Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Báo chí tham gia phòng, chống tham nhũng ở việt nam hiện nay...

Tài liệu Báo chí tham gia phòng, chống tham nhũng ở việt nam hiện nay

.PDF
232
1397
91

Mô tả:

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH CAO THỊ DUNG BÁO CHÍ THAM GIA PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: CHÍNH TRỊ HỌC HÀ NỘI - 2019 HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH CAO THỊ DUNG BÁO CHÍ THAM GIA PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: CHÍNH TRỊ HỌC Mã số: 62 31 02 01 NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. LƢU VĂN QUẢNG HÀ NỘI - 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định. Tác giả Cao Thị Dung MỤC LỤC MỞ ĐẦU Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến tham nhũng và phòng, chống tham nhũng 1.2. Các công trình nghiên cứu liên quan đến báo chí tham gia phòng, chống tham nhũng 1.3. Những giá trị của các công trình nghiên cứu liên quan đến luận án và những vấn đề đặt ra luận án tiếp tục nghiên cứu Chương 2: LÝ LUẬN VỀ BÁO CHÍ THAM GIA PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG 2.1. Kiểm soát quyền lực nhà nước và phòng, chống tham nhũng 2.2. Báo chí tham gia phòng, chống tham nhũng - sự cần thiết, nội dung, phương thức 2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự tham gia của báo chí trong phòng, chống tham nhũng Chƣơng 3: BÁO CHÍ THAM GIA PHÕNG, CHỐNG THAM NHŨNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN 3.1. Công tác phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay 3.2. Thực trạng báo chí tham gia phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam 3.3. Đánh giá kết quả, hạn chế báo chí tham gia phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay và nguyên nhân Chƣơng 4: PHƢƠNG HƢỚNG, GIẢI PHÁP PHÁT HUY VAI TRÕ CỦA BÁO CHÍ TRONG PHÕNG, CHỐNG THAM NHŨNG Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI 4.1. Phương hướng phát huy vai trò của báo chí trong phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam trong thời gian tới 4.2. Giải pháp phát huy vai trò của báo chí trong phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam trong thời gian tới KẾT LUẬN DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC Trang 1 7 7 13 25 29 29 45 55 63 63 69 93 115 115 122 149 151 153 168 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT DLXH: Dư luận xã hội HTCT: Hệ thống chính trị MTTQ: Mặt trận Tổ quốc PBXH: Phản biện xã hội PCTN: Phòng, chống tham nhũng QLCT: Quyền lực chính trị QLNN: Quyền lực nhà nước XHCN: Xã hội chủ nghĩa DANH MỤC CÁC BẢNG Trang Bảng 2.1: Tỷ lệ nhận định các yếu tố ảnh hưởng đến báo chí tham gia phòng, chống tham nhũng 56 Bảng 3.1: Những yếu tố thúc đẩy báo chí tham gia phòng, chống tham nhũng 85 Bảng 3.2: Tỷ lệ nhận định các yếu tố thúc đẩy báo chí tham gia phòng, chống tham nhũng 103 Bảng 3.3: Hành vi cản trở báo chí tác nghiệp 109 Bảng 3.4: Những thách thức đối với báo chí/nhà báo chống tham nhũng 110 DANH MỤC CÁC HỘP Trang Hộp 3.1: Quan lộ thần tốc của ông Lê Phước Hoài Bảo 73 Hộp 3.2: Đấu tranh phòng, chống tham nhũng theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XII của Đảng 79 Hộp 3.3: Hướng dẫn thực hiện Đề án tuyên truyền, phổ biến pháp luật về phòng, chống tham nhũng năm 2016 82 Hộp 3.4: Cuộc “đại phẫu” các “khối u” nghìn tỷ… 90 Hộp 3.5: Chống tham nhũng, một Bí thư Đảng ủy phường từng bị cắt chức 92 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Những năm gần đây, tham nhũng được Đảng ta xác định là một trong những nguy cơ gắn với sự tồn vong của chế độ. Với sự quyết tâm, nỗ lực của cả hệ thống chính trị (HTCT), công tác phòng, chống tham nhũng (PCTN) đã có những chuyển biến tích cực cả về nhận thức, hành động, đạt được những kết quả nhất định. Tuy vậy, tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tệ quan liêu, tham nhũng chưa được ngăn chặn, đẩy lùi. Theo Tổ chức Minh bạch Quốc tế (Transparency International - TI), Chỉ số cảm nhận tham nhũng (Corruption Perception Index - CPI) năm 2015, 2016, 2017 của Việt Nam lần lượt là 31/100; 33/100 và 35/100 điểm, đứng thứ 112/168; 113/176 và 107/180 trên bảng xếp hạng toàn cầu. Để tạo ra những chuyển biến tích cực trong cảm nhận về tham nhũng ở Việt Nam, Tổ chức Hướng tới Minh bạch (Toward Transparency - TT) - cơ quan đầu mối quốc gia của Tổ chức Minh bạch Quốc tế (TI) tại Việt Nam khuyến nghị Đảng và Nhà nước thực hiện đồng bộ các nhóm giải pháp trong đó có giải pháp ban hành những chính sách ưu đãi thiết thực và cụ thể cho báo chí truyền thông khi tham gia PCTN. Khảo sát “Tham nhũng từ góc nhìn của người dân, doanh nghiệp và cán bộ, công chức, viên chức” do Thanh tra Chính phủ và Ngân hàng Thế giới phối hợp thực hiện năm 2012 cho thấy: khoảng 93% tổng số người được phỏng vấn nói họ biết về tham nhũng qua báo chí. Với tư cách là phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước (QLNN) từ bên ngoài, báo chí có vai trò đặc biệt quan trọng. Báo chí là công cụ, phương tiện của HTCT, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) và đẩy mạnh dân chủ hóa đời sống chính trị xã hội. Báo chí là tấm 2 gương phản chiếu đa dạng, trung thực đời sống chính trị - xã hội. Hệ thống báo chí và đội ngũ các nhà báo đã và đang đi đầu trong cuộc đấu tranh PCTN. Làm tốt chức năng của mình, báo chí đã trở thành một trong những lực lượng chống tham nhũng hiệu quả. Hoạt động đưa tin bài về tham nhũng của báo chí trong thời gian qua diễn ra khá mạnh và có tầm bao quát rộng. Báo chí đẩy mạnh truyền thông về PCTN với tần suất và dung lượng thông tin lớn, hình thức đa dạng, bao gồm: chuyên trang, chuyên mục về PCTN, cải cách hành chính; tọa đàm trực tuyến về pháp luật PCTN, các diễn đàn hỗ trợ nhân dân trong phát hiện, tố cáo hành vi tham nhũng…. Tuy nhiên, trên thực tế mức độ tham gia PCTN của các cơ quan báo chí và các nhà báo khác nhau. Có những tờ báo rất tích cực, cũng có những tờ báo đăng bài chiếu lệ. Có những nhà báo không quản khó khăn, gian khổ bám sát thực tế vạch trần, phanh phui tham nhũng, vẫn còn những nhà báo dùng chính phương tiện đấu tranh chống tham nhũng để phục vụ mưu lợi cá nhân...Và rất nhiều những vấn đề khác cản trở việc thông tin trên báo chí bao gồm những hạn chế về chính trị, pháp lý, biên tập…Bên cạnh đó, HTCT của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là nhất nguyên, báo chí với vai trò là cơ quan ngôn luận cho khu vực công (Điều 1 Luật Báo chí năm 1989, sửa đổi năm 1999; Khoản 1 Điều 4 Luật báo chí 2016), vậy báo chí có giữ được tính khách quan, độc lập để phản biện theo đúng nghĩa đối với các hành vi vi phạm pháp luật của các cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc khu vực công? Báo chí có phát huy hết vai trò giám sát của mình đối với bộ máy nhà nước? Để báo chí thực thi tốt vai trò trách nhiệm của mình trong PCTN, rất cần nghiên cứu, tổng kết, đánh giá về báo chí trên mặt trận PCTN. Thông qua việc khảo sát các công trình nghiên cứu về PCTN, báo chí và tham nhũng, người viết nhận thấy chưa có chuyên luận nào nghiên cứu đề tài báo chí tham gia PCTN ở Việt Nam. Hầu hết các công trình tập trung nghiên cứu theo hướng phát triển khoa học luận báo chí, tính hiệu quả của báo chí tham gia 3 PCTN. Nghiên cứu khoa học về báo chí tham gia PCTN nhất là đề ra các giải pháp để báo chí tham gia PCTN có hiệu quả sẽ góp phần phát huy hiệu quả hoạt động của HTCT, nâng cao tính dân chủ của các phương tiện thông tin đại chúng, củng cố lòng tin của nhân dân vào chế độ XHCN. Chính bởi vậy, việc chỉ ra những thành tựu, hạn chế của báo chí tham gia PCTN và đưa ra những giải pháp để phát huy hiệu quả của báo chí trong PCTN là yêu cầu cấp thiết. Từ những lý do trên, việc nghiên cứu “Báo chí tham gia phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay” có ý nghĩa cấp thiết cả về mặt lý luận và thực tiễn, xứng đáng dành được sự quan tâm và nghiên cứu sâu sắc. Đó cũng là lý do tác giả mạnh dạn chọn đề tài này làm luận án tiến sĩ chuyên ngành Chính trị học của mình. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài 2.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở lý luận về báo chí tham gia PCTN, luận án phân tích thực trạng báo chí tham gia PCTN ở Việt Nam hiện nay; từ đó luận án đề xuất một số phương hướng và giải pháp nhằm phát huy vai trò của báo chí trong PCTN ở Việt Nam trong thời gian tới. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được những mục tiêu trên, luận án xác định thực hiện những nhiệm vụ sau: Một là, tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án, làm rõ nội dung cơ bản của các công trình có liên quan đến đề tài báo chí tham gia PCTN, xác định những vấn đề luận án cần tiếp tục làm sáng tỏ để làm tiền đề cho việc nghiên cứu tiếp theo của luận án; Hai là, xác lập khuôn khổ lý thuyết về sự tham gia của báo chí trong PCTN. Ba là, làm rõ thực trạng báo chí tham gia PCTN ở Việt Nam. Bốn là, đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm phát huy vai trò của báo chí tham gia trong PCTN ở Việt Nam trong thời gian tới. 4 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là báo chí tham gia PCTN. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Luận án tập trung nghiên cứu báo chí tham gia PCTN ở Việt Nam từ năm 2006 (từ khi ban hành Nghị quyết Hội nghị lần thứ III của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác PCTN, lãng phí” - Nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương Đảng đề cập một cách toàn diện, tập trung về công tác PCTN) đến nay. Để phục vụ cho công tác nghiên cứu, luận án tiến hành thu thập, khảo sát thông tin từ các loại hình báo chí (báo in, báo truyền hình, báo mạng điện tử và báo phát thanh). 4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài 4.1. Cơ sở lý luận Cơ sở lý luận của luận án là hệ thống quan điểm của Chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về báo chí cách mạng chống tham nhũng và chống tiêu cực; Lý luận và phương pháp luận của khoa học chính trị, đặc biệt chú ý nghiên cứu các lý thuyết về quyền lực và thực thi quyền lực chính trị (QLCT), QLNN, lý thuyết ủy quyền, lý thuyết hành vi chính trị. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu của luận án bao gồm tổng thể các phương pháp nghiên cứu cơ bản của khoa học xã hội. Trong khi giải quyết các vấn đề đặt ra, luận án sử dụng hệ thống các phương pháp cụ thể như phương pháp lôgic, lịch sử, phân tích, tổng hợp, phương pháp định lượng (bảng hỏi anket) và phương pháp định tính (phỏng vấn sâu). Phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp được sử dụng để làm rõ nội hàm các khái niệm và các vấn đề liên quan về tham nhũng, báo chí tham gia PCTN và làm rõ các nội dung, phương thức cũng như thực trạng báo chí tham gia PCTN. 5 Phương pháp lôgic, lịch sử được sử dụng để làm rõ quá trình hình thành, phát triển của tham nhũng, xu hướng phát triển của báo chí và báo chí tham gia PCTN. Phương pháp nghiên cứu trường hợp, thông qua các trường hợp báo chí đưa tin về tham nhũng để phân tích, đánh giá báo chí tham gia PCTN ở nước ta hiện nay. Phương pháp định tính: Phỏng vấn sâu được thực hiện với 12 trường hợp là các nhà lãnh đạo, quản lý báo chí, các nhà báo làm công tác PCTN, quan tâm đến lĩnh vực báo chí PCTN và công chúng để làm rõ sự tham gia của báo chí trong PCTN ở nước ta. Trong đó có 04 nhà lãnh đạo, quản lý báo chí, 04 phóng viên làm việc trong các cơ quan báo chí (7 trường hợp là nam, 1 trường hợp là nữ; cả 8 trường hợp đã và đang tác nghiệp trong lĩnh vực báo chí điều tra chống tham nhũng) và 03 trường hợp là công chúng. Để đảm bảo tính khuyết danh trong nghiên cứu, các trích dẫn phỏng vấn sâu không công khai danh tính của người trả lời. Phương pháp định lượng: Bảng hỏi anket được sử dụng để thu thập thông tin với 212 phóng viên đang tác nghiệp tại các cơ quan báo chí mẫu được đảm bảo phân bố theo các tiêu chí: tỷ lệ phóng viên nam, nữ; thâm niên công tác của phóng viên; trải nghiệm của phóng viên viết về tham nhũng: phóng viên đã và đang viết về tham nhũng và phóng viên chưa từng viết về tham nhũng. Luận án chú trọng tới sử dụng phương pháp thu thập và xử lý thông tin từ các tài liệu đã nghiên cứu về tham nhũng, PCTN và phân tích các thông tin về báo chí tham gia PCTN. 5. Đóng góp mới về khoa học của đề tài luận án Từ góc độ của chính trị học, báo chí được xem xét với tính cách một cơ chế, phương thức thực thi (nhất là phương thức kiểm tra, kiểm soát) QLCT, QLNN để hạn chế lạm quyền, hạn chế hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn vì vụ lợi - hay chính là PCTN. Luận án trình bày một cách có hệ thống những 6 vấn đề lý luận cơ bản về tham nhũng, báo chí tham gia PCTN, từ đó đánh giá thực trạng và đề ra phương hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả của báo chí tham gia PCTN ở Việt Nam hiện nay và trong những năm tới. Những vấn đề được luận án tổng kết từ thực tiễn của báo chí tham gia PCTN sẽ là những giá trị tham khảo cho việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cơ chế PCTN đặc biệt là cơ chế PCTN từ báo chí nói riêng, truyền thông đại chúng nói chung. 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài luận án Luận án có ý nghĩa khoa học thể hiện ở các nội dung: Một là, luận án trình bày tổng quan các công trình nghiên cứu liên quan đến báo chí tham gia PCTN, định ra những giá trị cần tham khảo của các công trình nghiên cứu liên quan và những vấn đề đặt ra luận án tiếp tục nghiên cứu. Hai là, luận án góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về báo chí tham gia PCTN. Ba là, luận án phân tích có hệ thống thực trạng và những vấn đề đặt ra đối với báo chí tham gia PCTN ở Việt Nam hiện nay. Bốn là, luận án đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm phát huy tính hiệu quả của báo chí tham gia PCTN ở Việt Nam trong tình hình mới. Ý nghĩa thực tiễn của luận án thể hiện ở các khía cạnh: Một là, luận án có thể sử dụng làm tài liệu nghiên cứu và giảng dạy chuyên ngành Chính trị học và các bộ môn khoa học xã hội và nhân văn liên quan. Hai là, những kết luận của luận án được nghiên cứu trên cơ sở lý luận khoa học, cách tiếp cận rõ ràng, vì vậy, luận án cung cấp các cứ liệu khoa học cho các nhà lãnh đạo, quản lý, hoạch định chính sách trong PCTN ở Việt Nam hiện nay và trong thời gian tới. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, các bài viết của tác giả liên quan đến luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án gồm 4 chương, 11 tiết. 7 Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN Tham nhũng, PCTN và báo chí tham gia PCTN là vấn đề được các nhà khoa học trong và ngoài nước quan tâm, nghiên cứu. Cho đến nay, đã có khá nhiều công trình khoa học, đề tài, sách báo, bài viết ở trong và ngoài nước nghiên cứu, bàn về báo chí tham gia PCTN dưới nhiều góc độ khác nhau. 1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN THAM NHŨNG VÀ PHÕNG, CHỐNG THAM NHŨNG Tham nhũng là vấn đề nhức nhối, diễn ra nghiêm trọng ở nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều lĩnh vực với phạm vi rộng, tính chất phức tạp, đã và đang tác động tiêu cực tới nhiều mặt của xã hội. PCTN là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, của cả HTCT. Báo chí với chức năng, nhiệm vụ của mình có vai trò quan trọng trong PCTN. Viết về tham nhũng và PCTN nói chung có rất nhiều công trình, tài liệu nghiên cứu: Sách “Kinh nghiệm phòng, chống tham nhũng của một số nước trên thế giới” (2005) [94] của tác giả Nguyễn Văn Quyên đã trình bày tổng quan về PCTN của một số nước trên thế giới; mô hình tổ chức và hoạt động PCTN của một số nước trên thế giới; văn bản pháp luật về PCTN của một số nước trên thế giới. Trong quá trình PCTN, Việt Nam có thể tham khảo những kinh nghiệm của các quốc gia này. Sách “Phát huy dân chủ trong đấu tranh chống tham nhũng ở nước ta hiện nay” (2005) [79] của tác giả Phạm Thành Nam, Đỗ Thị Thạch đã hệ thống hóa những quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về đấu tranh chống tham nhũng, về vai trò của phát huy dân chủ trong đấu tranh chống tham nhũng. Đồng thời tác giả cũng đưa ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả PCTN ở nước ta hiện nay. 8 Cuốn sách “Thực hành tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, chống bệnh quan liêu” (2005) [72] trình bày những bài nói, bài viết… của Bác Hồ về vấn đề tiết kiệm, chống tham ô lãng phí và quan liêu được trích từ “Hồ Chí Minh toàn tập” do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản. Sách “Khó khăn giải quyết bài toán phòng và chống tham nhũng” (2010) [110] của tác giả Đặng Đức Thành góp phần làm rõ khái niệm, nguồn gốc tham nhũng, nguyên nhân cơ bản của tham những; đặc điểm, thực trạng tham nhũng và các giải pháp đấu tranh nhằm hạn chế, đẩy lùi tham những ở nước ta hiện nay. Cuốn sách “Nhận diện tham nhũng và các giải pháp phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay” (2010) [102] do tác giả Phan Xuân Sơn và Phạm Thế lực đồng chủ biên đã tập trung nghiên cứu, đổi mới, xác định, nhận diện và và đưa ra các biện pháp chống tham nhũng có hiệu quả ở Việt Nam hiện nay. Sách “Đương đầu với tham nhũng ở Châu Á: Những bài học thực tế và khuôn khổ hành động” (2006) [118] của Viện khoa học thanh tra, thuộc Thanh tra Chính phủ đã trình bày những vấn đề tham nhũng ở châu Á ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế; làm rõ việc triển khai chiến lược chống tham nhũng hiệu quả, phù hợp với các dạng tham nhũng và thực trạng quản lý của mỗi quốc gia về vấn đề tham nhũng. Đồng thời cuốn sách cũng chỉ rõ những bài học và thách thức của tham nhũng ở châu Á. Sách “Lựa chọn công cộng, một tiếp cận nghiên cứu chính sách công” (2006) [116] của tác giả J. Patrick Gunning, Viện Chính trị học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh dịch đã làm sáng tỏ lý thuyết lựa chọn công cộng trong việc lý giải sự tương tác giữa các cá nhân để đi đến quyết định tập thể trong quá trình hoạch định và triển khai chính sách công. Lý thuyết này cho rằng, các nhà chính trị, các công chức đều có mục đích riêng tư của mình và hành động của họ bị quy định bởi việc đạt được mục đích đó một cách tốt nhất. 9 Tài liệu “Thực trạng công tác PCTN ở Việt Nam hiện nay” (2016) [114] của Ủy ban thường vụ Quốc hội khẳng định công tác PCTN mà Đảng, Nhà nước ta phát động đã đạt được những thành tựu, kết quả bước đầu rất quan trọng, tuy nhiên cũng bộc lộ những hạn chế, bất cập nhất định. Chuyên đề này đã tập trung tổng hợp lại thực trạng công tác đấu tranh PCTN thông qua việc phân tích, đánh giá thành tựu, kết quả đạt được và chỉ ra những hạn chế, bất cập của công tác PCTN. Cuốn sách “Bàn về giải pháp phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay” (2013) [107] là tập hợp những bài viết được chọn lọc, biên soạn trong từ các tham luận trong Hội thảo cùng tên do Tạp chí Cộng sản và Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh phối hợp tổ chức đầu năm 2013. Tác giả của những bài viết trong cuốn sách “Bàn về giải pháp PCTN ở Việt Nam hiện nay” là các nhà khoa học, nhà quản lý, lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn. Cuốn sách được xem như là sự tổng kết bước đầu về thực hiện PCTN trên nhiều lĩnh vực, đồng thời, cung cấp thêm một góc nhìn đa diện và nêu lên những đề xuất, giải pháp trong việc PCTN, góp phần tham mưu cho Đảng và Nhà nước nghiên cứu, vận dụng trong triển khai thực hiện, bảo đảm công tác PCTN đạt hiệu quả. Bài viết “Trung Quốc chống tham nhũng bằng ứng dụng” (2015) [7] của tác giả Huệ Bình cho biết Ủy ban Kiểm tra Kỷ luật Trung ương Trung Quốc và Bộ Giám sát ngày 18/6 đã ban hành một ứng dụng di động có chức năng giúp người sử dụng gửi hình ảnh, video và văn bản làm bằng chứng cho hành vi sai phạm của quan chức mà không yêu cầu người dùng cung cấp tên thật, qua đó cho thấy Bắc Kinh muốn bảo vệ danh tính người tố cáo cũng như khuyến khích người dân tích cực giám sát quan chức. Bài viết “Vì sao tham nhũng “không có đất sống” ở Singapore?” (2017) [75] do tác giả Tuệ Minh (lược dịch) khẳng định năm 2016, Singapore – quốc gia châu Á – đã vươn lên vị trí thứ 7 trong danh sách những nước có tỷ lệ tham nhũng thấp nhất thế giới. Sự vượt trội của Singapore trên bảng chỉ số 10 tham nhũng có thể nói là nhờ vào các quy định pháp luật chặt chẽ, như Luật PCTN và cách thức hành pháp nghiêm ngặt của những cơ quan thi hành luật như Cục Điều tra các hành động tham nhũng. Bài viết “Nhận diện một số nguy cơ tham nhũng từ quá trình hoạch định chính sách ở nước ta hiện nay” (2017) [89] của tác giả Lưu Văn Quảng nhấn mạnh vấn đề tham nhũng và tham nhũng từ hoạch định chính sách đã được Đảng, Nhà nước ta đặt ra và nghiên cứu, tìm cách giải quyết từ lâu. Bài viết tập trung vào một khía cạnh cụ thể là nhận diện các nguy cơ dẫn đến tham nhũng từ quá trình hoạch định chính sách ở nước ta hiện nay bao gồm: nguy cơ các “nhóm lợi ích” vận động các nhà hoạch định chính sách đưa ra các chính sách thiên vị cho họ; nguy cơ một số bộ, ngành “cài cắm” lợi ích cục bộ của mình khi soạn thảo luật, chính sách và nguy cơ các chính sách được thiết kế với nhiều “lỗ hổng”, tạo điều kiện cho tham nhũng. Và rất nhiều công trình khác đề cập đến vấn đề tham nhũng và chống tham nhũng như: “Sách tham khảo Nhận diện và giảm thiểu các rủi ro dẫn đến tham nhũng trong quản lý đất đai ở Việt Nam” do nhà xuất bản Chính trị quốc gia ấn hành, năm 2013; hay thông tin chuyên đề “Tham nhũng và chống tham nhũng ở một số nước trên thế giới” do Viện Thông tin - Khoa học thuộc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh xuất bản, lưu hành nội bộ tháng 1/2006... Bên cạnh các công trình nghiên cứu về tham nhũng và PCTN của các tác giả trong nước, có khá nhiều công trình của các tác giả nước ngoài viết về vấn đề này: Cuốn sách “Kiềm chế tham nhũng - Hướng tới một mô hình xây dựng sự trong sạch quốc gia” (2002) [95] của tác giả Rich Stapenhurst và Sahr J.Kpundeh chủ biên, Trần Thị Thái Hà dịch đã cung cấp cho bạn đọc Việt Nam quan tâm đến vấn đề tham nhũng tài liệu để tham khảo, nghiên cứu đồng thời góp phần vào cuộc đấu tranh chống tham nhũng ở nước ta. Bằng những phân tích cụ thể, thông qua những nghiên cứu tình huống về đấu tranh chống 11 tham nhũng thành công và chưa thành công ở một số nước và lãnh thổ trên thế giới, các tác giả của cuốn sách đã nêu bật tầm quan trọng của cuộc đấu tranh chống tham nhũng, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm và đề xuất những giải pháp hữu hiệu nhất để khắc phục và kiểm soát được nạn tham nhũng đang hoành hành trên thế giới ngày nay. Cuốn sách “Hủ bại: Sự thật về những vụ án tham nhũng ở Trung Quốc” (2002) [6] của tác giả Lưu Bân, dịch giả Nguyễn Khắc Khoái đã tập hợp sự thật về những vụ án tham nhũng ở Trung Quốc như vụ án Âu Dương Đức (nguyên bí thư thành ủy thành phố Đông Hoàn, tỉnh Quảng Châu), vụ án Trần Hy Đồng (nguyên bí thư thành ủy Bắc Kinh, Trung Quốc)… Sách “Vai trò của Nghị viện trong hạn chế tham nhũng” (2006) [96] của tác giả Rich Stapenhurst, Niall Jonhston và Riccardo Pelizzo đã xây dựng bức tranh tổng quan về những phát hiện và khuyến nghị chính sách về vai trò của các đại biểu quốc hội trong việc chống tham nhũng. Đây cũng là mối quan tâm của các nhà tài trợ và những người làm công tác thực tiễn đang tìm kiếm những nguyên tắc hướng dẫn về việc làm thế nào để chống tham nhũng có hiệu quả. Công trình “Corruption, corruption and governance” (Tham nhũng, chống tham nhũng và quản trị) (2013) [133] của tác giả Dan Hough thuộc các công trình Tham nhũng và quản trị chính trị. Bằng cách khám phá các chiến lược chống tham nhũng ở sáu quốc gia, cuốn sách này là phân tích chi tiết, xuyên quốc gia đầu tiên về các kỹ thuật để giải quyết tham nhũng. Nó nhấn mạnh tầm quan trọng của sự hiểu biết rằng chất lượng quản trị là rất quan trọng để giải quyết tham nhũng và chỉ khi liên kết này thực sự được đánh giá cao có thể xâm nhập vào tham nhũng được thực hiện. Cuốn sách “The Quest for Good Governance. How Societies Develop Control of Corruption” (Nhiệm vụ quản trị tốt. Làm thế nào xã hội phát triển kiểm soát tham nhũng) (2015) [125] của tác giả Alona Mungiu-Pippidi, đã bàn về cách xã hội đạt đến điểm kiểm soát tham nhũng khi tính toàn vẹn trở 12 thành tiêu chuẩn và tham nhũng ngoại lệ liên quan đến cách thức hoạt động của công chúng và các nguồn lực công cộng được phân bổ. Cuốn sách cũng đề cập đến những bài học chúng ta đã học được từ kinh nghiệm lịch sử và hiện đại trong việc phát triển kiểm soát tham nhũng, có thể hỗ trợ các nhà hoạch định chính sách và xã hội dân sự chỉ đạo và xúc tiến quá trình này. Sách “Government Anti-Corruption Strategies: A Cross-Cultural Perspective” (Chiến lược chống tham nhũng của Chính phủ: Quan điểm đa văn hóa) (2015) [143] của tác giả Yahong Zhang, Cecilia Lavena khẳng định là một bệnh về chính trị và xã hội, tham nhũng của công chúng chi phí cho các chính phủ và doanh nghiệp trên khắp thế giới hàng tỷ tỷ đô la mỗi năm. Cuốn sách này cung cấp các nghiên cứu trường hợp về các nỗ lực chống tham nhũng ở một số quốc gia, bao gồm Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc, Nepal, và các nước Trung và Đông Âu. Nó tập trung vào các nước đang phát triển và chuyển tiếp, nơi mà độ sâu và ảnh hưởng của tham nhũng đặc biệt nghiêm trọng. Các trường hợp nêu bật các ví dụ về thất bại cũng như thành công để cho thấy sự phức tạp của vấn đề tham nhũng và lý do tại sao tham nhũng vẫn tồn tại. Cuốn sách “Anti-corruption in History: From Antiquity to the Modern Era” (Chống tham nhũng trong lịch sử: Từ thời cổ đại đến kỷ nguyên hiện đại) (2018) [139] biên tập bởi Ronald Kroeze, Andre Vitoria và Guy Geltner đã cung cấp tổng quan lịch sử lâu dài đầu tiên về tham nhũng và chống tham nhũng ở châu Âu; Thảo luận về tham nhũng và chống tham nhũng trong bối cảnh lịch sử rộng lớn: Hy Lạp cổ đại và Rome, Eurasia thời Trung cổ, Ý, Pháp, Anh và Bồ Đào Nha cũng như nghiên cứu chống tham nhũng trong thời kỳ hiện đại và hiện đại ở Romania, Đế chế Ottoman, Hà Lan, Đức, Đan Mạch, Thụy Điển và Cộng hòa Dân chủ Đức cũ. Đồng thời, cuốn sách cung cấp các phương pháp tiếp cận hiệu quả để nghiên cứu tham nhũng và chống tham nhũng trong các ngữ cảnh lịch sử và địa lý khác nhau. 13 Và một số công trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài về PCTN như cuốn “Corruption and Anti-Corruption” (Tham nhũng và chống tham nhũng) do Larmour, Peter & Wolanin, Nick biên tập năm 2001; Cuốn sách “Các hình thái tham nhũng” của tác giả J.Edgardo Campos, Sanjay Pradhan, do nhà xuất bản Văn hóa thông tin ấn hành năm 2008; cuốn sách “Frequently Asked Questions in Anti-Bribery and Corruption” (Những câu hỏi thường gặp trong chống khủng bố và tham nhũng) của tác giả David Lawler xuất bản năm 2012; Cuốn sách “Anti-Corruption Laws in Bangladesh” (Luật chống tham nhũng ở Bangladesh) của tác giả Justice Md. Azizul Haque năm 2013 hay cuốn “The Deliberate Corruption” (Tham nhũng có chủ ý) của tác giả Tim Ball do Climate Science Paperback ấn hành năm 2014… 1.2. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN BÁO CHÍ THAM GIA PHÕNG, CHỐNG THAM NHŨNG 1.2.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến báo chí tham gia giám sát quyền lực, tăng cƣờng minh bạch Cuốn sách “Truyền thông đại chúng trong hệ thống tổ chức quyền lực chính trị ở các nước tư bản phát triển” (2008) [1] của tác giả Lưu Văn An, đã phân tích các vấn đề: lý luận về truyền thông đại chúng trong chính trị, khái quát các khái niệm cơ bản của truyền thông, tình hình phát triển truyền thông đại chúng ở các nước phương Tây; vai trò của truyền thông đại chúng trong hoạt động của hệ thống tổ chức QLCT các nước tư bản phát triển. Đồng thời tác giả đã đánh giá giá trị, hạn chế của truyền thông đại chúng trong hệ thống tổ chức QLCT ở các nước tư bản phát triển và ý nghĩa đối với phát triển truyền thông đại chúng Việt Nam. Sách “Báo chí và dư luận xã hội” (2011) [22] của tác giả Nguyễn Văn Dững. Nội dung cuốn sách đề cập những vấn đề cơ bản bao gồm bản chất dư luận xã hội (DLXH), bản chất hoạt động báo chí, mối quan hệ tác động của báo chí và DLXH, Nhà báo và DLXH. 14 Đề tài khoa học cấp Bộ “Xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay” (2008) [88] của tác giả Lưu Văn Quảng làm chủ nhiệm đề tài, đã tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận về cơ chế kiểm soát QLNN; thực trạng và những vấn đề đặt ra của cơ chế kiểm soát QLNN ở Việt Nam hiện nay; đề xuất phương hướng và giải pháp xây dựng cơ chế kiểm soát QLNN ở Việt Nam hiện nay trong đó có giải pháp phát huy vai trò của các phương tiện truyền thông đại chúng trong hoạt động kiểm soát QLNN. Bài viết “Quan hệ của truyền thông đại chúng với ngành tư pháp ở các nước tư bản phát triển” (2014) [73] của tác giả Đỗ Đức Minh, đã góp phần làm sáng tỏ bản chất của mối quan hệ của truyền thông đại chúng với ngành tư pháp ở các nước tư bản phát triển trong đó truyền thông đại chúng và tư pháp cùng kiểm tra, giám sát hoạt động của bộ máy nhà nước tư sản; làm rõ vai trò, những ưu điểm và hạn chế truyền thông đại chúng ở những quốc gia này và gợi mở ý nghĩa tham khảo đối với Việt Nam. Bài viết “Nhà báo với vấn đề giám sát và phản biện xã hội” (2017) [25] của tác giả Nguyễn Văn Dững khẳng định giám sát, phản biện xã hội (PBXH) từ nhân dân và DLXH thông qua báo chí - truyền thông góp phần kiểm soát quyền lực và hoàn thiện chính sách công. Nội dung bài viết làm rõ nhận thức, thái độ của nhà báo và công chúng đối với vấn đề giám sát, PBXH qua cuộc điều tra trên phạm vi 4 địa điểm được chọn là Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ và Quảng Ninh; với dung lượng mẫu nghiên cứu trên 900 công chúng và 600 nhà báo. Bài viết “Báo chí thực hiện ngày càng có hiệu quả chức năng giám sát, phản biện xã hội” (2017) [43] của tác giả Thu Hà đăng trên báo Quân đội nhân dân online đã làm rõ chức năng giám sát, PBXH của báo chí và khẳng định đây là ưu điểm nổi bật của công tác báo chí những năm gần đây. Một số bài viết liên quan ít nhiều đến vai trò của nhà báo trong PCTN đã được in trong một số chuyên luận của Học viện Báo chí và Tuyên truyền, khoa Báo chí - Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan