BÀI GIẢNG MÔN
NGUYÊN LÝ MÁY VÀ QUAN TRẮC KHÍ TƯỢNG
Người biên soạn: Công Thanh
1
CHƯƠNG I.
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG KHI QUAN TRẮC VÀ VƯỜN KHÍ TƯỢNG
1.1 Nguyên tắc chung
Số liệu quan trắc khí tượng phải phản ánh được những đặc trưng của thời tiết và khí
hậu ở một vùng. Để đảm bảo tính đặc trưng, tính đồng nhất, tính chính xác, tính lien
tục và có thể so sánh được của số liệu, việc quan trắc khí tượng phải tuân theo Quy
phạm.
1.2 Kỳ quan trắc
Các trạm khí tượng phải thực hiện 4 kỳ quan trắc cơ bản vào các giờ 1, 7, 13, 19 giờ
Hà Nội (tức 18, 0, 6,12 giờ GMT)
Một số trạm được chỉ định thực hiện 4 kỳ quan trắc phụ vào các giờ: 4,10, 16,22 giờ
Hà Nội (tức 21, 3, 9, 15 giờ GMT).
Một số trạm được chỉ định thực hiện quan trắc từng giờ phục vụ báo bão hoặc hàng
không.
1.3 Nội dung quan trắc
1.3.1 Kỳ quan trắc cơ bản:
- Thời tiết hiện tại, thời tiết đã qua;
- Gió: hướng gió, tốc độ gió, đặc điểm của gió, gió mạnh nhất, gió giật;
- Mây: lượng, loại, dạng, tính mây; mây phụ, mây nguồn gốc, độ cao chân
mây.
- Tầm nhìn ngang
- Nhiệt độ không khí: nhiệt độ lúc quan trắc và nhiệt độ cực trị.
- Ẩm độ không khí
- Áp suất khí quyển, đặc điểm biến thiên khí áp, biến thiên khí áp 3 giờ và 24
giờ.
- Lượng giáng thủy
- Trạng thái mặt đất, nhiệt độ mặt đất và nhiệt độ các lớp đất sâu
- Lượng bốc hơi
1.3.2 Kỳ quan trắc phụ.
Quan trắc đầy đủ các yếu tố như kỳ quan trắc cơ bản trừ các yếu tố:
- Nhiệt độ cực trị
- Trạng thái mặt đất.
- Nhiệt độ mặt đất
- Lượng bốc hơi
- Có thể có lượng giáng thủy
1.3.3 Quan trắc từng giờ
Bao gồm các yếu tố:
- Thời tiết
- Gió (hướng, tốc độ, đặc điểm của gió và gió mạnh nhất)
- Áp suất khí quyển (mực trạm, mực mặt biển) biến thiên khí áp 24 giờ.
2
Mây (lượng mây tổng quan, mây dưới, lượng mây từng loại mây, loại, dạng,
độ cao chân mây từng loại mây)
- Nhiệt độ không khí tức thời.
- Điểm sương.
- Tầm nhìn ngang
- Ngoài ra còn xác định áp suất thấp nhất, gió mạnh nhất do bão gây ra tại
trạm
1.4 Trình tự quan trắc
1.4.1 Trong kỳ quan trắc cơ bản
Trước giờ tròn 30 phút, chuẩn bị:
+ Kiểm tra máy, chuẩn bị giản đồ, sổ quan trắc, bút mực, dụng cụ chiếu sáng,
phương tiện thông tin.
+ Nêu dự kiến về nhận định và mã hóa một số hạng mục như trạng thái mặt đất,
tầm nhìn, mây, đặc điểm gió, thời tiết.
Trước giờ tròn 15 đến 11 phút:
+ Quan trắc tuyết(nếu có).
+ Quan trắc hướng gió, tốc độ gió, đặc điểm gió bằng máy EL, máy gió Tavid hoặc
máy WRS-91. Trạm có máy Mủno, quan trắc gió trước khi đọc khí áp kế.
Trước giờ tròn 10 phút đến trước giờ tròn 1 phút. Lần lượt làm những việc sau:
+ Xác định trạng thái mặt đất.
+ Quan trắc nhiệt độ mặt đất và các lớp đất sâu.
+ Quan trắc mây: lượng mây tổng quan, lượng mây dưới, lượng tường loại mây,
loại, dạng, tính mây, dạng phụ và mây phụ, mây nguồn gốc, độ cao chân mây.
+ Quan trắc nhiệt độ, độ ẩm không khí, đọc ống bốc hơi Piche, đánh mộc nhiệt ký,
ẩm ký.
+ Đổi thùng đo mưa, đánh dấu vũ ký.
+ Xác định tầm nhìn ngang, hiện tượng thời tiết đã qua.
Đúng giò tròn
+ Quan trắc khí áp, kể cả đọc và đánh mốc áp ký, xác định đặc điểm biến thiên khí
áp.
+ Đo lượng giáng thủy(nếu có), hoàn chỉnh số liệu, thảo mã điện để kịp chuyển bản
tin không chậm quá phút thứ 4 sau giờ tròn đối với trạm phát báo quốc tế và phút
thứ 5 sau giờ tròn đối với trạm phát báo trong nước.
+ Thay giản đồ và lên giây đồng hồ máy tự ghi sau quan trắc 7h, không chậm quá
7h20phút.
+ Các hạng mục: tuyết (nếu có), trạng thái mặt đất, lượng bốc hơi, chỉ quan trắc lúc
7 và 19 giờ. Lượng mứ ghi tổng lượng mưa từ 19 giờ đếm 7 giờ vào quan trắc lúc 7
giờ, tổ lượng mưa từ 7 giờ đến 19 giờ vào quan trắc 19 giờ.
1.4.2 Trong kỳ quan trắc phụ
+ Tuân theo trình tự ở mục 1.4.1 không đảo lộn thứ tự; các hạng mục không quan
trắc trọng kỳ quan trắc phụ thì bỏ qua.
-
3
+ Thời gian không kéo dài hay rút ngắn, khí áp phải đọc đúng giờ tròn.
1.5 Qui định quan trắc.
1.5.1 Quan trắc viên phải tuân thủ các quy định sau:
+ Trước khi quan trắc phải kiểm tra tình trạng thiết bị, dụng cụ, nếu có sai lệch thì
phải chấn chỉnh kịp thời và ghi vào sổ quan trắc.
+ Dụng cụ hỏng phải thay, không có dự trữ thì phải báo cáo xin thay.
+ Chỉ ghi những điều quan trắc được, cấm bịa số liệu. Triệt để tuân thủ trình tự quan
trắc, thực hiện giờ nào việc ấy, không làm sớm, làm chậm, bỏ sót hoặc làm sai.
1.5.2 Ghi kết quả quan trắc
+ Kết quả quan trắc phải ghi vào sổ và bảng số liệu theo mẫu của Ngành.
+ Các sổ quan trắc phải ghi các hạng mục ở đầu trang như tên Trạm, năm, tháng,
cấc chỉ dẫn về dụng cụ quan trắc …
+ Số liệu ghi ngay vào sổ bằng bút chì đen, đúng chỗ quy định, chữ viết rõ rang.
Trường hợp cần sửa chữa, không được tẩy xóa, chỉ gạch số cũ đi bằng một gạch
thanh, sao cho sau khi gạch vẫn còn đọc được số liệu và gi số chữa lên góc bên phải
phía trên.
1.5.3 Quy toán kết quả quan trắc và lập bảng số liệu
+ Các số liệu vần được tính toán ngay sau quan trắc. Các giản đồ phải quy toán
ngay sau khi thay.
+ Các bảng số liệu phải được ghi cập nhật, đủ số lượng, với chất lượng tin cậy.
Trước khi gửi về Đài và Tổng cục, phải kiểm tra kỹ và có ý kiến của Trưởng Trạm.
Bảng số liệu sao thành 2 hoặc 3 bản (tùy theo yêu cầu), gửi về Đài vào ngày 5 mỗi
tháng, kèm theo sổ quan trắc và giản đồ.
+ Hàng tháng, Trạm phải gửi BCT-2, riêng tháng 1 và tháng 7 gửi thêm BCT-3 về
Đài KTTV khu vực và Cục Mạng lưới.
1.6 Vườn Khí tượng
Vườn Khí tượng là nơi “phơi sáng”, dụng cụ và cách bố trí lắp đặt dụng cụ trong
vườn có ảnh hưởng lớn đến giá trị số liệu.
1.6.1 Lựa chọn địa điểm và xây dựng vườn khí tượng
+ Việc lựa chọn địa điểm đặt trạm nói chung, việc đặt vị trí vườn quan trắc và quy
hoạch mặt bằng ở trạm nói riêng phải theo đúng những tiêu chuẩn chuyên môn do
tổng cục khí tượng thủy văn quy định, trên cơ sở quy định của tổ chức khí tượng
quốc tế.
+ Vườn quan trắc phải đặt ở nơi quang đãng, có tính tiêu biểu cho vùng đặt trạm,
gần vườn không được có các chướng ngại vật ảnh hưởng đến dụng cụ quan trắc, từ
đó số liệu bị hạn chế tính tiêu biểu.
+ Cây cối nhà cửa riêng lẻ, phải cách xa vườn quan trắc ít nhất 10 lần chiều cao của
chúng. Dãy phố, rừng cây, công trình kiến trúc đồ sộ phải cách vườn it nhất 20 lần
chiều cao của chúng. Khoảng cách từ vườn quan trắc đến sông hồ ít nhất là 100m.
Vườn không đặt cạnh các nhà máy lớn, cạnh lò gạch, lò vôi, đường cái nhiều xe qua
lại, hay gần bến ôtô, hoặc khe, vực sâu. Tuy nhiên, tùy yêu cầu phục vụ của từng
trạm, tiêu chuẩn chọn địa điểm có những thay đổi.
4
+ Mặt đất vườn phải bằng phẳng, không có hố, rãnh, gò, đống hoặc không thấp hơn
xung quanh. Vườn hình vuông hoặc chữ nhật, cạnh vườn nằm đúng hướng đông,
tây, nam, bắc. kích thước thông thường là 26 x 26m, bé nhất là 16 x 20m, lớn nhất
là 26 x 36m, cá biệt có thể là 16 x 16m.
- Vườn có hàng rào thoáng theo mẫu chung, cao 1m đến 1,2m, sơn trắng và thoáng
gió. Cửa đặt ở phía bắc vườn.
1.6.2. Bố trí máy móc trong vườn
G
1
1. Máy gió
2. Nhiệt và ẩm ký
3. Nhiệt kế khô và ẩm
4. Vũ lượng ký
5. Thùng đo mưa
6. Nhật quang ký
7. Nhiệt kế đo nhiệt độ đất
8. Thiết bị đo bốc hơi
9. Thiết bị đo bức xạ
G: cửa vườn
1
2
3
4
5
6
8
8
7
9
Nguyên tắc cơ bản của việc bố trí máy trong vuờn làm sao để các máy không ảnh
hưởng lẫn nhau, đồng thời cần chú ý đến điều kiện thuận tiện cho việc quan trắc.
+ Máy đo gió đặt về phía Bắc, nhật quang ký, nhiệt dế đo nhiệt độ đất đăth ở phía
Nam vườn, những máy thường quan trắc nên đặt gần đường đi dọc giữa vườn.
+ Sơ đồ bố trí máy tại Trạm do Cục Mạng lưới xét duyệt, không được tự động thay
đổi.
1.6.3 Bảo quản vườn khí tượng.
Vườn khí tượng luôn được giữ sạch sẽ, mặt vườn không được đọng nước. Máy móc
và các thiết bị cần được lau chùi sạch sẽ, nếu bị han rit, hư hỏng cần được sửa chữa
hoặc thay thế kịp thời. Lều khí tượng, cột gió, hàng rào mỗi năm sơn trắng một lần.
5
-
CHƯƠNG 2
ĐẠI CƯƠNG VỀ ĐO ĐẠC CÁC YẾU TỐ KHÍ TƯỢNG
2.1 Đặc điểm về đo đạc các yếu tố khí tượng
Để đo giá trị của một đại lượng vật lí nào đó với một độ chính xác đã được xác định
trước, ta phải thực hiện phép đo này trong những điều kiện nhất định. Những điều
kiện này bao gồm: sự lắp đặt, kiểm định, khắc độ thang đo,... các thiết bị đo và một
phần rất quan trọng là kĩ năng của kĩ thuật viên.
Để nghiên cứu các hiện tượng khí tượng trên một vùng rộng lớn của Trái đất, ta
không thể chỉ quan trắc tại một điểm riêng lẻ mà cần phải quan trắc đồng thời tại
nhiều điểm, tập hợp những điểm quan trắc đó là mạng lưới trạm quan trắc khí
tượng. Để các kết quả quan trắc trong toàn mạng lưới trạm khí tượng có thể so sánh
được, cùng với sự thống nhất trong quy trình quan trắc, còn phải có những thiết bị
đo giống nhau về độ chính xác, đặc tính hoạt động, chế độ bảo dưỡng và sự thống
nhất trong kiểm định. Ngoài ra, cần phải tính đến những khoảng biến thiên động lực
học của các đại lượng vật lí sao cho các thiết bị đo đạc tại xích đạo và vùng cực đều
có độ chính xác như nhau.
Tất cả điều này giải thích tại sao toàn mạng lưới trạm quan trắc khí tượng trên Trái
đất phải tuân thủ một cách nghiêm ngặt các quy trình, quy phạm trong quan trắc với
những thiết bị đo đạc đã quy chuẩn được Tổ chức Khí tượng Thế giới (WMO) ban
hành.
Việc quan trắc các yếu tố khí tượng ngày càng rộng rãi và thiết bị đo ngày càng
phong phú và đa dạng. Tuy nhiên, những yếu tố khí tượng phổ biến cần phải đo và
những thiết bị đo tương ứng được dẫn ra trong bảng 1.1.
2.2 Những yêu cầu cơ bản đối với thiết bị đo khí tượng
Một trạm khí tượng được đặt ở nơi có thể đại diện được cho khu vực đó. Nghĩa là
các đại lượng khí tượng đo được tại trạm đó phải đặc trưng cho một vùng tương đối
rộng xung quanh trạm. Vườn khí tượng phải được đặt ở những nơi không có các
chướng ngại vật để khỏi ảnh hưởng tới các phép đo. Thông thường, vườn khí tượng
phải được đặt trên một mảnh đất bằng phẳng có trồng cỏ ngắn.
Trong vườn khí tượng, các thiết bị đo nhiệt độ và độ ẩm phải đặt trong lều khí
tượng để tránh ảnh hưởng trực tiếp của bức xạ Mặt trời cũng như những ảnh hưởng
bất lợi của môi trường xung quanh.
Lều khí tượng phải được thiết kế sao cho giảm thiểu được những ảnh hưởng bất lợi
của môi trường tới các thiết bị đo nhưng vẫn đảm bảo được các điều kiện khí tượng
giống như không khí bên ngoài.
Bảng 1.1. Những yếu tố khí tượng được đo đạc phổ biến và thiết bị đo tương ứng
Yếu tố khí tượng
Nhiệt độ không khí, đất, nước
Thiết bị đo
Nhiệt kế, nhiệt kí
6
Độ ẩm không khí
Ẩm kế, ẩm kí
Giáng thuỷ
Vũ kế, vũ kí
Bốc hơi
Ống, thùng, chậu bốc hơi
Bức xạ Mặt trời
Trực xạ kế, tổng xạ kế, thụ xạ kế
Thời gian Mặt trời chiếu sáng
Nhật quang kí
Khí áp
Áp kế, áp kí
Gió
Phong kế, phong kí
Tầm nhìn xa
Mắt thường, quang kế
Lượng và dạng mây
Mắt thường
Độ cao chân mây
Cầu buộc, cầu bay, mắt thường
Hiện tượng khí tượng
Tai và mắt thường
Nói chung, lều khí tượng thường được làm bằng gỗ (vật liệu dẫn nhiệt kém), đủ
rộng để đặt các thiết bị đo khí tượng và có vách chớp để đảm bảo thông gió tốt mà
vẫn giảm đến mức thấp nhất hiệu ứng của nhiệt bức xạ. Mái lều gồm hai lớp gỗ
được tách biệt bởi một lớp không khí để cách nhiệt. Sàn lều gồm hai tấm ván gối
lên nhau để thông gió. Lều được sơn màu trắng cả bên trong và ngoài. Việc định
hướng lều phải đảm bảo để khi mở của lều, Mặt trời không rọi ánh sáng trực tiếp
vào các thiết bị đo.
1.3 Các phép đo khí tượng trực tiếp và gián tiếp
Có hai phép đo cơ bản thường được dùng rộng rãi trong khí tượng, đó là phép đo
trực tiếp và phép đo gián tiếp.
1. Phép đo trực tiếp
Đó là những phép đo thông qua những thiết bị đo có bộ cảm biến đặt tại điểm đo để
đo các yếu tố khí tượng. Những thiết bị này được gọi là thiết bị đo trực tiếp, chúng
bao gồm những thiết bị đo đạc khí tượng bề mặt thông thường như thiết bị đo nhiệt
độ, độ ẩm, khí áp, gió,... Ngoài ra, còn có một số thiết bị đo khí tượng trực tiếp từ xa
là những thiết bị đo có đầu phát ra số liệu truyền đến quan trắc viên bằng vô tuyến.
2. Phép đo gián tiếp
Đó là những phép đo thông qua những thiết bị đo có sử dụng tín hiệu âm thanh hoặc
sóng điện từ để đo các yếu tố khí tượng. Những thiết bị sử dụng các tín hiệu này
(thông thường là đo từ xa) được gọi là thiết bị khí tượng gián tiếp. Thiết bị loại này
bao gồm các loại như radar, bức xạ kế hồng ngoại, vệ tinh khí tượng,...
7
1.4 Sơ đồ cấu trúc và nguyên tắc hoạt động của thiết bị đo khí tượng
Trong các thiết bị đo khí tượng trực tiếp, căn cứ vào cách thức hiển thị thông tin, ta
có thể chia chúng thành hai loại cơ bản: thiết bị đo kiểu tương tự và thiết bị đo kiểu
hiện số.
Các thiết bị đo kiểu tương tự sẽ hiển thị giá trị của đại lượng cần đo dưới dạng số
đọc liên tục trên một thang chia độ thích hợp của bộ chỉ thị. Nhiệt kế thông thường
chính là một thiết bị đo kiểu tương tự rất điển hình. Khi đo bằng những thiết bị này,
quan trắc viên sẽ đọc giá trị của nhiệt độ có độ chính xác phụ thuộc chủ yếu vào sự
chia thang độ của bộ chỉ thị. Trong thực tế, độ chính xác của phép đo không vượt
quá giá trị của nửa vạch trên thang độ được chia.
Ngoài ra còn có những thiết bị đo kiểu tương tự cho phép chúng ta ghi giá trị của
những đại lượng đo được lên giấy dưới dạng một đồ thị theo thời gian.
Thiết bị đo kiểu tương tự có thể được mô tả dưới dạng tổng quát của một sơ đồ khối
(hình 2.1). Theo hình 2.1, thiết bị này là sự hợp thành của 3 khối chức năng: bộ cảm
biến, bộ biến đổi tín hiệu và bộ chỉ thị tương tự.
Bộ cảm biến
Bộ biến đổi tín
hiệu
Bộ chỉ thị
tương tự
Hình 2.1. Sơ đồ khối của thiết bị đo kiểu tương tự
Thiết bị đo kiểu hiện số hiển giá trị của đại lượng đo được dưới dạng chữ số rời rạc
trên một màn hình hiện số. Những giá trị này có thể được in lên một băng giấy nhờ
máy in.
Thiết bị đo kiểu hiện số có thể được mô tả dưới dạng tổng quát của một sơ đồ khối
(hình 2.2). Từ hình 2.2 ta thấy, thiết bị này cũng được hợp thành từ 3 khối chức
năng: bộ cảm biến, bộ biến đổi tương tự sang chữ số và màn hình.
Các bộ phận của hai kiểu thiết bị trên đều có những chức năng như sau:
1. Bộ cảm biến
Là bộ phận tiếp xúc với yếu tố khí tượng cần đo. Thông thường, tính chất vật lí của
bộ cảm biến thay đổi theo sự biến đổi của yếu tố khí tượng cần đo đó, đồng thời sản
ra tín hiệu tại đầu đo của bộ cảm biến. Tín hiệu của bộ cảm biến cơ học đơn giản là
sự thay đổi cơ học trạng thái của nó, trong khi tín hiệu của bộ cảm biến điện có thể
là sự thay đổi điện trở hoặc một thông số điện khác.
Bộ cảm biến
Bộ biến đổi tín
hiệu tương tự
8
Màn hình
(tín hiệu in ra)
Hình 2.2. Sơ đồ khối của thiết bị đo kiểu hiện số
2. Bộ biến đổi tín hiệu tương tự
Tuỳ theo sự hiển thị bằng thiết bị báo hay thiết bị ghi mà bộ biến đổi tín hiệu tương
tự sẽ chuyển tín hiệu từ bộ cảm biến thành những dạng tín hiệu khác nhau một cách
thích hợp. Sự biến đổi tín hiệu đôi khi chỉ là sự khuếch đại đơn giản tín hiệu từ bộ
cảm biến.
Bộ biến đổi tín hiệu tương tự sang chữ số có chức
năng tương tự như thiết bị chữ số. Tín hiệu tương
tự của bộ cảm biến được đổi sang dạng chữ số
thích hợp hiển thị trên màn hình hiện số (hình 2.3).
Hình 2.3. Khí áp kế hiện số
3. Tín hiệu đầu ra
Tín hiệu thu được từ bộ biến đổi tín hiệu tương tự sẽ được bộ chỉ thị biến đổi tiếp
theo sang dạng để quan trắc viên thấy được, màn hình hiển thị chữ số biểu thị giá trị
đại lượng cần đo dưới dạng chữ số.
Ví dụ, một thiết bị đo kiểu tương tự đo tốc
độ gió dùng bộ cảm biến quay chong chóng
hình gáo. Bộ biến đổi tín hiệu có thể là một
máy phát điện một chiều, điện áp lấy từ các
cực của máy phát điện sẽ được đưa vào
thiết bị hiển thị (vôn kế - hình 2.4).
Trong một số thiết bị kiểu tương tự, bộ cảm
biến cũng có chức năng như chức năng của
bộ biến đổi tín hiệu. Ví dụ như đối với máy
gió Wild, bộ biến đổi tín hiệu của máy này
là một bảng kim loại xoay quanh một trục
nằm ngang. Khi đó, áp lực của gió tác động
lên bảng sẽ được biến đổi thành góc lệch
Hình 2.4. Bộ chỉ thị kiểu tương
giữa bảng với phương thẳng đứng. Góc
lệch này tương ứng với vị trí các cung răng
tự của máy đo gió
gió được gắn sẵn nên ta đọc trực tiếp được
số chỉ tốc độ gió trên cung răng gió. Điều này có nghĩa là bộ cảm biến vừa là bộ
biến đổi tín hiệu, vừa là thiết bị hiển thị.
Những bộ chỉ thị hiện số có thể hoạt động theo nguyên tắc cơ hoặc nguyên tắc điện.
Ví dụ, khí áp kế hiện số cơ đơn giản có bộ cảm biến là chồng hộp rỗng đàn hồi, tín
hiệu đầu ra của nó là độ dịch chuyển của mặt hộp. Bộ biến đổi kiểu tương ứng là bộ
bánh răng có vai trò biến đổi độ dịch chuyển của mặt hộp thành số vòng quay của
trục quay. Trục quay lại gắn với vòng số ở bộ phận hiện thị.
Đối với khí áp kế anênôit kiểu cơ học hiện số biến đổi đơn giản, bộ cảm biến là một
hộp áp lực, độ lệch cơ học của màng hộp sẽ là tín hiệu của bộ cảm biến. Bộ biến đổi
tín hiệu tương tự sang chữ số dựa trên cơ cấu bánh răng điều khiển bằng tay. Cơ cấu
này biến đổi độ lệch của màng hộp thành vòng quay của một trục mà màn hình hiện
số, ống đếm số vòng kiểu đảo chiều 5 số được ghép vào đó. Một thiết bị báo kiểu
9
tiếp xúc điện sẽ báo có tiếp xúc hay không tiếp xúc giữa màng hộp và các thanh
truyền nhỏ của bộ phận biến đổi.
Trong khí tượng, người ta thường sử dụng các cách ghi giá trị của những đại lượng
cần đo như sau:
a) Ghi lên giản đồ bằng giấy: Một ngòi bút chứa mực vạch lên một giản đồ cuộn
quanh một tang trống, tang trống quay nhờ đồng hồ điều khiển. Kết quả là giản đồ
ghi lại được đồ thị của đại lượng khí tượng cần đo theo thời gian.
b) Ghi lên giản đồ bằng giấy phủ sáp ong: Một ngòi bút nhọn vạch lên giản đồ
cuộn quanh một tang trống, tang trống quay nhờ đồng hồ điều khiển. Kết quả là
giản đồ ghi lại được đồ thị của đại lượng khí tượng cần đo theo thời gian.
c) Ghi lên giản đồ bằng giấy cảm ứng điện: Một điện cực đầu nhọn có dòng điện đi
qua sẽ vạch lên giản đồ cuộn quanh tang trống, tang trống quay nhờ một đồng hồ
điều khiển. Kết quả là giản đồ ghi lại được đồ thị của đại lượng khí tượng cần đo
theo thời gian.
d) Ghi lên dải ru băng: Một dải ru băng màu sẽ in vị trí đầu kim của thiết bị báo
kiểu microampe kế tương tự. Kết quả là ru băng ghi lại được đồ thị của đại lượng
khí tượng cần đo theo thời gian.
e) Ghi lên băng giấy dưới dạng số: Giá trị của đại lượng cần đo được ghi lên băng
giấy vào những thời gian nhất định.
Những phương pháp ghi trên thường được sử dụng ở những trạm khí tượng bề mặt
có người quan trắc, còn tại những trạm khí tượng tự động, người ta dùng băng giấy
đục lỗ kiểu mã điện báo hoặc ghi bằng mã số nhị nguyên trên băng từ.
Nhiều thiết bị tự ghi được dùng trong khí tượng là kiểu cảm biến cơ học mà trong
đó độ lệch ở đầu tự do của bộ cảm biến sẽ được cánh tay đòn khuếch đại lên và một
chiếc cần mang ngòi bút sẽ hoạt động. Ngòi bút chứa mực sẽ ghi lên giản đồ được
cuốn quanh tang trống, tang trống quay nhờ một đồng hồ điều khiển. Vì lực của bộ
cảm biến rất nhỏ nên những thiết bị này phải hạn chế được ma sát giữa các phần di
động cũng như ngòi bút và giấy.
Giản đồ làm bằng giấy dùng trong thiết bị đo phải được xử lí đặc biệt, bảo đảm để
đường ghi được rõ ràng, không bị nhòe nét. Mực được dùng phải là loại mực lâu
khô và không bị đóng băng.
Đồng hồ dùng trong thiết bị đo, có trang bị bộ phận điều chỉnh tốc độ, có thể gắn
chặt vào phía trong tang trống và quay cùng với nó; hoặc đồng hồ được gắn chặt
vào đế thiết bị (trường hợp này chỉ có trống quay), kiểu này có ưu điểm là dễ khử
độ rơ của trống cuộn giản đồ. Độ rơ là một sai số về thời gian trong thiết bị ghi. Nói
chung kiểu thiết bị này phải được so sánh với thiết bị đọc trực tiếp một cách đều
đặn.
10
CHƯƠNG 3
THIẾT BỊ ĐO KHÍ ÁP
3.1 Bản chất của khí áp và các đơn vị đo
Khí quyển của Trái đất, nhờ trọng lượng của nó tác động một áp lực lên bề mặt Trái
đất; áp lực đó bằng trọng lượng của một cột không khí thẳng đứng có thiết diện
ngang là một đơn vị diện tích ở trên bề mặt Trái đất và kéo dài tới giới hạn trên của
khí quyển. Nhờ thí nghiệm của Torricelli năm 1643, người ta đã chế tạo khí áp kế
thuỷ ngân và về sau, năm 1848, người ta phát minh thêm khí áp kế hộp dùng để đo
khí áp.
Cột thuỷ ngân của khí áp kế cân bằng với cột không khí. Những thay đổi của khí áp
gây nên sự thay đổi về độ cao của cột thuỷ ngân. Đây là cơ sở cho việc khắc thang
đo khí áp trên khí áp kế thuỷ ngân. Thông thường, độ cao này được đo bằng milimét
hoặc bằng bằng inch (1inch = 2,54cm). Sự thay đổi độ cao cột thuỷ ngân trong các
khí áp kế không những phụ thuộc vào khí áp mà còn phụ thuộc vào nhiệt độ và lực
trọng trường. Điều này buộc phải đưa ra định nghĩa về điều kiện tiêu chuẩn của
phép đo khí áp, đó là điều kiện nhiệt độ bằng 0 0C và gia tốc trọng trường bằng
9,8065m/s2. Trong khí tượng, đơn vị của khí áp thường được dùng rộng rãi là:
mmHg, miliba (mb), Pascal (Pa), hecto Pascal (hPa, 1hPa = 1 mb = 100Pa =
0,750062mmHg = 0,02953 inchHg; 1Pa = 1N/m ), trong đó, Pa là đơn vị đo cơ bản
trong hệ thống đơn vị đo quốc tế SI.
Trong điều kiện tiêu chuẩn, cột thuỷ ngân cao 760mm sẽ tác động một áp suất
1013,25 hPa, tương đương với 10322,92 kg/m2.
3.2 Nguyên lí hoạt động của thiết bị đo khí áp
Như đã đề cập đến khí áp kế thuỷ ngân ở trên, trọng lượng cột không khí có thể cân
được trên một chiếc cân đặc biệt hoặc nhờ vào tiết diện ngang của cột đã biết, đọc
trực tiếp các đơn vị đo khí áp tương đương trên thang độ chiều dài của cột. Trong
khí tượng, để đo khí áp, người ta thường dùng các dụng cụ khác nhau mà hoạt động
của chúng dựa trên ba nguyên tắc vật lí cơ bản sau:
1) Khí áp kế thủy ngân hoạt động dựa trên sự cân bằng trọng lượng của cột thuỷ
ngân với khí áp (định luật thuỷ tĩnh);
2) Khí áp có thể cân bằng với màng của một hộp kim loại rỗng được làm căng
phồng lên bằng lò xo. Khí áp kế hộp rỗng hoạt động dựa trên sự cân bằng giữa
lực đàn hồi của hộp kim loại rỗng với khí áp (tính chất đàn hồi của vật rắn). Sự
thay đổi của khí áp tạo nên sự dịch chuyển của màng hộp. Độ uốn của màng
được khuếch đại thích hợp để có thể đọc trên thang độ khắc độ mb hoặc mmHg;
3) Nhiệt độ sôi của chất lỏng phụ thuộc vào khí áp. Ở một nhiệt độ đã cho, khi áp
suất hơi nước của chất lỏng sẽ đạt tới sự cân bằng với khí áp thì chất lỏng bắt
đầu sôi. Sự phụ thuộc của nhiệt độ chất lỏng sôi phụ thuộc vào khí áp sẽ trở
thành khả năng đo khí áp (nguyên lí sôi kế);
11
Ba nguyên lí cơ bản này là cơ sở để thiết kế các dụng cụ đo khí áp. Trong khuôn
khổ cuốn giáo trình này, chúng tôi chỉ trình bày khí áp kế thuỷ ngân, loại khí áp kế
phổ biến trong mạng lưới khí tượng hiện nay.
3.3 Khí áp kế thuỷ ngân
Khí áp kế thuỷ ngân được cấu tạo chủ yếu bởi một ống thuỷ tinh chứa thuỷ ngân có
một đầu hàn kín còn đầu kia để hở cắm vào chậu chứa thuỷ ngân. Khí áp tác động
lên bề mặt thuỷ ngân để hở trong chậu sẽ cân bằng với trọng lượng cột thuỷ ngân
trong ống. Ống đủ dài để có sự thay đổi về chiều cao của cột thuỷ ngân trong ống
theo các biến đổi của khí áp. Chiều cao của cột thuỷ ngân được đo bằng thang độ
gắn vào ống. Vì nhiệt độ ảnh hưởng tới cả cột thuỷ ngân lẫn thang đo nên người ta
gắn nhiệt kế vào thang đo khí áp kế. Số đọc nhiệt độ được dùng làm số hiệu chính
khí áp. Khí áp kế thuỷ ngân thường có những loại cơ bản như khí áp kế KEW, khí
áp kế Fortin và khí áp kế hộp. Ta sẽ tiến hành nghiên cứu ba loại khí áp kế này.
3.3.1 Khí áp kế KEW
1. Cấu tạo và nguyên tắc hoạt động
Khí áp kế KEW là loại khí áp
kế thuỷ ngân kiểu chậu có
thang độ bổ chính. Cấu tạo của
nó (hình 3.1) bao gồm một ống
thuỷ tinh (1) dài khoảng 80cm
đầu trên hàn kín, đầu dưới
được gắn vào nắp chậu (2)
bằng nhựa cứng hoặc gang.
Chậu gồm ba phần vặn khớp
với nhau, phần giữa có vách
ngăn (3), trên vách ngăn có
các lỗ thủng (4) để làm giảm
mức độ sánh của thuỷ ngân và
giữ cho không khí khỏi lọt vào
trong ống thuỷ tinh. Ống thuỷ
tinh và chậu khí áp được được
đổ đầy thuỷ ngân. Khoảng
trống trên mặt thuỷ ngân được
coi là chân không (10-3-10Hình 3.1. Cấu tạo khí áp kế KEW
4
mmHg). Mặt thuỷ ngân trong
chậu được thông với không
khí bên ngoài nhờ lỗ nhỏ (5) trên nắp chậu. Lỗ thông khí này luôn được đậy bằng
một ốc có vòng đệm bằng da.
Việc đo độ cao cột thuỷ ngân trong ống thuỷ tinh được tiến hành theo thang độ (6)
khắc trên vỏ bọc (7) bằng thau bao quanh suốt chiều dài của ống. Điểm 0 của thang
độ là mực thủy ngân trong chậu của khí áp kế. Ở phần vỏ bọc ghi thang độ có hai
khe rộng (8) để nhìn được đầu cột thuỷ ngân trong ống thuỷ tinh. Trên hai khe này
có lắp một vòng mang con chạy (9) chuyển dịch lên xuống được nhờ ốc vặn (10).
12
Mép dưới của con chạy là mốc để ngắm đầu cột thuỷ ngân trong ống. Trên con chạy
khắc 10 vạch chia, chiều dài của 10 vạch chia này bằng chiều dài của 19 vạch chia
trên thang độ. Theo cách chia, ta có thể đọc chính xác tới 0,1 số chỉ khí áp trên
thang độ của khí áp kế. Ở phần nửa dưới của vỏ bọc có gắn một nhiệt kế thuỷ ngân
(11) để đo nhiệt độ của thuỷ ngân trong khí áp kế.
Với việc dùng thang độ bổ chính ở khí áp kế KEW, để đo khí áp, ta chỉ cần xác định
vị trí của đầu cột thuỷ ngân trong ống thuỷ tinh mà không cần phải xác định vị trí
của mực thuỷ ngân trong chậu.
2. Cách sử dụng
Như đã biết, sự thay đổi của khí áp theo theo phương ngang là không lớn, vì vậy, tại
trạm khí tượng, trị số khí áp ở trong và ngoài phòng làm việc được coi là như nhau.
Vì vậy, khí áp kế được đặt trong phòng làm việc, treo trên một cột gỗ hoặc tường
nhà trong một hộp bảo vệ sao cho mực 1000mb trên thang độ ở cao hơn nền nhà từ
1,4-1,5m và chậu khí áp kế ở vị trí tự do không chạm vào thành hộp bảo vệ (hình
3.2). Các ốc vít giữ vòng
ôm chậu khí áp kế được vặn
vừa chạm tới thành ngoài
của chậu. Ở thành hộp bảo
vệ, đối diện với khe hở trên
vỏ khí áp kế, có gắn một
mảnh kính trắng để nhìn
thấy rõ đầu cột thuỷ ngân
trong ống thủy tinh. Khí áp
kế phải được đặt xa cửa sổ,
cửa ra vào, nơi không có
ánh nắng Mặt trời trực tiếp
chiếu vào và phải xa lò sưởi
để tránh ảnh hưởng của
những tác động do va chạm,
những dao động đột ngột
của nhiệt độ. Để soi sáng
khí áp kế khi quan trắc, ta
Hình 3.2. Tủ đựng, móc treo và cột lắp khí áp kế
có thể dùng đèn pin hoặc
bóng đèn có công suất
không quá 25W và chỉ được bật đèn sáng trong khi quan trắc (tuyệt đối không được
dùng đèn dầu, nến hoặc diêm để soi).
Khi quan trắc cần tiến hành theo trình tự sau:
- Đọc nhiệt độ trên nhiệt kế phụ của khí áp kế chính xác tới 0,10C;
- Dùng ngón tay gõ nhẹ vào thành ống, khoảng gần đầu cột thuỷ ngân trong ống
thuỷ tinh và gần chậu của khí áp kế;
- Vặn cho con chạy vượt lên khỏi mặt thuỷ ngân trong ống thuỷ tinh rồi vặn dần cho
con chạy dịch chuyển xuống và dừng tại vị trí hai đáy của con chạy tiếp tuyến với
đỉnh cột thuỷ ngân;
13
- Đọc trị số khí áp chính xác tới 0,1mb. Phần nguyên đọc trên thang độ, là số chỉ
của vạch trùng hoặc ngay sát với mép dưới của con chạy. Phần thập phân đọc trên
con chạy, là số chỉ của vạch chia nào trùng nhất với vạch chia bất kì nào đó trên
thang độ.
3.3.2 Khí áp kế Fortin
1. Cấu tạo và nguyên tắc hoạt động
Khí áp kế Fortin là loại khí áp kế thuỷ ngân kiểu chậu mà thang độ của nó không
phải bổ chính về sự thay đổi mực thuỷ ngân trong chậu. Chậu khí áp kế gồm có ba
bộ phận chính: túi da phía dưới có vít điều chỉnh mực thủy ngân, vách ngăn là một
ống thuỷ tinh và đỉnh chậu có đầu
kim ngà dùng làm mực chuẩn chỉ
điểm 0 của thang độ khí áp kế. Các
phần của chậu được nén lại với nhau
bằng các bulông, còn thuỷ ngân
trong chậu được cách li với các bộ
phận bằng kim loại khác nhờ những
nắp bằng gỗ để tránh các phản ứng
hoá học có thể xảy ra giữa thuỷ ngân
với một số kim loại đó. Một lỗ nhỏ ở
đầu chậu lắp vít làm lỗ thông duy
nhất cho không khí vào trong chậu.
Chậu được gắn vào ống kim loại có
khe hở (dọc thành ống). Ống này
mang thang độ khí áp kế, nhiệt kế
liên kết và giữ vai trò bảo vệ ống khí
áp kế thuỷ tinh.
Một cách chi tiết, khí áp kế Fortin
được dẫn ra trong hình 3.4. Từ hình
vẽ ta thấy, khí áp kế này gồm có những bộ phận sau: ống khí áp kế (1); chất gắn (2);
nút gỗ hoàng dương (3); lỗ không khí và vít thuỷ ngân (4); mặt trên của chậu bằng
đồng thau (5); vòng đệm bằng da (6); ống thuỷ tinh hình trụ (7); màng ngăn bẩn (8);
ống lót phía dưới bằng gỗ hoàng dương (9); vòng đệm bằng da (10); chụp bằng
đồng (11); bao da (12) và vít điều chỉnh (13).
Độ chính xác của cột thuỷ ngân được xác định bằng du xích vernier lắp ở phần khe
hở phía trên của ống kim loại. Du xích vernier được di chuyển tỉ lệ với thang độ
bằng vít vi kế.
Ống kim loại bảo vệ được lắp một chiếc móc
kim loại ở phía trên để treo khí áp kế vào
tường.
Du xích vernier được lắp trên mọi khí áp kế
thuỷ ngân (hình 3.4). Về thực chất đó là thang
độ phụ thêm, di chuyển được và có khả năng
14
Hình 3.4. Du xích Verniê
trượt dọc theo thang độ chính khiến cho gờ dưới của nó sẽ chạm tới mặt khum của
thuỷ ngân (nhìn thấy được qua khe hở của ống bảo vệ).
Khi đọc khí áp kế, mép dưới của du xích vernier (vạch 0 của thang vernier) được
đưa tới sát đỉnh cột thuỷ ngân. Nếu thấy vạch 0 của du xích vernier ở giữa hai độ
chia của thang chính, người ta sẽ ghi độ chia nào của thang vernier trùng khớp với
độ chia của thang độ chính. Giá trị bằng số của độ chia thang vernier này sẽ biểu thị
phân số của một độ chia thang độ chính mà qua đó điểm 0 của vernier sẽ nằm ở trên
độ chia của thang độ chính sát ngay dưới điểm 0 đó.
Ví dụ, du xích vernier có 10 độ chia với độ dài tổng cộng bằng 9 độ chia của thang
độ chính. Nếu điểm 0 của du xích vernier ở giữa 750 và 751mm trên thang độ
chính, trong khi độ chia thứ 4 của vernier trùng với độ chia của thang độ chính thì ta
đọc khí áp trên thang độ là 750,4mm vì có 4/10 của độ chia thứ 751mm của thang
độ chính ở trên 750mm.
2. Cách sử dụng
Khí áp kế Fortin được đặt trong hộp bảo vệ treo trên một cột gỗ hoặc tường nhà sao
cho mực 1000mb trên thang độ cách nền nhà 1,4-1,5m và chậu khí áp kế ở vị trí tự
do, không chạm vào thành hộp bảo vệ. Các ốc vít ở vòng ôm chậu khí áp kế được
vặn đến mức vừa chạm tới thành ngoài của chậu. Ở thành hộp bảo vệ, đối diện với
khe hở trên vỏ khí áp kế, có gắn một mảnh kính trắng để dễ dàng nhìn thấy rõ đầu
cột thuỷ ngân trong ống thủy tinh. Không được đặt khí áp kế gần cửa sổ và cửa ra
vào để tránh những tác động do va chạm. Phải đặt khí áp kế cách xa các nguồn nhiệt
như nơi có ánh nắng Mặt trời trực tiếp chiếu vào, các lò sưởi để tránh ảnh hưởng tới
số chỉ của khí áp kế. Để soi sáng khí áp kế khi quan trắc, có thể dùng đèn pin hoặc
bóng đèn công suất không quá 25W và chỉ được bật đèn sáng trong khi quan trắc
(tuyệt đối không được dùng đèn dầu, nến hoặc diêm để soi).
Trong quá trình quan trắc cần tuân theo các trình tự như sau:
- Đọc nhiệt độ trên nhiệt kế phụ của khí áp kế chính xác tới 0,10C;
- Dùng ngón tay gõ nhẹ vào thành ống bảo vệ, ở khoảng đầu cột thuỷ ngân trong
ống thuỷ tinh và gần chậu khí áp kế;
- Vặn ốc điều chỉnh ở đáy chậu để nâng mực thuỷ ngân trong chậu lên vừa chạm tới
đầu mũi kim ngà;
- Xoay núm vặn ở phía trên để đưa vị trí hai mép dưới của con chạy về tiếp tuyến
với đỉnh cột thuỷ ngân trong ống thuỷ tinh để đọc trị số khí áp (cách đọc như đối
với khí áp kế KEW);
- Cuối cùng nới ốc điều chỉnh ở đáy chậu khí áp kế để đưa mực thuỷ ngân trong
chậu xuống thấp hơn đầu mũi kim ngà.
3.3.3 Hiệu chính số đọc của khí áp kế thuỷ ngân về khí áp mực trạm
Trị số đọc khí áp kế khi đưa về khí áp mực trạm cần phải làm các hiệu chỉnh:
+ Hiệu chỉnh sai số khí cụ
+ Hiệu chỉnh về nhiệt độ 00C
15
+ Hiệu chỉnh về vĩ độ 450
+ Hiệu chỉnh về độ cao mực 0 mét.
Số hiệu chính về vĩ độ 450 và về độ cao 0 mét gọi là số hiệu chính gia tốc trọng
trường. Hai số hiệu chính này kết hợp với số hiệu chính về nhiệt độ 00C gọi là số
hiệu chính tổng hợp. Số hiệu chính này được tính sẵn, khi quan trắc ở trạm chỉ cần
tra bảng. Sau khi quan trắc khí áp kế, làm hiệu chính khí cụ. Lấy trị số nhiệt độ phụ
thuộc khí áp kết và số đọc khí áp kế đã hiệu chỉnh khí cụ, tra vản hiệu chính khí áp
tổng hợp, làm hiệu chính, sẽ được khí áp mực trạm.
Thí dụ: số đọc nhiệt kế phụ thuộc: 21,30C quy thành 21,50C
Số đọc khí áp kế: 998,4hPa, số hiệu chính khí cụ -0.1hPa, trị số thực của khí áp kế
là (998,4 hPa-0.1 hPa)=998,3hPa, quy thành 1000 hPa.
Nhìn ở cột 1000 hPa, dòng 21,5 được số hiệu chính -5,8
Khí áp mực trạm là 998,3 – 5,8 = 992,5 hPa
Chú ý: khi tra bảng hiệu chính cần quy các phần mười của nhiệt độ và khí áp kế
theo quy tắc sau:
* Nhiệt độ có phần mười: 8,9,1,2 quy về nhiệt độ tròn gần nhất
Thí dụ: 24,8 quy về 25,0
24,2 quy về 24,0
* Nhiệt độ có phần mười: 3,4,6,7 quy về phần mười 5
Thí dụ: 24,3 quy về 24,5
24,7 quy về 24,5
* Số đọc khí áp kế quy tròn về 10 hPa gần nhất.
Thí dụ: 998,5 quy về 1000
1014,0 quy về 1010
3.3.3 Cách tính khí áp về mực biển
Trị số khí áp mực trạm muốn đưa về mực mặt biển được tính như sau:
a/ Đối với trạm có độ cao < 20 mét, số hiệu chính về mặt biển là hằng số, lấy khí áp
mực trạm cộng đại số với số hiệu chính, được khí áp mặt biển.
b/ Những trạm có độ cao > 20 mét, dùng nhiệt độ không khí quy về độ nguyên chẵn
và khí áp mực trạm quy tròn về đơn vị 5 hPa, để tra bảng hiệu chính khí áp về mực
biển, được khí áp mực biển.
Thí dụ: Nhiệt độ không khí từ 15,0 đến 16,9 quy về 160C
từ 19,0 đến 20,9 quy về 200C
Khí áp mực trạm từ 992,5 đến 997,4 quy về 995 hPa
từ 997,5 đến 1002,4 quy về 1000 hPa
c/ Các trạm có độ cao từ 800m đến 2300 mét so với mực nước biển, không tính khí
áp mực biển, mà tính độ cao quy về mực đẳng áp 850 hPa, theo mét địa thế vị.
4. Các nguồn sai số chính đối với khí áp kế thuỷ ngân
16
a) Ảnh hưởng của gió
Những cơn gió mạnh và giật có thể gây nên những sai số của phép đo khí áp. Tác
động này có thể làm khí áp thay đổi đến khoảng 2-3mb.
b) Ảnh hưởng của sự phân tầng nhiệt độ trong phòng đặt khí áp kế
Khi trong phòng đặt khí áp kế do không được thông gió hay do một số điều kiện
đặc biệt nào đó làm cho nhiệt độ bầu nhiệt kế khí áp kế và phần trên của khí áp kế
có thể khác nhau. Để khắc phục, ta dùng một quạt điện nhỏ có thể ngăn ngừa,
nhưng trước khi đọc khí áp phải tắt quạt để tránh sự thay đổi có thể có của áp suất
động.
c) Ảnh hưởng của chất khí và hơi nước trong phần chân không của khí áp kế
Trong phần được gọi là chân không ở phía trên cột thuỷ ngân trong ống khí áp luôn
tồn tại một lượng chất khí và hơi nước nhỏ. Sự tồn tại của chất khí và hơi nước
trong khi áp kế được minh chứng mỗi khi ta nghiêng khí áp kế, tiếng va chạm giữa
giữa cột thuỷ ngân với đầu hàn kín của ống thủy tinh không rõ ràng; còn nếu trong
đó là chân không tuyệt đối, tiếng va cham sẽ rất đanh. Khi thực hiện việc thử này, ta
không được nghiêng quá mạnh để tránh gây vỡ khí áp kế.
Khi thấy những sai lệch rõ ràng về chỉ số của khí áp kế, ta cần tiến hành so sánh nó
với khí áp kế chuẩn.
d) Ảnh hưởng của mao dẫn
Đối với những ống khí áp kế cỡ nhỏ, sức căng mặt ngoài có thể gây ra sự giảm áp
suất đáng kể của cột thuỷ ngân. Hiệu ứng được biểu thị bằng bảng 3.1.
Bảng 3.1. Hiệu ứng của sự giảm áp suất do mao dẫn
Đường kính bên trong của ống khí áp kế
Giá trị giảm áp suất tuyệt đối (góc tiếp
xúc trung bình là 350)
0,200 = 5,1mm
0,0460 = 1,56mm
0,300 = 7,7mm
0,0230 = 0,73mm
0,400 = 10,3mm
0,0110 = 0,37mm
0,500 = 12,9mm
0,0060 = 0,20mm
0,600 = 15,5mm
0,0030 = 0,10mm
e) Ảnh hưởng của độ lệch thẳng đứng của khí áp kế
Hiệu ứng về độ lệch thẳng đứng của khí áp kế có thể biểu diễn theo công thức sau:
B = Bγcostγ
trong đó, B là chỉ số của khí áp kế thẳng đứng; B γ là chỉ số của khí áp kế để lệch so
với phương thẳng đứng; γ là góc lệch thẳng đứng của khí áp kế.
17
Như vậy, theo phương thẳng đứng, nếu điểm thấp nhất của khí áp kế lệch với điểm
cao nhất 12,3mm sẽ gây ra số đọc cao hơn so với thực tế là 0,133mb.
Khí áp kế Fortin nhạy cảm hơn với độ lệch thẳng đứng, với điểm chuẩn để so sánh
(đầu nhọn kim ngà) ở trong bầu cách xa trục khí áp kế 12mm thì sự xê dịch của bầu
so với đường thẳng đứng vào khoảng 1mm, khi đó sai số có thể lên tới 0,666mb.
f) Ảnh hưởng của chất bẩn và thuỷ ngân bị ôxy hoá
Các chất bẩn hoà tan trong thuỷ ngân của khí áp kế là một nguồn gây sai số trong
các phép đo khí áp. Ngoài ra, khi thuỷ ngân bị ôxy hóa, độ mao dẫn sẽ thay đổi và
do đó khí áp kế sẽ chỉ các giá trị khác với thực tế.
3.3.4 Khí áp kế hộp
1. Cấu tạo
Khí áp kế hộp là dụng cụ dùng để đo khí áp mặt trạm lúc quan trắc, dùng trong
khảo sát lưu động hoặc trên tàu
thuỷ.
Cấu tạo của khí áp kế hộp được
dẫn ra trong hình 3.5. Từ hình vẽ
ta nhận thấy, các bộ phận của áp
kế hộp được bố trí ở giữa hai bản
kim loại (1); hai bản kim loại
được nối với nhau nhờ các trục
thẳng đứng (2); bộ cảm biến của
áp kế hộp là các hộp rỗng, đàn hồi
(3) được nối với nhau bằng các
trục (3); đầu cố định của trục
được lắp với trụ thẳng đứng, còn
đầu trục tự do của chồng hộp
được nối với tay đòn (4) bằng trục
nối (11); độ dài của tay đòn này
Hình 3.5. Khí áp kế hộp Anêrôit
được điều chỉnh bằng ốc vít (5);
tay đòn (4) liên kết với tay đòn
dài (6) bằng trục chung (7); tay đòn dài (6) liên kết với trục kim bằng vòng dây
xoắn (12); trên mặt thang đo (8) của áp kế hộp còn được lắp một nhiệt kế thuỷ ngân
hình cung để đo nhiệt độ (9); chồng hộp có thể xê dịch vị trí và do đó làm cho kim
chỉ cũng xê dịch nhờ vặn ốc điều chỉnh (10).
Cả hệ thống bao gồm bộ cảm biến, bộ biến đổi tín hiệu và bộ chỉ thị số trên được
đặt trong một hộp nhựa cứng. Hộp này lại đặt trong một hộp khác có lò xo đệm để
giảm bớt sự rung động của khí áp kế hộp khi có những chấn động từ bên ngoài.
2. Nguyên tắc hoạt động
Khi khí áp giảm, màng hộp dãn ra, làm chùng bản lò xo và dịch chuyển tay đòn lên
phía trên. Tay đòn này nhờ thanh truyền làm quay cần xoay, cần xoay này lại tác
động đến dây xích cuốn vào ròng rọc và sẽ làm quay kim chỉ về phía khí áp giảm
18
trên mặt đồng hồ nhờ một lò xo. Dùng vít trên đế có thể điều chỉnh được vị trí của
bộ phận quay nên ta có thể thay đổi được vị trí điểm không của kim.
3. Cách sử dụng
Ở vị trí làm việc, khí áp kế hộp được đặt nằm ngang (theo mặt thang đo). Khi quan
trắc ta tiến hành theo trình tự sau:
-
Mở nắp hộp, đọc nhiệt độ trên nhiệt kế của khí áp kế hộp;
-
Dùng ngón tay gõ nhẹ lên mặt hộp của khí áp kế hộp để tránh sự ma sát bên
trong bộ phận biến đổi tín hiệu (có thể làm cho kim chỉ sai vị trí);
-
Đọc trị số khí áp rồi đóng nắp hộp lại. Khi xác định vị trí của kim chỉ, cần đặt
mắt vào đúng vị trí của đầu kim. Ở vị trí đúng ta có thể thấy được ảnh con ngươi
của mắt được phân đôi bởi đầu chỉ kim.
4) Các nguồn sai số
-
Sự bổ chính không đầy đủ đối với những thay đổi nhiệt độ: khi nhiệt độ tăng và
độ đàn hồi của hộp giảm, dụng cụ có xu hướng chỉ khí áp quá cao. Bộ phận bổ
chính lưỡng kim nếu được chế tạo tốt có thể khống chế sai số nhiệt độ trên toàn
dải các giá trị khí áp cần đo;
-
Hiện tượng trễ: nếu khí áp kế hộp phải chịu một sự biến đổi lớn và nhanh của
khí áp rồi sau đó lại trở về giá trị ban đầu thì khí áp kế hộp sẽ chỉ một giá trị
khác. Khí áp này sẽ thay đổi từ từ cho tới khi đạt tới giá trị ban đầu của nó. Hiện
tượng này được gọi là hiện
tượng trễ.
-
Sự thay đổi độ đàn hồi của
hộp: Do sử dụng lâu ngày, cấu
trúc bên trong của vật liệu bị
biến đổi nên độ đàn hồi của
hộp kém nhạy.
3.4 Khí áp kí
3.4.1 Cấu tạo
Khí áp kí được cấu tạo bởi các bộ
phận chính sau (hình 3.6):
1. Bộ phận cảm biến
Bộ phận cảm biến là một chồng hộp
Hình 3.6. Cấu tạo khí áp kí
rỗng (A). Số hộp có thể nhiều hoặc
ít tuỳ thuộc vào mục đích của phép đo, số hộp càng nhiều độ nhạy của thiết bị đo càng
lớn. Đầu dưới trụ chồng hộp được lắp cố định vào đầu tự do (B) của tấm lưỡng kim (3)
của bộ phận bổ chính về nhiệt độ được đặt ở phía dưới của mặt đế khí áp. Đầu trên trụ
chồng hộp được nối với bộ phận truyền và biến đổi tín hiệu cảm biến.
2. Bộ phận bổ chính về nhiệt độ
19
Gồm một tấm lưỡng kim (3), một đầu được lắp cố định, đầu tự do nối với trụ dưới
của chồng hộp (2), giữa tấm lưỡng kim có nẹp di động (4). Khi vị trí của nẹp thay
đổi, nó sẽ làm cho chiều dài thay đổi đáng kể từ vị trí cố định đến đầu tự do trên
tấm lưỡng kim. Điều đó cũng làm thay đổi mức độ xê dịch đầu tự do của tấm lưỡng
kim theo chiều của trục chồng hộp khi nhiệt độ thay đổi.
3. Bộ phận truyền và biến đổi tín hiệu cảm biến
Bộ phận này gồm một hệ thống gồm trụ đỡ (5), cần truyền (6), (7) tay đòn (8) và
cần kim (9) mang ngòi bút. Thay đổi độ dài của tay đòn (8) bằng cách vặn ốc điều
chỉnh ở tay đòn đó sẽ làm cho độ nhạy của khí áp kế thay đổi. Vặn ốc điều chỉnh
(10) trên giá di động sẽ đưa được vị trí của ngòi bút, lắp trên cần kim, tới vị trí trên
thang đo, tương ứng với vị trí số của khí áp kí lúc quan trắc. Để cần kim mang ngòi
bút tạo được mốc giờ ta ấn nút (11) ở phía sau thân máy.
4. Bộ phận tự ghi
Bộ phận tự ghi gồm trụ đồng hồ và ngòi bút ghi giống như các máy nhiệt kí và ẩm
ký. Giản đồ được nắp trên trụ đồng hồ có giá trị trên thang đo (1mb/vạch).
Hình 3.8: Khí áp kí nhìn theo các phương khác nhau
20
- Xem thêm -