Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Đại cương Văn học việt nam từ đầu thế kỷ xx đến 1945...

Tài liệu Văn học việt nam từ đầu thế kỷ xx đến 1945

.PDF
231
110
86

Mô tả:

BỌ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGÂN MOET D ự ÁN PHÁT TRIẺN GIÁO VIÊN THPT & TCCN - TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH ĐINH TRÍ DŨNG (chủ biên) NGÔ THỊ QUỲNH NGA VĂN HỌC VIỆT NAM Tự M U THẾ KỶ XX ĐẾN 1 (LƯU HÀNH NỘI Bộ) 09 609 BỌ GIÁO DỤC V À ĐÀO TẠO NGÀN HÀNG PHÁT TRỊẾN CHÂJ Á MOET ADB D ự ÁN PHÁT TRIỀN GIÁO VIÊN THPT & TCCN - TRƯỜNG ĐẠI HỌC/INH ĐINH TRÍ DŨNG (chủ biên) NGỔ THỊ QUỲNH NGA VÒN HỌC V llT n am t • w VẦU THẾ KỶ XX ĐẾN 1945 (LƯU HÀNH NỘI BỌ) HÀ NỘI - 20 Và- 3 Vãn học Việt N am từ đầu thế kỷ X X đến 1945 M Ụ C LỤC Trang Lời nói đầu......................................................................................................................5 PHẦN THỨ NHẤT: KHÁI QUÁT VỀ VĂN HỌC VIỆT NAM TỪ ĐẦƯ THẾ KỶ XX ĐẾN 1945........................................................................................................ 7 Chương 1. Bối cảnh lịch sử-xã hội-văn hóa, quá trình vận động, đặc điểm và thành tựu của văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến 1945 (Đinh Trí D ũng ..............................................................................................................9 Chương 2. Ba trào lưu văn học chủ yếu: văn học lãng mạn, văn học hiện thực phê phán, văn học cách mạng vô sản (Đinh Trí D ũng).........................................29 PHẦN THỬ HAI: VĂN HỌC VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỪĐẦƯ TK XX ĐẾN 1930......................................................................................................57 Chương 3. Phan Bội Châu (Ngô Thị Quỳnh N ga)................................................. 59 Chương 4. Tản Đà (Ngô Thị Quỳnh Nga)................................................................81 Chương 5. Hồ Biểu Chánh (Ngô Thị Quỳnh Nga)..................................................93 PHẦN THỨ BA: VĂN HỌC VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỪ 1930 ĐẾN 1945..................................................................................................105 Chương 6. Xuân Diệu (Đinh Trí Dũng)................................................................ 107 Chương 7. Thạch Lam (Đinh Trí Dũng)................................................................119 Chương 8. Nguyễn Tuân (Đinh Trí D ũng)........................................................... 129 Chương 9. Nguyễn Công Hoan (Đinh Trí Dũng)................................................ ỉ 35 Chương 10. Vũ Trọng Phụng (Đinh Trí D ũng)....................................................147 r 4_______________________________Văn học Việt Nam từ dầu thế kỷ XX đến 1945 Chương 11. Nam Cao (Đinh Trí Dũng)................................................................. 167 Chương 12. Nguyên Hồng (Đỉnh Trí D ũng)........................................................ ỉ 87 Chương 13. Nhật ký trong tù của Chủ tịch Hồ Chi Minh (Đỉnh Trí D ũng)........................................................................................................ì 97 Chương 14. Tập thơ Từ ẩy của Tố Hữu (Đinh Trí D ũng)...................................219 Văn học V iệt Nam từ đầu thế kỷ X X dến 1945 5 LỜ I NÓI ĐẲU Theo chủ trương của Bộ Giáo dục và Đào tạo, các trường đại học nói chung, các trường đại học sư phạm nói riêng đã chuyến từ phương thức đào tạo theo niên chế sang đào tạo theo tín chỉ. Phương thức đào tạo mới này có tính mềm dẻo, linh hoạt, đâ tạo điều kiện cho sinh viên có thể tự lựa chọn thời gian, lịch trinh... học tập phù họp với bản thân. Tuy nhiên, đào tạo theo tín chỉ cũng đòi hỏi cao ở sinh viên khả năng tự học, tự nshiên cứu. Sau khi chuyển đổi sang phương thức đào tạo mới, các trường đại học đã tiến hành xây dựng lại chương trình, viết lại giáo trình. Trong chương trình ngữ văn đại học sư phạm hiện nay, phần văn học Việt Nam hiện đại từ đầu thế kỷ XX đến 1945 được chia làm một hoặc hai học phần (từ đầu thế kỷ XX đến 1930 và từ 1930-1945). Giáo trình này, trên quan điểm mới về phân kỳ văn học, chủ trương từ đầu thế kỷ XX đến 1945 là một thời kỳ văn học. Vì vậy, chúng tôi cổ gắng trình bày những đặc điểm chung của văn học thời kỳ này trong một cái nhìn hệ thống, xuyên suốt, tuy nhiên, cũng không bỏ qua đặc điểm riêng của văn học từng giai đoạn; giai đoạn giao thời 1900-1930 và giai đoạn 1930-1945. Trong quá trinh biên soạn, các tác giả cỏ tham khảo một số giáo trình trước đây viết về văn học thời kỳ này, đồng thời cũng tiếp thu những thành tựu mới trong nghiên cứu lịch sử văn học Việt Nam từ đầu thể kỷ X X đến 1945, thể hiện tinh thần đổi mới trên cơ sở khoa học. Tuy nhiên, vì hướng tới phục vụ đào tạo theo tín chỉ, chúng tôi chủ trương trình bày các kiến thức một cách hệ thống, tinh giản, chú ý những vấn đề trọng tâm. M ỗi chương của giáo trình, ngoài phần nội dung, có thêm phần yêu cầu cần đạt và phần hướng đẫn học tập, trong đó có giới thiệu các tài liệu tham khảo chính, các câu hỏi, bài tập thực hành, tự nghiên cửu. Các tài liệu tham khảo được sắp xếp theo thứ tự: các giáo trình, các sách chuyên khảo, các sách đọc thêm. Phần câu hỏi, bài tập 6 Văn học V iệt N am từ đầu thế kỷ X X đến 1945 thực hành, tự nghiên cứu chỉ nên xem là những gợi ý, người dạy có thể thêm bớt, thay đối cho phù hợp với tình hình thực tế. Giáo trình có cấu trúc gồm ba phần lớn. Phần thứ nhất: Khải quát chung về về vấn học Việt Nam từ đầu thế kỷ X X đến 1945. Ở phần này, ngoài chương đầu giới thiệu chung về bối cảnh lịch sử-xằ hội- văn hóa, quá trình vận động, đặc điểm và thành tựu của văn học Việt Nam từ đầu thế kv XX đến 1945, chúng tôi trình bày thêm chương hai: Ba trào hru văn học chủ yếu: vồn học lãng mạn, văn học hiện thực phê phán, vồn học cách mạng vô sản. Việc giới thiệu chung cả ba trào lưu văn học trong một chương m à không tách thành ba chương riêng rẽ như một số cuốn giáo trình trước đây là vừa nhằm tinh giản kiến thức, vừa để người học có cái nhìn đổi sánh cần thiết. Phần thứ hai: Văn học Việt N am giai đoạn từ đầu thế kỷ X X đến 1930, chúng tôi trình bày ba tác giả tiêu biểu: Phan Bội Châu (khuynh hướng văn học yêu nước, cách mạng cùa các nhà nho duy tân), Tản Đà (m ở đầu cho khuynh hưởng lãng mạn), Hồ Biểu Chánh (m ở đầu cho khuynh hướng hiện thực). Phần thứ ba: Vân học Việt Nam giai đoạn (ừ ỉ 930 đến Ị 945, chúng tôi chọn các hiên tượng, các tác gia tiêu biểu của ba trào lưu văn học: văn học lãng mạn, văn học hiện thực phê phán, văn học cách mạng vô sản. G iáo trình Văn học Việt Nam hiện đại (từ đầu thế kỷ XX đến 1945) cố gắng kế thừa những ưu điểm của các giáo trình viết về văn học thời kỳ này trước đó. Tuy nhiên, với mục tiêu phục vụ cho việc đào tạo giáo viên trung học phổ thông theo phương thức tín chỉ, giáo trình có định hướng và cách trình bày riêng. Trong quá trình biên soạn, các tác già đã có rất nhiều cố gắng, tuy nhiên không thể nào tránh khỏi những sai sót nhất định. M ong nhận được sự góp ý, bổ sung của các giảng viên và sinh viên sử dụng giáo trình, để các tác giả có thể sửa chữa, nâng cao chất lượng trong những lần in sau. CÁC TÁC GIẢ Vân học V iệt N am từ dầu thế kỷ X X đến 1945 PHÀN TH Ú NHẤT KHÁI QUÁT VÈ VĂN HỌC VIỆT NAM TỪ m a ĐÀU THÉ KỶ XX ĐÉN CÁCH MẠNG THÁNG 8 NĂM 1945 8 Văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến 1945 Văn học Việt Nam từ dầu thế kỷ X X đến 1945 9 Chương 1 BÓI CẢNII LỊCH s ử - XÃ H ộ ĩ - VĂN HÓA, QUÁ TRÌNH VẬN ĐỘNG, ĐẶC ĐIẺM VÀ THÀNH Tựu CỦA VĂN HỌC VĨỆT NAM T Ừ ĐẦU TH Ế KỶ XX ĐẺN 1945 A. YÊU CẦU CẢN ĐẠT « - Nắm được bối cảnh lịch sử, xã hội, văn hóa tư tưởng đầu thế kỷ XX đến 1945, những tác động của bối cành ấy đển sự hình thành, phát triển của văn học. - Các chặng đường của hiện đại hóa văn học, thành tựu chủ yếu của mỗi giai đoạn, mỗi trào lưu văn học. - Những đặc điểm cơ bản của văn học aiai đoạn đầu thế kỷ XX đến 1945. - Đánh giá được vị trí cùa thời kỳ văn học này trong lịch sử vãn học dân B. NỘI DUNG I, BÓI CẢNH LỊCH s ử , XÃ HỘI, VẢN HÓA 1. Sự khủng hoảng đtròng lối cứu nưóc nhũng th ập kỷ đầu thế kỉ XX và sự ra đòi của Đ ảng cộng sản Đông Dương năm 1930 Ở Việt Nam, xã hội phong kiến tồn tại trong suốt 10 thế kỷ. Bước vào đầu thế kỷ XX, sau hai mươi năm đốc sức đánh dẹp các phong trào yêu nước, tổ chức bộ máy cai trị, thực dân Pháp cơ bản đã làm xong công việc bình định. Xã hội Việt Nam đã chuyển sane; một hình thái mới: xã hội thực dân nửa phong kiến. Đông Dương trở thành nơi bọn thực dân vơ vét tài nguyên và bóc lột nhân công rè mạt. Các tầng lớp nhân dân sống vô cùng khổ cực, tăm tối. Đầu thế kỉ XX, ở Việt Nam xuất hiện nhiều phong trào giải phóng dân tộc với những con đường khác nhau: Con đường duy tân kết hợp với bạo động vũ trang của Phan Bội Châu; Con đường cải lương của Phan Châu Trinh; Con 10 Văn học V iệt N am từ đầu thế kỷ X X đ ến 1945 đường cách mạng tư sản của Việt Nam quốc dân đảng của Nguyễn Thái Học. Các phong trào giải phóng dân tộc này cuối cùng đều bế tắc và thất bại. Xã hội đang khủng hoảng về đường lối cứu nước. Hiện thực lịch sử này đã đẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1930. Sự ra đời của Đảng đã đáp ứng những đòi hỏi của cuộc sổng, tác động mạnh mẽ đến phong trào đấu tranh giai cấp. Sự ra đời của Đảng là bước ngoặt lịch sử, chấm dứt những bế tắc trong đường lối lãnh đạo, đồng thời cũng tác động mạnh đến đời sống văn học, làm xuất hiện trào lưu văn học cách mạng vô sản. 2. Biến động trong kết cấu xã hội và sự tác động đến đời sống văn học Cùng với bước chân xâm lược của thực dân Pháp, cơ cấu giai cấp trong xã hội Việt Nam đã cố những thay đổi rất lớn. Nhiều giai cấp mới xuất hiện và vị trí xã hội của các giai cấp cũng có sự thay đổi. Đến thời kì 1930 - 1945, sự phân hoá giai cấp càng trở nên rõ rệt, sâu sắc hơn. Tất cả các giai cấp đều có ý thức sử dụng văn học làm vũ khí đấu tranh. Xã hội phong kiến tồn tại hai giai cấp chính: địa chủ phong kiến và nông dân. Trong đó, giai cấp địa chù phong kiến nắm giữ về ruộng đất, giai cấp nông dân là những người lao động làm thuê, nộp tô thuế. Thời kỳ thực dân nửa phong kiến, hai giai cấp này vẫn tồn tại. Tuy nhiên, giai cấp địa chủ phong kiến đến lúc này đã mất vai trò lịch sử, trở thành tay sai của để quốc. Do đó, chúng đã trở thành đối tượng đả kích của nhiều xu hướng, trào lưu văn học khác nhau. Văn học cách mạng coi phong kiến là kẻ thù: “Thực dân địa chủ một bầy/ Chúng là thú vật còn ta là người” ... Văn học hiện thực phê phán cũng hướng sự đả kích mãnh liệt vào bọn địa chủ phong kiến. Ngô Tất Tố miêu tả vợ chồng Nghị Quế với nhiều nét xấu xa, bỉ ổi, với cái nhìn khinh bỉ. Nhân vật Bá Kiến trong truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao điển hình cho tầng lóp địa chủ, cường hào ở nông thôn với bản chất xấu xa, độc ác, nham hiểm. Đ ịa chủ phong kiến còn xuất hiện trong văn học ỉãng mạn, nhưng chủ yếu bị đả kích ờ góc độ lễ giáo phong kiến (tiêu biểu là trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn). Giai cấp nông dân là giai cấp bị bóc lột nặng nề nhất. Họ trở thành mối quan tâm hàng đầu của vãn học giai đoạn này. Tiểu thuyết Tự lực văn đoàn, không thể làm ngơ trước thực trạng của nông dân, ít nhiều có sự cảm thông nhất định, nhưng cái nhìn của họ thường là cái nhìn của người bề trên thương xót kẻ dưới. Họ không thấu hiểu và không đủ sự cảm thông đối với người nông dân lao V ă n iọ c V iệt N am từ đầu thế kỷ X X đến 1945 11 độnj. Trong văn học hiện thực phê phán, các tác giả có sự đồng cảm sâu sắc, nhiềi lúc còn nhìn thấy vẻ đẹp của người nông dân, tuy nhiên không phải không có mững cái nhìn lệch lạc. Có thể nói văn học hiện thực đã để lại một khối lượng tác Ịhẩm xuất sắc viết về người nông dân lao động. Thời kỳ này xã hội xuất hiện thêm nhiều giai cấp mới. Giai cấp tư sản với số lrợng không nhiều. Tư sản Việt Nam nhìn chung nghèo nàn về kinh tế, lực lượig yếu ớt, tư tưởng chính trị mang tính chất cải lương, thoả hiệp với thực dân Phá). Tư sàn Việt Nam phần lớn là tư sản kiêm địa chủ, vừa kinh doanh ở thành phổ vừa mua ruộng đất ở nông thôn. Trong đời sống vãn học, giai cấp này cũng tạo a được tiếng nói của minh. Tiểu thuyết Tự lực văn đoàn thể hiện quan điểm cải ương về mặt xã hội của giai cấp tư sản. Văn học hiện thực phê phán Việt Nan viết rất ít về giai cấp tư sản. Tuy nhiên, có một nhà vãn hiện thực rất am hiểu viết rất sổng động về giai cấp này, đó là Vũ Trọng Phụng. Giai cấp công nhân ngay từ khi ra đời đã chịu ảnh hưởng của phong trào yêuiước chống thực dân. Cho đến những năm 20 của thế kỷ XX, giai cấp công nhâi được giác ngộ chủ nghĩa Mác - Lênin và trở thành giai cấp tiên phong lãnh đạoohong trào giải phóng dân tộc. Bộ phận văn học cách mạng vô sản (lưu hành bí nật) chính là tiếng nói của giai cấp này. Tuy nhiên, ở văn học công khai, hình ànhigười công nhân trong văn học dường như chưa tương xứng với địa vị xã hội của họ - Tiểu thuyết Lầm than của Lan Khai là tác phẩm đầu tiên viết về đề tài nguri công nhân. Ngay từ khi ra đời nó đã nhận được nhiều lời ca ngợi. Cuốn tiểuthuyết đã phản ánh được ít nhiều hiện thực đời sống của những người công nhâi hầm mỏ. Tuy nhiên, tác giả tỏ ra không am hiểu nhiều đời sổng người công nhâi, có chỗ nhấn mạnh quá đà cái nhếch nhác, bệ rạc của họ. Cùng với sự mở rộng của bộ máy cai trị, tầng lớp tiểu tư sản cũng ngày càn; đông thêm. Đây là tầng lóp xã hội có đời sống bấp bênh, thường xuyên bị đe iọa bởi thất nghiệp, phá sản, bởi thế nhìn chung họ có tinh thần cách mạng. Nhing họ cũng dễ dao động theo hoàn cảnh. Đây chính là tầng lớp có vai trò rất quai trọng đối với đời sống văn học công khai trước cách mạng. Họ vừa là tác giả.vừa là công chúng của nhiều xu hướng văn học khác nhau: phong trào Thơ m á văn học hiện thực phê phán, Tự lực văn đoàn... Một số tác giả của dòng vãn họccách mạng cũng xuất thân từ tầng lóp tiểu tư sản. 12 Vân học V iệt Nam từ đầu thế kỷ X X đến 1945 3. Tình hình văn hóa, tư tưởng Cuộc đấu tranh giai cấp quyết liệt cũng thể hiện trên lĩnh vực văn hoá. Các giai cấp đều có ý thức sử dụng văn hoá như một thứ vũ khí để bảo vệ quyền lợi cho giai cấp mình, v ề phía thực dân Pháp, chúng thực hiện chính sách ngu dân, hạn chê việc học hành, dẫn đến 90 % dân số Việt Nam trước cách mạng mù chữ. Chúng quản lí chặt chẽ báo chí, xuất bản, bóp nghẹt tự do ngôn luận. Chì có giai đoạn ngắn từ 1936 đến 1939, do áp lực của phong trào dân chủ nên không khí có dễ thở hơn. Bởi vậy, nhiều tiểu thuyết tiến bộ, đặc sắc, có tinh thần phê phán mãnh liệt đều ra đời trong thời gian này: s ố đỏ, Vỡ đê, Tắt đèn... Bên cạnh đỏ, thực đân Pháp còn triệt để sử dụng vũ khí văn hóa: cho ra đời hoặc dịch thuật nhiều tác phẩm chổng cộng, đề cao nho giáo, tuyên truyền mê tín dị đoan... Từ 1930 trở đi, văn hỏa tư sản, tiểu tư sản ở Đông Dương phát huy ảnh hường do giai cấp tư sản không còn làm cách mạng dân tộc mà chuyển sang đấu tranh băng văn hoá. Văn hoá tư sản, tiểu tư sản dựa trên việc đề cao chủ nghĩa cá nhân, hoạt động chủ yếu trên lĩnh vực văn hóa, văn học, rấí kém cõi trên lĩnh vực kĩ thuật. Văn hóa tư sản có tính chất hai mặt: mặt tích cực là đề cao cá nhân, chống lại ý thức hệ phong kiến, ít nhiều có tinh thần dân tộc. Nó cũng hướng đến mục tiêu xây dựng nền văn hoá hiện đại. Mặt hạn chế là chủ nghĩa cá nhân cực đoan, xa rời cuộc đấu tranh chính trị, đề cao sự hường thụ, đễ dẫn con người đến chỗ lạc hướng. Đảng ta ngày cảng ý thức sâu sắc vai trò của văn hoá. Từ 1936 đến 1939, trong bối cảnh thuận lợi, Đảng ta đã tăng cường tuyên truyền, phát huy ảnh hưởng của văn hoá vô sản qua dư luận, qua báo chí, sách vở. Từ năm 1940 trờ đi, văn hoá vô sản ngày càng lan rộng, trước hết là ở các chiến khu cách mạng. Cột mổc thể hiện sự quan tâm của Đảng đối với văn hoá là sự ra đời của bản Đề cương văn hoá Việt Nam (1943) với phương châm: dân tộc, khoa học, đại chúng. Hội văn hoá cứu quốc ra đời đã tập hợp được nhiều nhà văn tiến bộ như Nam Cao, Tô Hoài, Nguyên Hồng... Thời kỳ này, do sự giao ỉưu tiếp xúc, văn hoá, văn học phương Tây cùne; ảnh hướng lớn đến đời sống văn hóa, văn học tronạ nước. Nền văn hoá dân tộc Văn học Việt Nam từ đầu thổ kv X X đến 1945 13 mang bản sắc phương Đông tồn tại hàng chục thế kỷ, đến cuối thế kỷ XIX. đàu thế kỷ XX băt đầu chạm trán với một hệ văn hoá mới nhập cảng từ phương Tây. MỘI chân trời mới đã đến với các nhà nho duy tân. Văn hoá Việt Nam mở rộng cửa dón nhận nhiều luồng văn hóa. Trong cuộc xung đột văn hoá này, vãn hóa, văn học phương Tây đã có nhữne lúc tò ra lợi thế, lấn át nền văn hóa phương Đông cồ truyền. Vì thế, ý thức bào vệ nền văn hoá dân tộc trở thành một tâm thế chung đôi với nhiều trí thức, nhiều nhà văn Việt Nam lúc bấy giờ. II. QUÁ TRÌNH VẬN ĐỘNG CỦA VĂN HỌC 1. T ừ đầu thế kỷ XX đến 1930 Nhìn trên tổng thể. dây là giai đoạn mang rõ tính chất íỊÌao thời của hai phạm trù văn học. Những dấu ấn cùa phạm trù văn học irung dại vẫn còn khá rõ, tuy nhiên, vãn học đang vận động mãnh mẽ về phía hiện đại. Giai đoạn này có thể phàn chia thành hai chặng: từ đầu thế kỷ XX đến 1920 và từ 1920 đến 1930. a, Từ ăầu thế kỷ X X đến 1920 ở chặng này, sự khởi động dổi mới bắt đầu ở khu vực Nam Bộ, với các thể loại văn xuôi quốc ngữ. Một số cây bứt Tây học theo đạo thiên chúa đã cho ra đời những tác phẩm có ý nghĩa mở đường như Chuyến đi thăm Bắc kỳ năm Ất ỈIợi ỉ 876 (1881) của Trương Vĩnh Ký, Truyện (huy Lazaro Phiền của Nguyễn Trọng Quản (1887). Từ những tác phẩm lẻ tẻ, đến đầu thế kỷ XX ở Nam Bộ đã có cà một phong trào viết truyện chữ quổc ngữ với hàng loạt cây bút như Trương Duy Toàn, Nguyễn Chánh sắt, Lê Hoàng Mưu, Nguyễn Bửu Mọc, Hồ Biểu Chánh...Tiểu thuyết quốc ngữ Nam Bộ tuy còn chịu nhiều ảnh hường của văn xuôi trung đại, nhưng đồng thời đã có nhiều nét mới trong đề tài, kết cấu, ngôn ngữ. Các tác phẩm thườns hướng đến miêu tả đời sống và con người Nam Bộ, sử dụng lối văn khẩu ngữ gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày. ơ miền Bắc, các sự kiện văn học vang dội trên văn đàn giai đoạn này đều gắn với tên tuổi của các sĩ phu yêu nước như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh, Hu>nh Thúc Kháng, Nguyễn Thượng Hiền... Họ là những nhà Hán học được giác ngộ lý tưởng cách mạng tư sàn từ phương Tây qua các sách tân thư của Trung Quếc. Bởi vậy, về mặt tư tưởng, họ có sự đổi mới quyết liệt, nhưng lại chưa có 1 4 ____________________________________ Văn học V iệt Nam từ đầu thể kỷ X X đến 1945 điều kiện để đổi mới về mặt tư tưởng mỹ học, thi pháp và văn tự. Các tác phẩm tuyên truyền của họ mang nội dung mới mẻ, có sức lay động, có ý nghĩa thức tỉnh. Tuy nhiên, tư duy nghệ thuật của họ vẫn còn nặng màu sấc tư duy nghệ thuật trung đại. Tiêu biểu như trường hợp Phan Bội Châu. Phan Bội Châu sáng tác đến năm 1940 khi văn học Việt Nam đã đi vào chặng hoàn tất quá trình hiện đại hóa, nhưng ông vẫn làm thơ Đường, viết truyện, tiểu thuyết bằng chữ Hán, chữ Nôm, vẫn viết tiểu thuyết với hình thức chương hồi. b, Từ 1920 đến 1930 Lực lượng sáng tác ở chặng này gồm một số nhà nho cuối cùng như Tản Đà, Nguyễn Bá Học, Nguyễn Trọng Thuật, Phan Khôi..., và một số trí thức Tây học đầu tiên như Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Trọng Khiêm, Phạm Duy Tốn, Hoàng Ngọc Phách, Đông Hồ... Trong đó, những cây bút Tây học đã đóng vai trò chủ lực. Ở chặng này, văn học đã có những thành tựu nổi bật về tiểu thuyết, truyện ngắn của các tác giả Hồ Biểu Chánh, Hoàng Ngọc Phách, Trọng Khiêm, Phạm Duy Tổn, Nguyễn Bá Học... Đặc biệt, tiểu thuyết Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách gây được tiếng vang trong công chúng và trở thành cột mốc trên chặng đường vận động theo hướng hiện đại của tiểu thuyết, v ề tiểu thuyết, còn có thể kể thêm Kim Anh lệ sử của Trọng Khiêm, Quả dưa đỏ của Nguyễn Trọng Thuật, một số tiểu thuyết của Đặng Trần Phất, Nguyễn Tử Siêu. Truyện ngắn xuất hiện nhiều, tiêu biểu là các cây bút Phạm Duy Tổn, Nguyễn Bá Học.Trong các sáng tác, tính hiện đại đã chiếm ưu thế rõ, nhưng những yếu tổ trung đại vẫn tồn tại xen kẽ khá phổ biến từ nội dung đến hình thức, v ề thơ thì trong các sáng tác của Tản Đà, Trần Tuấn Khải đã xuất hiện cái tôi phóng túng lãng mạn, đậm chất sầu và mộng. Những tình cảm lãng mạn này được thể hiện trong những hình thức truyền thống tương đối tự do như thất ngôn trường thiên, hát nói, lục bát... 2. Giai đoạn 1930 - 1945 Đây là chặng hoàn tất của quá trình hiện đại hóa. Lực lượng tác giả chặng này chủ yếu là các trí thức Tây học. Họ là những người được lớn lên trong môi trường sinh hoạt đô thị, được học tiếng Pháp từ trên ghế nhà trường. Họ sớm được tiếp xúc với văn hóa, văn học phương Tây hiện đại. Họ ít bị ảnh hưởng, ràng buộc với tư tưởng nho giáo, với quan niệm mv học trung đại. Họ có điều Văn học Việt N am từ đầu thế kỷ X X đến 1945 15 kiện thúc đẩv cuộc cách tân. hiện đại hóa văn học Việt Nam lên một bước mới, toàn diện, sâu sắc và triệt để hơn, đưa văn học Việt Nam hòa nhập với văn học hiện đại thế giới. Từ 1930 đến 1945, văn học phát triển một cách rực rỡ, với nhiều thành tựu nổi bật, trở thành một trong những giai đoạn sôi động nhất của lịch sử văn học dân tộc. Văn học cũng phân hóa theo các trào lưu, xu hướng khác nhau. Văn xuôi có địa vị quan trọng, phát triển đa dạng cả ở khuynh hướng hiện thực và lãng mạn. Tự lực văn đoàn, nhất là các tiểu thuyết của Nhất Linh, Khái Hưng, truyện ngắn Thạch Lam đã có đóng góp lớn cho sự phát triển của vãn xuôi lãng mạn nói riêng, văn xuôi Việt Nam hiện đại nói chung. Văn xuôi hiện thực phê phán cũng phát triển mạnh mẽ với các tên tuổi tiêu biểu: Nguyên Công Hoan, Ngô Tât Tô, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Nguyên Hồng, Tô Hoài... v ề thơ, sự xuất hiện phong trào Thơ mới vào năm 1932 đã tạo nên cuộc cách mạng trong thơ ca dân tộc. Thơ mới đã nhanh chóng chiếm lĩnh thi đàn, thay thế cho lổi thơ cũ đã mất hết sinh khí. Tuy chỉ tồn tại hơn 10 năm, nhưng Thơ mới đã để lại những dấu ấn sâu sắc, ảnh hưởng lớn đến cà nền thơ dân tộc trong suốt thế kỷ XX, với những tên tuổi rạng rỡ: Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử, Nguyễn Bính... Kịch nói tuy mới du nhập vào nước ta nhưng đã có những thành tựu. Vi Huyền Đắc, Vũ Đình Long, Nguyễn Huy Tưởng... là những tác giả được công chúng chú ý. Phê bình ván học từng bước trờ thành một ngành độc lập và phát triển khá mạnh trong giai đoạn này. Những cây bút phê bình có nhiều đỏng góp quan trọng cho đời sống văn học có thể kể đến là Thiếu Sơn, Hoài Thanh, Vũ Ngọc Phan, Hải Triều, Trần Thanh Mại, Trương Chính... Đã xuất hiện những công trình phê bình văn học xuất sắc, có ý nghĩa tổng kểt một phong trào thơ ca hoặc thành tựu của một giai đoạn văn học như Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh và Hoài Chân, Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan... Văn học cách mạng từ sau khi Đảng ra đời đã chuyển hẳn theo khuynh hướng vô sản và liên tục phát triển. Thơ ca Xô viết Nghệ Tĩnh, tuy giản dị, mộc mạc nhưng thấm đẫm tinh thần yêu nước. Sau khi phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh bị 16 Văn học V iệt Nam từ đầu thế kỷ X X đ ến 1945 khủng bố, xuất hiện nhiều tác phẩm văn thơ ữong tù. Đến thời kỳ Mặt trận dân chủ văn học cách mạng nửa hợp pháp phát triển mạnh và tiếp đó là văn học thời kỳ Mặt trận Việt Minh. Nhật kỷ trong tù của Hồ Chí Minh, Từ ẩy của Tố Hữu là những đỉnh cao của nền văn học cách mạng giai đoạn 1930 - 1945. Ngoài ra, những tác giả, tác phẩm cùng được chú ý là phóng sự Ngục Kon Tum của Lê Vẫn Hiến, thơ của Sóng Hồng, Xuân Thủy, lý luận phê bình của Hải Triều, Đặng Thai Mai... III. NHỮNG ĐẶC ĐIẺM c ơ BẢN CỦA VĂN HỌC VIỆT NAM TỪ ĐÀU THẾ KỶ XX ĐẾN 1945 1. Nền văn học được hiện đại hóa Hiện đại hóa văn học là quá trình văn học thoát khỏi hệ thống thi pháp của văn học trung đại để xác định một hệ thống thi pháp mới, thi pháp văn học hiện đại. Đặc trưng cơ bản của thi pháp văn học trung đại là tính ước lệ, sùng cổ và phi ngã. Văn học dân tộc phải từng bước thoát ra khỏi ảnh hưởng của văn hóa khu vực, ảnh hưởng của văn học Trung Hoa để hội nhập với văn học thế giới. Đầu thế kỷ XX, sự xâm lược của thực dân Pháp đã làm thay đổi toàn bộ cơ cấu xã hội Việt Nam. Xã hội phong kiến phương Đông trì trệ, lấy làng xã làm đơn vị kinh tế, hành chính đã bị luồng gió phương Tây làm đảo lộn. Tầng lớp thị dân, công chức ngày càng đông lên. Nền kinh tế hàng hóa phát triển làm cho đời sống thành thị ngày càng sôi động. Sự thay đổi trong đời sống xã hội đã kẻo theo sự thay đổi trong đời sống tinh thần, tâm lí, thị hiểu thẩm mỹ. Văn học cũng cần phải thay đổi để đáp ứng những yêu cầu mới của thời đại. Sự đổi mới văn học diễn ra ở hai cấp độ: cấp độ thường xuyên và cấp độ cao trào. Trong lịch sử văn học đã có những giai đoạn văn học đặt ra được những vấn đề mới mẻ, đầy tính nhân văn như giai đoạn nửa sau thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX. Tuy nhiên, do sự hạn chế của lịch sử, các nhà văn chưa có điều kiện để tạo nên một cuộc cách tân lớn trong văn học. Đến đầu thế kỷ XX, khi phương thức sản xuất, cơ cấu xã hội mới hình thành, điều kiện cho một sự chuyển đổi đã chín muồi. Sự thay đổi lần này là sự thay đổi cả phạm trù văn học, với hàng loạt những chuyển đổi từ quan niệm văn học, quan niệm về con người, thể loại, văn tự, thi pháp. Công cuộc hiện đại hóa làm xuất hiện những tác giả văn học kiểu mới. Văn học trung đại chủ yếu là sáng tác của các nhà nho. Họ dùng văn chương để Văn học Việt Nam từ đầu thế kv XX đến 1945 17 hành đạo, để giáo hóa, thực hiện lý tưởng tu tề trị binh. Các cây bút nho học thời trunạ đại có thể chia làm ba loại: nhà nho hành đạo, nhà nho ẩn dật và nhà nho tài tử. Cà ba loại tác siả này đều có điểm chung là chưa bao giờ coi viết văn là một nghề để kiếm sống. Từ đầu thể kỷ XX, lần đầu tiên trong lịch sử, viết vãn trở thành một nghề chuyên nghiệp. Nghề viết văn cũng bình đẳng như mọi nghề khác trong bối cảnh kinh tế thị trường, Tác phẩm văn chương trở thành hàng hóa. Người viết phài quan tâm đến sở thích, nguyện vọng, tâm tư của độc giả. Cùng vói sự xuất hiện của lớp nhà văn chuyên nghiệp là sự xuất hiện của lớp công chúng mới, với những thị hiếu thẩm mỳ mới. Ngôn ngữ, văn tự cũng có nhiều thay đổi lớn. Suốt 10 thế kỷ, các nhà văn truna đại sử dụng chừ Hán và chữ Nôm để sáng tác văn học, tạo thành hai bộ phận vãn học: văn học chữ Hán và văn học chữ Nôm. Văn học viết bằng chữ Hán được đề cao. Văn học viết bằng ngôn ngữ dân tộc (chừ Nôm) nhìn chung không được coi trọng, thường bị coi là “nôm na mách qué” . Đến đầu thế kỷ XX, văn học Việt Nam đã có sự thay đổi về ngôn ngữ, văn tự. Văn học viết bằng chữ quốc ngữ lên ngôi, từng bước trở thành độc tôn, mặc dù đôi khi các nhà văn vẫn dùng tiếng Hán, tiếng Pháp để sáng tác. Ngôn ngữ văn học giảm dần tính ước lệ, tiến gần hơn với ngôn ngữ đời sống, đủ sức diễn tả mọi trạng thái tinh tế và phức tạp của nội tâm con người cùng những bức tranh sinh hoạt xã hội, thiên nhiên, phong tục. Câu thợ có sự chuyển đổi từ thơ điệu ngâm sang thơ điệu nói. Câu vãn xuôi ngày càng đa dạng, hiện đại, thể hiện trong các sáng tác của Thạch Lam, Nguyễn Tuân, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao... 2. Văn học phát triển với nhịp độ nhanh chỏng, khẩn trương v ề quá trình hiện đại hoá của văn học Việt Nam, Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại đã khẳng định: “Ở nước ta, một năm đã có thể kể như 30 năm của người”. Năm 1917, trên tờ Nam Phong, Phạm Quỳnh còn than phiền “có nước mà chưa có văn”, nhưng chỉ vài chục năm sau, đã có một nền văn học bề thế với những tên tuổi Nhất Linh, Thạch Lam, Xuân Diệu, Thế Lữ, Nguyễn Bính, Nguyễn Tuân, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao... Ngôn ngữ cũng có những bước tiến vượt bậc. Từ lối văn khẩu ngữ của Hồ Biểu Chánh với những “ngôn từ đơn sơ chất phác” đến lời văn trong sáng, gọt dũa, đầy nhạc điệu của Tự lực văn đoàn đã là một bước tiến lớn; và từ lời vâịn 'Ệtp\íụỊỆ)g^y^a^|ậéiọAi^p)Ỵãn 18 Văn học V iệt N am từ đầu thế kỷ X X đ ến 1945 đa thanh, linh hoạt, vừa giàu tính nghệ thuật, vừa gần gũi lời ăn tiếng nói hàng ngày của Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao lại là một bước tiến vượt bậc nữa. Sở dĩ văn học Việt Nam có được tốc độ hiện đại hoá mau lẹ như vậy trước hết là do nó có điều kiện tiếp nhận thẳng kinh nghiệm của văn học hiện đại phương Tây thế kỷ XIX và XX. Thơ mới lãng mạn chịu ảnh huởng của Baudelaire, Verlaine, Rimbaud, Valérv. Các truyện ngắn chịu ảnh hường của Alphonse Daudet, Maupassant; Nguyễn Tuân, Nhất Linh, Khái Hưng chịu ảnh hưởng của Gide... Đi được nhanh như vậy trong công cuộc hiện đại hóa phải dựa vào công sức của nhiều người. Nguyễn Đăng Mạnh nói đến một cuộc “chạy tiếp sức” trong văn học. Khi Tổ Tám ra đời, người ta xem như một sự kiện gây chấn động dư luận, thế nhưng chỉ mấy năm sau, khi tiểu thuyết Tự lực văn đoàn xuất hiện thì Tố Tâm đã thành cổ lồ. Khi Thế Lữ xuất hiện, Hoài Thanh ví như một “vầng sao chỏi sáng” trên trời thơ Việt Nam. Nhưng khi Xuân Diệu có mặt trên thi đàn thì Thế Lữ - cũng theo Hoài Thanh có thể xếp vào “văn đàn bảo giám” . Tiểu thuyết Tự lực văn đoàn cũng chỉ được dư luận chú ý khoảng dăm năm. Khi Vũ Trọng Phụng, Nam Cao xuất hiện thì thứ tiểu thuyết này trở nên sáo mòn, mất sinh khí. 3. Văn học phân hỏa thành hai bộ phận (hợp pháp và bất hợp pháp) và nhiều khuynh hướng Đển giai đoạn 1930 - 1945, sự phân chia các bộ phận, các khuynh hướng văn học càng trở nên rõ rệt hon. Văn học giai đoạn này bao gồm hai bộ phận: vãn học công khai, hợp pháp và văn học bất hợp pháp. Văn học họp pháp là bộ phận văn học được sáng tác và lưu hành công khai, được chính quyền thực dân cho phép. Chịu sự kiểm soát, kiểm duyệt chặt chẽ, văn học hợp pháp khó thể hiện trực tiếp những nội dung yêu nước và cách mạng. Tuy nhiên, bộ phận văn học này có tinh thần dân tộc và dân chủ sâu sắc, các nhà văn thường qua cách thể hiện kín đáo để gửi gắm nỗi lòng mình. Chính bộ phận văn học này đã có đóng góp quyết định vào công cuộc hiện đại hóa văn học. Văn học bất hợp pháp là bộ phận văn học cách mạng, với hai nhánh là văn học cách mạng theo kiểu cũ (Phan Bội Chầu, Phan Châu Trinh...) và văn học cách mạng vô sản. Văn học V iệt Nam từ đầu thế kỷ X X đến 1945 19 v ề cơ bản. văn học dần dần hình thành ba trào lưu chủ yếu: trào lưu văn học lãng mạn. trào lưu văn học hiện thực phê phán, trào lưu văn học cách mạng vô sản. Văn học lãng mạn hướng vào thể hiện cái tôi cá nhân, ưu tiên cho tiếng nói của trái tim, của cảm xúc. Khuynh hướng lãng mạn được khơi dòng từ Tản Dà, Hoàng Ngọc Phách từ những năm hai mươi, rồi phát triển nhanh chóng trờ thành một trào lưu nổi bật trong những năm ba mươi của thế kỉ XX với tiểu thuyết Tự lực văn đoàn, Thơ mới, Thạch Lam, Nguyễn Tuân... Trào lưu hiện thực hình thành trong văn xuôi từ những năm 20, 30 với các tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh, Trọng Khiêm, truyện ngắn Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá Học..., từ khoảng 1930 trở đi nhanh chóng có nhiều thành tựu và trở thành một trào lưu lớn. Ở thời kỳ 1932 - 1935, khi văn học lãng mạn còn thắng thế, văn học hiện thực đã có những gương mặt xuất sắc như Nguyễn Công Hoan, Tam Lang, Tú Mỡ. Đen giai đoạn 1936 -1939, văn học hiện thực phát triển rực rỡ, với cảm hứng phê phán mãnh liệt, gắn liền với nhiều tên tuổi lớn như Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nguyên Hồng... Giai đoạn 1940 - 1945, trong không khí xã hội ngột ngạt, văn học hiện thực phê phán vẫn tiếp tục có những thành tựu* với sự xuất hiện của Nam Cao, Tô Hoài, Kim Lân, Bùi Hiển... Văn học cách mạng, đặc biệt là văn học cách mạng vô sản tràn đầy tinh thần chiến đấu, thấm đượm lòng yêu nước và tự hào dân tộc, với hình tượng cao đẹp nhất là người chiến sĩ cách mạng và người cộng sản. Ngoài văn học vô sản ờ trong nước, còn có các sáng tác của các chiến sĩ cộng sản hoạt động ở nước ngoài, tiêu biểu là các tác phẩm của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Các khuynh hướng, trào lưu văn học vừa đấu tranh lại vừa chi phối, ảnh hưởng lẫn nhau. Chẳng hạn, giữa văn học hiện thực và văn học lãng mạn ỉuôn có sự đối chọi về quan điểm sáng tác. Nhất Chi Mai phê phán Vũ Trọng Phụng, Ngô Tất Tố; Vũ Trọng Phụng viết bài công kích Tự lực văn đoàn. Tuy nhiên, trên thực tế Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan... vẫn cho ra đời các tác phẩm lãng mạn. Tố Hữu có nhiều bài thơ chống lại Thơ mới (Dửng dung, Tháp đo...), nhưng ông vẫn học tập cách diễn đạt của Thơ mới. Nguyên Hồng là một nhà văn hiện thực nhưng các sáng tác của ông sau 1939 đã có sự giao thoa với văn học cách mạng. 20 Văn học V iệt N am từ đầu thế kỷ X X đ ến 1945 IV. THÀNH T ự ư CHỦ YÉU CỦA VĂN HỌC 1. Quan niệm mói về con người Văn học trung đại ra đời và vận động trong lòng xã hội phong kiến. Tuy cũng có những biến đổi nhất định, nhưng nhìn chung con người trong văn học trung đại chịu ảnh hường của hệ tư tường nho giáo, lấy đạo lý làm nền tảng. Nhà văn, nhà thơ sáng tác là để “tải đạo”, nói “chí”. Do ảnh hưởng từ mô hình vũ trụ thiên - địa - nhân, do quan niệm thiên - nhân tương đồng và cũng do hoàn cảnh sống, nhà văn quan niệm con người là một cá thể vũ trụ, mang dấu ấn của vũ trụ, thiên nhiên. Con người thấy chân dung mình trong vóc mai, dáng liễu, vóc hạc, mình ve, mắt phượng, mặt rồng... Cho đến đầu thế kỷ XX, ta vẫn thấy mẫu hình con người này trong thơ Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng. Ý thức cá nhân không phải không có, nhưng bị kìm tỏa, thường chỉ xuất hiện ở những cá tính sáng tạo lớn, vượt thoát ra khỏi quan niệm nho giáo. Văn học hiện đại đã dần phá vỡ những quan niệm về con người của văn học trung đại. Con người thần dân mang tính chất lệ thuộc đã chuyển dần sang con người công dân, làm chủ mình, làm chủ giang sơn đất nước: “Người dân ta của dân ta/ Dân là dân nước nước là nước dân” (Phan Bội Châu). Trong văn học công khai, một xu thế mới xuất hiện; xu thế hướng về con người cá nhân, khẳng định con người cá nhân. Hoài Thanh gọi thời đại Thơ mới là “thời đại chữ tôi”, đối lập với “thời đại chữ ta” trước đó. Trước đây, trong văn học trung đại, đã xuất hiện nhân vật tự xưng danh như Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ, Tú Xương... Nhưng phải đến Tản Đà, xưng danh mới trở thành phổ biến. Nhân vật trong tác phẩm Tản Đà là chính ông: “Con người cá nhân Tản Đà ngạo nghễ đi giữa thơ và văn” (Xuân Diệu). Tiểu thuyết Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách là cuộc đấu tranh bảo vệ quyền tự do của con người cá nhân chống lại lễ giáo phong kiến. Con người trong Tự lực văn đoàn là con người cá nhân xung đột với lễ giáo và gia đình truyền thống, mang khát vọng tìm lối thoát ly khỏi đạo đức, dư luận để thoả mẫn quyền tự do của mình. Thơ mới đào sâu vào cái tôi, thể hiện tiếng nói hưởng thụ một cách thành thực, cỏ lúc kiêu căng, nâng minh ỉên chồ cao nhất: “Ta là Một, là Riêng là Thứ Nhất/ Không có chi bè bạn nổi cùng ta” (Xuân Diệu). Văn học hiện thực phê phán xem con naười là sản phẩm của hoàn cảnh,
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan