Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học áp dụng pháp luật hình sự đối với tội hiếp dâm từ thực tiễn tỉnh ninh thuận...

Tài liệu áp dụng pháp luật hình sự đối với tội hiếp dâm từ thực tiễn tỉnh ninh thuận

.PDF
74
327
65

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHẠM THÁI HÙNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI HIẾP DÂM TỪ THỰC TIỄN TỈNH NINH THUẬN LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ Hà Nội, năm 2019 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI PHẠM THÁI HÙNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI HIẾP DÂM TỪ THỰC TIỄN TỈNH NINH THUẬN Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự Mã số: 8.38.01.04. NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. TRẦN ĐÌNH NHÃ Hà Nội, năm 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả được nêu trong Luận văn là trung thực, chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào tác giả Luận văn Phạm Thái Hùng./. Ninh Thuận, ngày 26 tháng 02 năm 2019 Người cam đoan Phạm Thái Hùng MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI HIẾP DÂM VÀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI HIẾP DÂM ...................... 5 1.1. Khái niệm, các dấu hiệu pháp lý của tội hiếp dâm, phân biệt tội hiếp dâm với các tội xâm hại tình dục khác .......................................................... 5 1.2. Khái quát lịch sử lập pháp Việt Nam về các tội hiếp dâm ................... 19 1.3. Định tội danh đối với tội hiếp dâm ....................................................... 24 1.4. Áp dụng hình phạt đối với tội hiếp dâm ............................................... 28 Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI HIẾP DÂM TẠI TỈNH NINH THUẬN .............................................. 31 2.1. Khái quát thực trạng tội hiếp dâm trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận ......... 31 2.2. Thực tiễn định tội danh đối với tội hiếp dâm ....................................... 32 2.3. Những hạn chế trong định tội danh ...................................................... 41 2.4. Thực tiễn áp dụng hình phạt đối với tội hiếp dâm................................ 44 2.5. Những hạn chế trong quyết định phạt .................................................. 49 2.6. Nguyên nhân những hạn chế trong quá trình định tội danh và quyết định hình phạt .............................................................................................. 50 Chương 3: GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO HOẠT ĐỘNG ĐỊNH TỘI DANH VÀ ÁP DỤNG HÌNH PHẠT ĐÚNG ĐỐI VỚI TỘI HIẾP DÂM TẠI TỈNH NINH THUẬN .................................................................................... 54 3.1. Tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng hình sự ............................................................................. 54 3.2. Kịp thời ban hành văn bản hướng dẫn áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) về tội hiếp dâm ................ 55 3.3. Tăng cường nhân lực; đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp đối với cán bộ, công chức, viên chức ngành Tòa án ........ 56 3.4. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và tổng kết thực tiễn ............. 58 3.5. Nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa ....................................... 59 3.6. Đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, phương tiện-kỹ thuật ........................ 59 KẾT LUẬN .................................................................................................... 62 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLHS : Bộ luật hình sự BLTTHS : Bộ luật Tố tụng hình sự CBCC : Cán bộ công chức CTTP : Cấu thành tội phạm TAND : Tòa án nhân dân TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao TNHS : Trách nhiệm hình sự TP : Thẩm phán DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Bảng 2.1: Tình hình giải quyết vụ án hình sự về tội hiếp dâm của Tòa án hai cấp tỉnh Ninh Thuận giai đoạn 2013-2017 ..................................................... 44 Bảng 2.2: Hình phạt được Tòa án hai cấp tỉnh Ninh Thuận áp dụng đối với bị cáo phạm tội hiếp dâm .................................................................................... 45 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong công cuộc đổi mới đất nước từ năm 1986 đến nay, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn và quan trọng trên mọi lĩnh vực: kinh tế phát triển, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được nâng cao, tình hình an ninh-chính trị, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn nhiều vấn đề của xã hội phát sinh đáng lo ngại như: tăng dân số, thiếu việc làm, các tệ nạn xã hội, tình hình tội phạm nói chung trong đó có tội hiếp dâm nói riêng ngày càng gia tăng, xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm, giá trị đạo đức thiêng liêng, cao quý nhất của con người được pháp luật bảo vệ. Không ai có quyền xâm phạm đến thân thể, danh dự, nhân phẩm, sức khỏe hay tra tấn, bạo lực hay dùng nhục hình đối với thân thể người khác, quyền bất khả xâm phạm của mọi người đã được pháp luật bảo hộ tại (Điều 20 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 2013) về thân thể, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm. Cũng theo tư tưởng Hiến pháp, bảo vệ thân thể, sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm của con người là nhiệm vụ của toàn xã hội. Thực tế cho thấy trong khi đa số người luôn ý thức, tôn trọng danh dự, nhân phẩm của mình và của người khác, thì vẫn không ít người vì mục đích khác nhau mà xem thường, thậm chí chà đạp lên danh dự, nhân phẩm của người khác, cố ý thực hiện hành vi sai trái của mình nhằm thoả mãn dục vọng. Vì vậy, trong thời gian qua việc đấu tranh phòng, chống loại tội phạm này ngày càng được xã hội quan tâm và ngay trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận thì các cấp, các ngành trên địa bàn tỉnh cũng đã vào cuộc và đạt được những kết quả nhất định; Tuy nhiên, trong cuộc đấu tranh phức tạp này, vẫn không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót trong quá trình điều tra, khởi tố, truy tố và xét xử tội phạm nói chung và tội hiếp dâm nói riêng. Nguyên nhân của những hạn 1 chế thiếu sót này có cả nguyên nhân khách quan, nguyên nhân chủ quan, chúng xuất phát từ quy định của pháp luật và từ thực tiễn áp dụng pháp luật trong xử lý tội phạm. Vì vậy, cần tiếp tục nghiên cứu các giải pháp nhằm đảm bảo trong quá trình điều tra, xét xử đối với tội hiếp dâm theo quy định của pháp luật. - Với lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài: “Áp dụng pháp luật hình sự đối với tội hiếp dâm từ thực tiễn tỉnh Ninh Thuận” làm luận văn tốt nghiệp với mong muốn được góp phần hoàn thiện những quy định của pháp luật cũng như nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật, đấu tranh phòng, chống làm giảm loại tội phạm này trong thời gian tới. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài - Tham khảo, nghiên cứu một số công trình về tội hiếp dâm ở nhiều góc độ khác nhau: Ở cấp độ luận văn thạc sĩ tại Học viện Khoa học Xã hội đã được công bố, có: Nguyễn Minh Nhật (2008): Đấu tranh phòng chống tội hiếp dâm trẻ em trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh; Lê Văn Hùng (2012): Tội hiếp dâm theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh; Trần Thủy Quỳnh Trang (2012): Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh; Lâm Thị Bé Ba (2013): Tội hiếp dâm trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Trà Vinh; Phạm Thị Ngoan (2013): Đấu tranh phòng, chống tội hiếp dâm trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng; Chung Văn Kết (2013): Tội hiếp dâm theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Cà Mau; Lê Thị Kiều Diễm (2014): Tội giao cấu với trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Cà Mau; Nguyễn Vi Dũng (2015): Các tội xâm phạm tình dục trẻ em theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh; Cao Xuân Cường (2016): Áp dụng pháp luật hình sự đối với các tội xâm phạm tình dục trẻ em từ thực tiễn Quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh ...; 2 - Các luận văn này trực tiếp hoặc gián tiếp phân tích cấu thành tội phạm của tội hiếp dâm, công tác đấu tranh, phòng ngừa tội phạm này ở các địa bàn khác nhau. Tuy nhiên, dù có khá nhiều các công trình nghiên cứu khoa học về tội hiếp dâm nhưng chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu về “Áp dụng pháp luật hình sự đối với tội hiếp dâm từ thực tiễn tỉnh Ninh Thuận”. Chính vì vậy, xét từ khía cạnh thực tiễn thì đây là một đề tài mới, lần đầu tiên được nghiên cứu ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Mục đích của đề tài là làm rõ các vấn đề về lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự khi xét xử tội hiếp dâm; chỉ ra những bất cập, hạn chế, trong thực tiễn áp dụng, trên cơ sở đó đề xuất các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm này. - Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài: + Thứ nhất, phân tích làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về tội hiếp dâm. + Thứ hai, phát hiện những hạn chế, bất cập trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đối với tội hiếp dâm từ thực tiễn tỉnh Ninh Thuận. + Thứ ba, đề xuất các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả định tội danh và quyết định áp dụng hình phạt trong thực tiễn xét xử tội hiếp dâm. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài - Đối tượng nghiên cứu: Những vấn đề về lý luận và quy định của pháp luật về tội hiếp dâm; thực tiễn áp dụng pháp luật trong điều tra, truy tố, xét xử tội phạm này tại tỉnh Ninh Thuận. - Phạm vi nghiên cứu: Luận văn chỉ nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật về tội hiếp dâm trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận trong giai đoạn từ năm 3 2013 đến năm 2017 và Điều 141 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định về tội hiếp dâm. 5. Phương pháp nghiên cứu - Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của triết học Mác-Lê Nin; các quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về tội phạm và hình phạt, các tri thức của khoa học luật hình sự, tội phạm học, tâm lý học và khoa học điều tra tội phạm. Trong quá trình thực hiện đề tài tác giả còn sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, diễn dịch, tổng kết kinh nghiệm…để giải quyết các vấn đề đặt ra. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Về lý luận: Trên cơ sở nghiên cứu các quy định của áp dụng pháp luật hình sự đối với tội hiếp dâm, phân tích tình hình thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đối với tội hiếp dâm tại tỉnh Ninh Thuận trong giai đoạn năm 2013 đến năm 2017. - Về thực tiễn: Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, học tập đối với sinh viên tại các cơ sở đào tạo chuyên ngành luật và có thể tham khảo để hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự về tội hiếp dâm. 7. Kết cấu luận văn Luận văn gồm có những nội dung: Phần mở đầu; Chương 1: Những vấn đề lý luận về tội hiếp dâm và áp dụng pháp luật hình sự đối với tội hiếp dâm Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự đối với tội hiếp dâm tại tỉnh Ninh Thuận Chương 3: Giải pháp đảm bảo hoạt động định tội danh, áp dụng hình phạt đúng đối với tội hiếp dâm tại tỉnh Ninh Thuận Kết luận và danh mục tài liệu tham khảo. 4 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỘI HIẾP DÂM VÀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI HIẾP DÂM 1.1. Khái niệm, các dấu hiệu pháp lý của tội hiếp dâm, phân biệt tội hiếp dâm với các tội xâm hại tình dục khác 1.1.1. Khái niệm tội hiếp dâm - Hiếp dâm được hiểu theo Từ điển bách khoa Công an nhân Việt Nam là hành vi dùng sức mạnh cưỡng bức người khác để thỏa mãn nhu cầu tình dục của mình. Trong Bản tổng kết và hướng dẫn đường lối xét xử tội hiếp dâm của Tòa án nhân dân tối cao đã đưa ra khái niệm tội hiếp dâm như sau: “Hiếp dâm là hành động bắt buộc người phụ nữ phải chịu sự giao cấu trái ý muốn hoặc không có ý muốn của người đó bằng cách dùng bạo lực về thể chất, hay là uy hiếp về tinh thần, hay là lợi dụng hoặc gây ra tình trạng không thể tự vệ hoặc biểu lộ ý chí của người đó” Mặc dù, BLHS Việt Nam năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) cũng chưa quy định cụ thể về khái niệm hiếp dâm nhưng đã bổ sung bên cạnh hành vi “giao cấu” là hành vi quan hệ tình dục khác, kế thừa các quan điểm nêu trên có thể khái quát khái niệm hiếp dâm như sau: Hiếp dâm là hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái ý muốn của họ. - Về mặt pháp luật, khái niệm của tội hiếp dâm được quy định tại Điều 141 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), như sau: “Người nào dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của nạn nhân” 1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý của tội hiếp dâm - Có thể khẳng định rằng, phụ nữ đóng góp rất lớn cho xã hội trên nhiều lĩnh vực như kinh tế, văn hóa, chính trị và là người có vài trò quan 5 trọng trong giai đình. Tuy nhiên, cũng là người dễ bị xâm hại, tổn thương nhất về thể chất lẫn tinh thần. Trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách, văn bản quy phạm pháp luật ban hành nhằm bảo vệ phụ nữ, trong đó có BLHS. BLHS năm 1985, Nhà nước ta đã xác định phụ nữ là một trong những khách thể quan trọng cần quan tâm đặc biệt để bảo vệ trong quyền tự do về tình dục, nhân phẩm…Vì vậy, mức hình phạt cao nhất đối với tội hiếp dâm được quy định trong BLHS năm 1985 với khung hình phạt là tù chung thân hoặc tử hình nhằm răng đe, giáo dục. Theo khoa học hình sự Việt Nam, tội phạm được hợp thành bởi bốn yếu tố, đó là: khách thể, mặt khách quan, chủ thể, mặt chủ quan (về mặt cấu trúc). Nghiên cứu các yếu tố này giúp xác định rõ tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, đồng thời giúp phân biệt giữa tội phạm này với tội phạm khác cũng như làm sáng tỏ bản chất pháp lý của tội hiếp dâm. Từ đó làm tiền đề cho việc định tội danh, cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự, cũng như cho việc áp dụng hình phạt. - Khách thể của tội phạm được hiểu là quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại, cũng giống như các hoạt động khác của con người, hoạt động phạm tội cũng nhằm vào những khách thể cụ thể, tồn tại ngoài ý thức, độc lập với ý thức của chủ thể. Những khách thể như: Độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm quyền con người, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa cần được bảo vệ được quy tại Khoản 1 Điều 8 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Qua đó, cho thấy “quan hệ nhân thân mà nội dung là quyền tự do tình dục của con người” đây là khách thể của tội phạm hiếp dâm. Hành vi phạm tội xâm hại đến quan hệ xã hội được bảo vệ là 6 quyền bất khả xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự, thậm chí có thể xâm hại đến tính mạng của con người. Một bộ phận của khách thể của tội phạm, bị hành vi phạm tội tác động đến để gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ chính là đối tượng tác động của tội phạm. Dù ở hình thức cụ thể nào, sự gây thiệt hại cho khách thể cũng luôn diễn ra trên cơ sở hành vi phạm tội làm biến đổi tình trạng của các đối tượng tác động đến các bộ phận cấu thành của quan hệ xã hội. Trong tội hiếp dâm thì đối tượng tác động của tội phạm chính là con người (Điều 141 BLHS năm 2015). Trong nhận thức chung từ thực tiễn thì chỉ người có giới tính nữ giới mới là đối tượng bị xâm, mặc dù trong các quy định của Luật hình sự không quy định cụ thể về giới tính. Về lý luận cũng như thực tiễn, trong một số trường hợp đặc biệt, nữ giới vẫn có thể thực hiện hành vi giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trái ý muốn của nam giới. Trường hợp nữ giới lợi dụng đối tượng (nam giới) đang ở trong tình trạng không có khả năng biểu lộ ý chí đúng đắn (như chịu tác động ở mức độ cao của thuốc kích dục) và trong trường hợp nữ giới lợi dụng nam giới để thực hiện hành vi giao cấu hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác trong tình trạng không có khả năng biểu lộ ý chí đúng đắn (chịu sự tác động của rượu, bia hoạc thuốc kích dục). Trong trường hợp này, nữ giới cũng có thể trở thành chủ thể của tội hiếp dâm. Chính vì vậy, từ chỗ Điều 111 BLHS năm 1999, quy định chỉ có nam giới mới có thể là nạn nhân của tội hiếp dâm, đồng nghĩa với chỉ có nam giới mới là chủ thể của tội phạm hiếp dâm, đến Bộ luật hình sự năm 2015 (Điều 141) thì không chỉ là nam giới mà nữ giới cũng có thể là chủ thể của tội phạm này. Tuổi của nạn nhân có ý nghĩa quan trọng trong việc định tội hiếp dâm (Khoản 4 Điều 141 BLHS). Định tội hiếp dâm trẻ em trong mọi trường hợp nếu thực hiện hành vi giao cấu với trẻ em dưới 13 tuổi hoặc nếu nạn nhân nữ từ đủ 13 tuổi đến chưa đủ 16 tuổi. Chỉ 7 định tội hiếp dâm đối với người phạm tội khi nạn nhân từ đủ 16 tuổi trở lên. Để phân biệt tội hiếp dâm với tội danh khác cũng như xác định khung hình phạt và quyết định hình phạt thi ta phải xem xét đến đối tượng tác động là những dấu hiệu gì được quy định tại Điều 141 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). - Mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện bên ngoài của tội phạm bao gồm các dấu hiệu sau đây: Hành vi, việc giao cấu hoặc thực hiện quan hệ tình dục khác, hậu quả và các dấu hiệu khách quan khác - Hành vi khách quan: Người phạm tội có thể dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân, dùng thủ đoạn khác giao cấu hoặc thực hiện quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của nạn nhân. Để làm rõ mặt khách quan của tội phạm này ta cần nghiên cứu từng hành vi cụ thể như sau: + Hành vi dùng vũ lực giao cấu trái ý muốn của nạn nhân: Trong tội hiếp dâm cũng tương tự với hành vi dùng vũ lực ở một số tội phạm khác mà người phạm tội có dùng vũ lực, nhưng ở tội hiếp dâm, hành vi dùng vũ lực là nhằm giao cấu hoặc thực hiện quan hệ tình dục khác với người bị tấn công. Trường hợp này, là dùng sức mạnh làm nạn nhân không đủ sức chống cự như: đánh đấm, giữ chân tay, bịp mồm, bóp cổ, ... để thực hiện được việc giao cấu hoặc thực hiện quan hệ tình dục khác. Người phạm tội còn phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người, ngoài tội hiếp dâm trong trường hợp nếu sau khi người phạm tội đã thỏa mãn dục vọng, người bị hiếp đã chết. + Một người sử dụng lời nói hoặc hành động uy hiếp tinh thần của người khác, làm cho người bị đe dọa sợ hãi như dọa giết, đánh, bắn... nên không dám chống cự buộc phải để người phạm tội giao cấu hoặc thực hiện quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của mình. Trong trường hợp này được gọi hành vi đe dọa dùng vũ lực giao cấu hoặc thực hiện quan hệ tình dục khác 8 trái với ý muốn của nạn nhân. Điều luật không có quy định đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoạc thông thường, người phạm tội có thể khống chế được ý chí của người bị tấn công bằng lời đe dọa. + Hành vi lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân: là trường hợp nạn nhân rơi vào tình trạng không thể tự vệ do những lý do khách quan để thực hiện hành vi giao cấu hoặc thực hiện quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của nạn nhân. Tình trạng này có thể do chính người phạm tội tạo ra cho nạn nhân, ví dụ cho nạn nhân uống rượu say hoặc dùng thuốc mê làm cho nạn nhân rơi vào tình trạng không thể tự vệ được hoặc lợi dụng tình trạng nạn nhân đang lâm bệnh nặng, hôn mê để thực hiện việc giao cấu hoặc thực hiện quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của nạn nhân. + Hành vi dùng thủ đoạn khác ngoài những hành vi đã được quy định trong cấu thành. Ví dụ trường hợp lợi dụng sự thiếu hiểu biết của nữ giới là người dân tộc thiểu số, người bệnh tâm thần… để thực hiện hành vi giao cấu hoặc thực hiện quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của nạn nhân. Tuy nhiên, khi xác định hành vi dùng thủ đoạn khác để giao cấu trái ý muốn của nạn nhân cần chú ý một số vấn đề sau: Những thủ đoạn mà người phạm tội thực hiện hoặc lợi dụng phải là những thủ đoạn nhằm đưa người bị hại lâm vào tình trạng không còn khả năng làm chủ bản thân để người phạm tội giao cấu hoặc thực hiện quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của họ như: nạn nhân bị mê man bất tỉnh (do bị tật động kinh, bị say thuốc lào, bị gây mê, tiêm thuốc bị dị ứng...) ngủ mê tưởng nhầm can phạm là chồng nên không kháng cự hoặc một số trường hợp ngủ mê khác như bị say rượu nặng; bị ốm đau liệt nhược; bị lên cơn điên dại; ở trong tình trạng cô đơn yếu đuối ở nơi hẻo lánh hoặc trong mọi tình trạng không thể chống cự khác...để mặc người phạm tội thực hiện hành vi giao cấu hoặc thực hiện quan hệ tình dục khác trái với ý muốn của nạn nhân. 9 Ví dụ: Khoảng 20h ngày 5/10/2013, đối tượng Chamaléa B (27 tuổi, trú tại xã Phước T, huyện B, tỉnh Ninh Thuận), nhìn thấy chị Katơ A (24 tuổi) ở cùng xã (Chamaléa B và Katơ A là bạn) đang đi bộ trên đường liên xã nên B mời A lên xe cho B chở đi, A đồng ý. Trên đường đi, đối tượng B nói chuyện, rủ A đi ăn tại Phước T. Ban đầu A chỉ định ăn xong rồi về, nhưng sau đó B tiếp tục mời A đi hát Karaoke, trong quá trình hát, B mời A uống bia, sau đó A bị say và đòi về. Trên đường đưa A về nhà khi đi ngang qua khu vực vắng vẻ bên đường (rừng) B nổi cơn thú tính giở trò đồi bại đối với A, mặc dù nạn nhân A muốn kháng cự nhưng vì thể trạng yếu (say) nên đành bất lực. Khi đang chuẩn bị thực hiện hành vi của mình, may mắn cho A là vào thời điểm đó, anh C đi ngang qua nghe thấy tiếng kêu cứu nên chạy vào xem thử. Thấy anh C, B tìm cách bỏ chạy nhưng đã bị anh C bắt giữ và giao cho Công an xã Phước T, Công an huyện. Ngày 13/10/2013, Đội điều tra về trật tự phòng chống tệ nạn xã hội, Công an huyện B đã khởi tố bị can và bắt tạm giam Cham ma léa B (27 tuổi) để điều tra làm rõ hành vi về tội hiếp dâm. - Qua ví dụ trên ta thấy rằng hành vi khách quan của Chamaléa B là dùng thủ đoạn khác, cụ thể là chuốc cho A say không còn khả năng chống cự rồi thực hiện hành vi giao cấu trái ý muốn của nạn nhân. Để làm rõ hành vi này, cần tìm hiểu nội dung sau: + Thứ nhất, có nhiều tội danh quy định giao cấu là hành vi khách quan như: Tội hiếp dâm (Điều 141); Tội hiếp dâm trẻ em (Điều 142), Tội cưỡng dâm trẻ em (Điều 143); Tội giao cấu hoặc thực hiện quan hệ tình dục khác (Điều 145) BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Về nội hàm của khái niệm giao cấu có thể xác định chung cho những tội này; Bản tổng kết của Tòa án nhân dân tối cao số 329/HS2 ngày 11/5/1967 đề cập như sau: “Giao cấu: chỉ cần có sự cọ sát trực tiếp dương vật vào bộ phận sinh dục của người phụ nữ (bộ phận từ môi lớn trở vào) với ý thức ấn vào trong vì khi đó danh 10 dự, nhân phẩm của người phụ nữ đã bị chà đạp mà không kể sự xâm nhập của dương vật là sâu hay cạn, có xuất tinh hay không vì khi đó tội hiếp dâm được coi là hoàn thành. Vì vậy, khái niệm “giao cấu” nêu trên không còn phù hợp thực tiễn. Mặc khác, hành vi tình dục của con người rất đa dạng, không chỉ nhằm mục đích sinh sản mà còn đem lại khoái cảm, nó không chỉ diễn ra ở bộ phận sinh dục mà còn có thể ở những bộ phận khác trên cơ thể, và như vậy, khái niệm “giao cấu” sẽ không còn bao hàm hết các hành vi tình dục này. Từ phân tích nêu trên, khái niệm “giao cấu” cần được mở rộng theo hướng “là việc đưa bộ phận sinh dục của người này chủ động tác động vào bất cứ bộ phận nào trên cơ thể người kia, không phân biệt đồng giới hay khác giới”. Bên cạnh khái niệm “giao cấu” mang tính truyền thống thì các nhà làm luật đã bổ sung khái niệm “hoặc thực hiện hành vi quan hệ tình dục khác” là hoàn toàn chính xác (Khoản 1 Điều 141 BLHS năm 2015). + Thứ hai, yếu tố trái với ý muốn của nạn nhân: hành vi giao cấu hoặc thực hiện quan hệ tình dục khác chỉ bị coi là phạm tội hiếp dâm khi nó được thực hiện trái với ý muốn của nạn nhân, khi nạn nhân không chấp nhận sự giao cấu hoặc hành vi thực hiện quan hệ tình dục khác kể cả khi họ đang trong tình trạng không thể biểu lộ được ý chí. Trên thực tế, biểu hiện của thái độ trái ý muốn là nạn nhân được thể hiện ra bên ngoài, có thể nhìn thấy được như chống cự, khóc lóc, van xin,…Tùy theo tình huống cụ thể mà diễn biến tâm lý của nạn nhân lúc thì trái ý muốn, lúc thì không tái ý muốn. Cho nên cơ quan tiến hành tố tụng cần phải thận trọng trong công tác đánh giá, tránh tình trạng làm oan sai hoặc bỏ lọt tội phạm. - Hậu quả của hành vi hiếp dâm gây ra không chỉ thiệt hại về thể chất, ảnh hưởng xấu đến các mối quan hệ xã hội đồng thời còn gây hạn đến quyền nhân thân của nạn nhân được pháp luật hình sự bảo vệ. 11 - Dùng thủ đoạn, thời gian, phương tiện, công cụ, hoàn cảnh phạm tội,... là dấu hiệu khách quan tiếp theo. Tuy những dấu hiệu này không phải là dấu hiệu bắt buộc trong cấu thành tội phạm, nhưng việc xác định những dấu hiệu này cũng có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án, vì góp phần xác định tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi hiếp dâm, đồng thời cũng thông qua đó xác định những nguyên nhân và điều kiện phạm tội để từ đó tìm ra các giải pháp hữu hiệu cho công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm này. - Theo quy định của luật hình sự Việt Nam thì người có năng lực trách nhiệm hình sự, đạt độ tuổi luật định và đã thực hiện hành vi phạm tội cụ thể được gọi là chủ thể của tội phạm. Chỉ có thể là con người cụ thể đang sống, bởi chỉ khi đó, họ mới có thể thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội mới là chủ thể của tội hiếp dâm. Đương nhiên, một người cụ thể đang sống, không kể nam hay nữ, người có năng lực trách nhiệm hình sự, đạt đến một độ tuổi theo luật định cũng không phải là chủ thể của tội hiếp dâm nếu họ không thực hiện hành vi được mô tả trong Điều 141 BLHS năm 2015. - BLHS năm 2015, quy định: Người từ đủ 16 tuổi trở lên theo quy định của BLHS năm 2015 thì phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những tội phạm mà Bộ luật này có quy định khác; chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội giết người, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, tội hiếp dâm, tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi, tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản khi người đó từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi theo quy định BLHS năm 2015 (Điều 12). - BLHS năm 2015 quy định về một số tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng tại Điều 143, 150, 151, 170, 171, 173, 178, 248, 249, 250, 251, 252, 265, 266, 285, 286, 287, 289, 290, 299, 303 và Điều 304, 12 cụ thể như sau: Tội cưỡng dâm; Tội mua bán người; Tội mua bán người dưới 16 tuổi; Tội cưỡng đoạt tài sản; Tội cướp giật tài sản; Tội trộm cắp tài sản; Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản; Tội sản xuất trái phép chất ma túy; Tội tàng trữ trái phép chất ma túy; Tội vận chuyển trái phép chất ma túy; Tội mua bán trái phép chất ma túy; Tội chiếm đoạt chất ma túy; Tội tổ chức đua xe trái phép; Tội đua xe trái phép; Tội sản xuất, mua bán, trao đổi hoặc tặng cho công cụ, thiết bị, phần mềm để sử dụng vào mục đích trái pháp luật; Tội phát tán chương trình tin học gây hại cho hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử; Tội cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử; Tội xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử của người khác; Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản; Tội khủng bố; Tội phá hủy công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia và Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự. Như vậy, tại Khoản 2, Khoản 3, Khoản 4 Điều 141 BLHS quy định người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi thì phải chịu trách nhiệm hình sự và phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm khi nguời từ đủ 16 tuổi trở lên. Những dấu hiệu pháp lý bắt buộc chính là năng lực trách nhiệm hình sự và độ tuổi của chủ thể của tội hiếp dâm. Thực tế cho thấy, người hiểu rõ hành vi của mình là đúng hay sai, chỉ những người có năng lực trách nhiệm hình sự đầy đủ khi đó họ mới điều khiển được, tự chủ được hành vi của mình. Còn những người mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình thì không thể là chủ thể của tội phạm hiếp dâm. Tuy nhiên, người trong tình trạng mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình do dùng chất kích thích, bia, rượu mà phạm tội hiếp dâm thì vẫn 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan