, tạo được niềm tin với
người sử dụng.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có lợi thế là được các ngân hàng thương
mại cung cấp các tài liệu, hồ sơ tài chính, pháp lý khách hàng vay vốn, tình hình
dư nợ và mức độ tín nhiệm trong quan hệ tín dụng cho nên có điều kiện để đánh
giá tín nhiệm khách hàng chính xác hơn.
Hiện nay, CIC thực hiện chức năng cung cấp thông tin tín nhiệm cho các
TCTD, doanh nghiệp và có thu phí, tuy nhiên nguồn thông tin mà CIC cung cấp
chưa đầy đủ và mức độ chính xác chưa cao. Để nâng cao chất lượng thông tin
mà CIC cung cấp cho các tổ chức, đòi hỏi CIC trong thời gian tới phải được cải
tiến nhiều theo hướng: Cung cấp thông tin nhanh chóng; Nguồn thông tin cập
nhật, chính xác.
1.3. Kiến nghị Chính phủ xây dựng kho dữ liệu về doanh nghiệp đầy
đủ, cập nhật, chính xác
Ở Việt Nam hệ thống cung cấp thông tin về doanh nghiệp phục vụ công
tác XHTD còn nhiều hạn chế. Rất khó có thể thu thập được thông tin về một
doanh nghiệp nào đó về các khía cạnh tình hình tài chính, kết quả hoạt động
kinh doanh, mức độ tín nhiệm với các tổ chức tín dụng …. Ngoại trừ những
doanh nghiệp đã được niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán thì hồ sơ tài
chính được công bố công khai ra bên ngoài.
Để minh bạch hoá thông tin kinh tế, tạo nguồn thông tin cung cấp công
khai cho các đối tượng có nhu cầu đòi hỏi Nhà nước phải xây dựng một hệ
thống cung cấp thông tin nhanh chóng, đầy đủ chính xác.
2. Đối với các Ngân hàng thương mại
2.1. Nâng cao nhận thức về XHTD
Các NHTM cần nâng cao nhận thức của các nhà quản trị và các cán bộ có
liên quan đến xếp hạng về vai trò của công cụ XHTD đối với phòng ngừa rủi ro
và thiết lập danh mục cho vay hiệu quả. Vận dụng công cụ XHTD kết hợp với
các biện pháp khác như tài sản bảo đảm an toàn, trích lập dự phòng rủi ro nhằm
quản trị rủi ro tín dụng một cách có hiệu quả.
2.2. Xây dựng hệ thống thông tin riêng của các NHTM
Xây dựng hệ thống thông tin quản trị rủi ro tín dụng đảm bảo cung cấp
thông tin một cách đầy đủ, chính xác, cập nhật thường xuyên để phục vụ cho
việc đánh giá, chấm điểm XHTD khách hàng. Cần thiết lập kênh trao đổi thông
tin giữa các ngân hàng trên cơ sở cạnh tranh nhưng hợp tác nhằm đạt mục tiêu
chung là ngăn ngừa và giảm thiểu rủi ro trong hoạt động tín dụng. Sử dụng tiến
bộ công nghệ tin học trong quản trị thông tin là một trong những yếu tố then
chốt để phát triển cơ sở dữ liệu khách hàng.
2.3. Tăng cường công tác giáo dục, đào tạo cán bộ
9
Nếu chỉ dựa vào các mô hình chấm điểm XHTD để đánh giá mức độ rủi
ro của người đi vay thì kết quả đạt được có thể vẫn cách xa với thực tế do sự
biến động của điều kiện kinh doanh, và không có phương pháp phân tích hay
một hệ thống phức tạp nào có thể hoàn toàn thay thế được kinh nghiệm cũng
như các đánh giá chuyên môn của các cán bộ tác nghiệp. Vì vậy, các NHTM cần
tăng cường đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn và kỹ năng phân tích, đánh
giá của đội ngũ cán bộ xếp hạng tín dụng.
2.4. Đẩy mạnh thực thi XHTD trong hoạt động tín dụng
Để quản lý rủi ro tín dụng có hiệu quả, các NHTM phải kiên quyết hơn
trong việc áp dụng và thực thi hệ thống XHTD khách hàng. Để thực hiện được
điều này các NHTM có thể thường xuyên kiểm tra việc áp dụng hệ thống XHTD
tại các chi nhánh trong hoạt động tín dụng, khi phát hiện ra những sai phạm phải
kiên quyết xử lý. Tăng cường công tác kiểm tra khách hàng, thu thập thông tin
kịp thời về các biến động của khách hàng nhằm điều chỉnh chính sách tín dụng
một cách hợp lý.
KẾT LUẬN
XHTD là đánh giá mức độ rủi ro của người vay, khả năng trả nợ trong
tương lai của người đi vay. Hệ thống xếp hạng tín dụng là công cụ quan trọng để
tăng cường tính khách quan, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động tín
dụng.
Với mục tiêu hoàn thiện công tác xếp hạng tín dụng, bài viết đã đánh giá
vai trò của XHTD trong việc phân tích tình hình hoạt động, khả năng tài chính,
mức độ tín nhiệm khách hàng, để từ đó nâng cao hơn nữa chất lượng công tác
quản trị rủi ro tín dụng, xây dựng chính sách khách hàng phù hợp của các
NHTM. Trong điều kiện môi trường kinh doanh biến động nhanh chóng như
hiện nay, công tác XHTD nói chung và chấm điểm khách hàng nói riêng chắc
chắn sẽ ngày càng được các NHTM quan tâm hoàn thiện nhằm góp phần giảm
thiểu rủi ro trong kinh doanh, nâng cao chất lượng tín dụng và kiểm soát nợ xấu
cho ngân hàng./.
10
- Xem thêm -