Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Bảo hiểm xã hội tự nguyện theo pháp luật việt nam từ thực tiễn tại thị xã sơn tâ...

Tài liệu Bảo hiểm xã hội tự nguyện theo pháp luật việt nam từ thực tiễn tại thị xã sơn tây, tp hà nội

.PDF
80
105
61

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI DƯƠNG LAN HOA BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TẠI THỊ XÃ SƠN TÂY, TP HÀ NỘI LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ Hà Nội - 2020 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI DƯƠNG LAN HOA BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TẠI THỊ XÃ SƠN TÂY, TP HÀ NỘI Ngành: Luật kinh tế Mã số: 8 38 01 07 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS PHẠM THỊ THÚY NGA Hà Nội - 2020 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan Luận văn với đề tài: Bảo hiểm xã hội tự nguyện theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tại thị xã Sơn Tây, TP Hà Nội là công trình nghiên cứu của cá nhân tôi, không sao chép của bất cứ ai. Tôi xin chịu mọi trách nhiệm về công trình nghiên cứu của riêng mình ! Hà Nội, ngày.... tháng năm 2020 HỌC VIÊN Dương Lan Hoa LỜI CÁM ƠN Được sự phân công của quý thầy cô khoa Luật, đến nay em đã hoàn thành luận văn của mình với đề tài: Bảo hiểm xã hội tự nguyện theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tại thị xã Sơn Tây, TP Hà Nội. Để hoàn thành nhiệm vụ được giao, ngoài sự nỗ lực học hỏi của bản thân còn có sự hướng dẫn tận tình của các thầy, cô giáo và Ban Giám đốc học viện. Đặc biệt em chân thành cảm ơn TS Phạm Thị Thúy Nga – người đã hướng dẫn cho em trong suốt thời gian thực hiện làm luận văn. Một lần nữa em chân thành cảm ơn cô và chúc cô dồi dào sức khoẻ, hạnh phúc. Tuy nhiên vì kiến thức chuyên môn còn hạn chế và bản thân còn thiếu nhiều kinh nghiệm thực tiễn nên nội dung của luận văn không tránh khỏi những thiếu xót, em rất mong nhận sự góp ý, chỉ bảo thêm của quý thầy, cô để bài viết này được hoàn thiện hơn. Một lần nữa xin gửi đến quý thầy, cô và học viện lời cảm ơn chân thành và tốt đẹp nhất! HỌC VIÊN Dương Lan Hoa MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ PHÁP LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN.......................................................................................................... 6 1.1. Khái niệm, vai trò của pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện ............ 6 1.2. Điều chỉnh pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện ....................... 18 1.3 Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện........................................................................................... 22 Chương 2: THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI THỊ XÃ SƠN TÂY THÀNH PHỐ HÀ NỘI .......................... 28 2.1. Thực trạng quy định pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện ở Việt Nam hiện nay .................................................................................. 28 2.2. Thực tiễn thực hiện quy định pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện ở thị xã Sơn Tây thành phố Hà Nội ........................................... 34 Chương 3: YÊU CẦU, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ TỔ CHỨC THỰC HIỆN TẠI THỊ XÃ SƠN TÂY THÀNH PHỐ HÀ NỘI . 48 3.1. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện ở Việt Nam trong thời gian tới ................................................................... 48 3.2. Giải pháp về hoàn thiện pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện ........ 49 3.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật Bảo hiểm xã hội tại thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội .......................... 54 KẾT LUẬN .................................................................................................... 69 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 71 DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT BHXH Bảo hiểm xã hội BHXHTN Bảo hiểm xã hội tự nguyện CP Chính phủ HĐ Hợp đồng KT-XH Kinh tế - xã hội NĐ Nghị định NLĐ Người lao động TP Thành phố DANH MỤC BẢNG Bảng 2.1. Bảng tỷ lệ hưởng chế độ hưu trí .......................................................................... 29 Bảng 2.2. Số người tham gia BHXH tự nguyện giai đoạn 2011 – 2019. ............................ 38 Bảng 2.3. Kết quả số thu BHXH tự nguyện. ....................................................................... 39 Bảng 2.4. Kết quả người hưởng chế độ hưu trí BHXH tự nguyện. ..................................... 40 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Để tồn tại, phát triển con người phải lao động nhằm tạo ra của cải vật chất phục vụ cho cuộc sống. Muốn vậy, con người phải có sức khoẻ và khả năng lao động. Trong thực tế, lao động không phải người lao động nào cũng có đủ điều kiện sức khoẻ, khả năng lao động hoặc những may mắn khác để hoàn thành nhiệm vụ lao động, công tác hoặc tạo nên cho mình và gia đình một cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Ngược lại, không mấy ai tránh được những rủi ro bất hạnh như ốm đau, tai nạn hay già yếu, chết hoặc thiếu công ăn việc làm do những ảnh hưởng của tự nhiên, của những điều kiện sống và sinh hoạt cũng như các tác động xã hội khác. Cùng với sự phát triển của xã hội, ý thức cộng đồng được nâng dần lên thì “dịch vụ bảo hiểm xã hội" cũng hoàn thiện dần và ngày càng đa dạng, phong phú. Khi nền kinh tế hàng hoá hình thành và phát triển đã có sự chuyên môn hoá trong hoạt động đời sống xã hội. Quá trình công nghiệp hoá tạo ra một đội ngũ lao động làm công ăn lương và cuộc sống hoàn toàn phụ thuộc vào thu nhập từ lao động của họ … Cho nên, khi có những rủi ro xảy ra làm cho người lao động bị mất hoặc giảm thu nhập dẫn đến ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của họ. Để khắc phục tình trạng này truyền thống tương thân, tương ái vốn có trong nhân dân được phát huy. Các quỹ tương tế, quỹ ái hữu và các hiệp hội ra đời nhằm bảo vệ các thành viên của mình, dưới các hình thức quyên góp một phần thu nhập của các thành viên khi họ còn khoẻ mạnh, còn có thu nhập. Đây là những hình thức sơ khai của BHXH sau này. Dần dần khi kinh tế hàng hoá phát triển, các mối quan hệ lao động và quan hệ xã hội ngày càng trở nên quan trọng. Luật Bảo hiểm xã hội 2014 ra đời, riêng chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện được áp dụng từ năm 2008. Bảo hiểm xã hội tự nguyện chủ yếu áp dụng cho đối tượng là công dân Việt Nam từ đủ 15 tuổi đến đủ 60 tuổi với nam, đủ 15 tuổi đến đủ 55 tuổi đối với nữ và không thuộc diện áp dụng của 1 pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc. Như vậy, người lao động ở mọi khu vực có quyền lợi trong tham gia và thụ hưởng chính sách bảo hiểm xã hội. Tại thị xã Sơn Tây, thành phố Hà Nội việc triển khai bảo hiểm xã hội tự nguyện mặc dù còn mới, nhưng hệ thống bảo hiểm xã hội đã phân cấp tổ chức bộ máy hoạt động đến cấp huyện và có đại lý đến cấp xã, phường rất thuận lợi cho người lao động tiếp cận để tham gia. Tuy nhiên, qua hơn 10 năm triển khai thực hiện, số lượng người lao động tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện còn rất hạn chế, chưa đáp ứng được nhu cầu của họ ̣cũng như định hướng của Đảng, Nhà nước. Nguyên nhân số lượng người tham gia còn ít do đặc điểm lao động của đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện ở nước ta là: trình độ học vấn và nhận thức xã hội còn nhiều hạn chế, lao động phần lớn chưa qua đào tạo, việc làm bấp bênh, thu nhập thấp. Vấn đề cần đặt ra là làm thế nào để người lao động nhận thức được sự cần thiết tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện. Xuất phát từ những lý do trên, em đã chọn đề tài “Bảo hiểm xã hội tự nguyện theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tại thị xã Sơn Tây, TP Hà Nội. ” làm luận văn Thạc sỹ Luật học của mình với mong muốn góp phần hoàn thiện pháp luật bảo hiểm xã hôị tự nguyện ở nước ta. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Bảo hiểm xã hội tự nguyêṇ đang ngày càng được quan tâm không chỉ trong thực tiễn mà còn với những nhà nghiên cứu khoa học. Một số công trình đã được thực hiện dưới dạng khóa luận tốt nghiệp như: “Thưc ̣ trạng pháp luâṭ bảo hiểm xã hội tự nguyện ở Viêṭ Nam hiện nay – trường Đại học Mở Hà Nội” của tác giả Hồ Thị Hải (thực hiện năm 2016), “Bảo hiểm xã hội tự nguyện - Bốn năm thực hiện và môṭ số kiến nghi ḥ oàn thiện”- tác giả Trần Thị Huyền Lê ( Đại học Luật Hà Nội thực hiện năm 2017) … Trong số đó có thể kể các công trình được thực hiện ở cấp độ thạc sỹ như Luâṇ văn thạc sĩ luật học “Bảo hiểm xã hội tự nguyện ở Việt Nam ” của 2 tác giả Lê Thị Thu Hằng – Trường Đại học Quốc Gia Hà Nội (thực hiện năm 2017), “Bảo hiểm xã hội tự nguyện - Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật” của tác giả Hoàng Quốc Đạt – Đại học Kinh tế quốc dân (thực hiện năm 2016), “Bảo hiểm xã hội tự nguyện - 5 năm thực hiện và một số kiến nghi ̣hoàn thiện” của tác giả Đặng Thị Vân Khánh – Đại học Kinh tế quốc dân (thực hiện năm 2015). Ngoài ra có các đề tài nghiên cứu của Bảo hiểm xã hội Viêṭ Nam “Cơ sở lý luận cho việc thực hiện bảo hiểm xã hội tự nguyện Viêṭ Nam thời gian tới ” do Tiến sĩ Nguyễn Tiến Phú làm chủ nhiệm (thực hiện năm 2011); các bài viết “Chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện ở Việt Nam ” của TS. Lê Thi ̣Hoài Thu - tạp chí Nhà nước và pháp luật số 7/2017. Đặng Như Lợi (2014), “Cải cách Luật BHXH để mở rộng bảo hiểm hưu trí đối với người cao tuổi”, Tạp chí Lý luận chính trị. TS. Nguyễn Hiền Phương (chủ biên, 2015), “Bình luận khoa học một số quy định của luật BHXH năm 2014”, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường, Trường Đại học Luật Hà Nội. Những bài viết này đã đề cập đến một số khía cạnh của BHXH nói chung và BHXH tự nguyện nói riêng của Luật BHXH năm 2014. Tuy nhiên, thực tiễn thực hiện pháp luật BHXH tự nguyện vẫn còn nhiều vướng mắc cần tiếp tục được nghiên cứu hoàn thiện. Đặc biệt, chưa có công trình nào nghiên cứu riêng về việc thực hiện chế độ BHXH tự nguyện ở Thị xã Sơn Tây, TP Hà Nội. Do đó, luận văn này trên cơ sở kế thừa những công trình nghiên cứu trước đó cùng với thực tiễn thực hiện pháp luật nhằm bổ sung thêm vào hê ̣thống lý luận về bảo hiểm xã hội tự nguyện để từ đó đưa ra một số kiến nghi ̣hoàn thiện pháp luâṭ bảo hiểm xã hội tự nguyện ở thị xã Sơn Tây, TP Hà Nội. 3 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu đề tài này là nghiên cứu một số vấn đề lý luận pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện, đánh giá thực trạng quy định pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện ở Việt Nam hiện nay, đánh giá thực tiễn thực hiện tại thị xã Sơn Tây và đề xuất các yêu cầu, kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện. Để thực hiện mục đích nghiên cứu trên, luận văn thực hiện các nhiệm vụ sau: - Làm rõ khái niệm pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện, nguyên tắc điều chỉnh của bảo hiểm xã hội tự nguyện và nội dung của bảo hiểm xã hội tự nguyện - Phân tích các quy định pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện, chỉ ra những thành tựu và hạn chế. - Chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng đến thực tiễn thực hiện quy định về bảo hiểm xã hội tự nguyện ở Sơn Tây - Đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện tại Sơn Tây; - Đề xuất một số yêu cầu, kiến nghị hoàn thiện pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện và nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện từ kinh nghiệm ở Sơn Tây. 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo hiểm xã hội tự nguyện và thực tiễn thực hiện ở TX Sơn Tây từ năm 2014-2019. Do điều kiện nghiên cứu hạn chế, luận văn không nghiên cứu về thanh tra, xử lý vi phạm và giải quyết khiếu nại, tố cáo, giải quyết tranh chấp về bảo hiểm xã hội tự nguyện. 4 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lê Nin (tổng hợp phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử ), tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước, về xây dựng và hoàn thiện hê ̣thống pháp luật nói chung, pháp luật về bảo hiểm xã hội nói riêng . Trong quá trình nghiên cứu, luận văn đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu như phương pháp phân tích và tổng hợp,̣ phương pháp so sánh, liêṭ kê, phương pháp kết hợp giữa lý luận và thực tiễn đồng thời vận dụng các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về bảo hiểm xã hội nói chung và bảo hiểm xã hội tự nguyện nói riêng làm cơ sở cho quá trình nghiên cứu. 6. Kết cấu Luận văn Ngoài Lời mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm ba chương: Chương 1: Khái quát về pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện. Chương 2: Thưc ̣ trạng quy định pháp luật Việt Nam và thực tiễn thực hiện pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện tại thị xã Sơn Tây thành phố Hà Nội. Chương 3: Yêu cầu, giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện và nâng cao hiệu quả thực hiện tại thị xã Sơn Tây thành phố Hà Nội. 5 Chương 1 KHÁI QUÁT VỀ PHÁP LUẬT BẢO HIỂM XÃ HỘI TỰ NGUYỆN 1.1 . Khái niệm, vai trò của pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện 1.1.1. Khái niệm pháp luật bảo hiểm xã hội tự nguyện Lịch sử hình thành và phát triển pháp luật BHXH trên thế giới cho thấy, BHXH là vấn đề của mỗi quốc gia, nó đã xuất hiện từ rất lâu mà mầm mống của nó từ thế kỉ XIII ở Nam Âu khi nền công nghiệp và kinh tế hàng hoá đã bắt đầu phát triển. Tuy nhiên ban đầu BHXH chỉ mang tính chất sơ khai, với phạm vi nhỏ hẹp. Từ thế kỉ XIII đến thế kỉ XVI một số nghiệp đoàn thợ thủ công ra đời và để bảo vệ lẫn nhau trong hoạt động nghề nghiệp họ đã thành lập nên các quỹ tương trợ để giúp đỡ lẫn nhau. Cộng hòa liên bang Đức là nước đầu tiên thiết lập BHXH và BHXH lúc đó hoàn toàn mang tính chất bắt buộc. Tuy nhiên, sự phát triển của BHXH được thiết lập từng bước. Từ năm 1881 đến 1889, các chế độ BHXH bắt buộc lần lượt ra đời: chế độ bảo hiểm xã hội ốm đau được thiết lập năm 1883, chế độ bảo hiểm tai nạn lao động năm 1884 và chế độ bảo hiểm tuổi già năm 1889. Vào cuối thế kỷ XIX, ở Đức chỉ có 10% dân số tham gia BHXH bắt buộc. Tuy nhiên đến thế kỷ XX, đặc biệt là từ năm 1950 BHXH bắt buộc phát triển đến mức số người tham gia chiếm hơn 90% dân số. [10, tr.15] Bảo hiểm xã hội đã trở thành một trong những quyền của con người và được xã hội thừa nhận. Tuyên ngôn nhân quyền của Liên Hợp Quốc (10/12/1948) đã ghi nhận: “Tất cả mọi người với tư cách là thành viên của xã hội có quyền hưởng BHXH”. Ngày 04/6/1952, Tổ chức lao động quốc tế (ILO) đã kí công ước Giơnevơ về “Bảo hiểm xã hội cho người lao động” đã khẳng định tất yếu các nước phải tiến hành BHXH cho NLĐ và gia đình họ. 6 Đến nay, hầu hết các nước trên thế giới đã thực hiện chính sách BHXH đặc biệt là BHXH bắt buộc và coi đó là một trong những chính sách xã hội quan trọng nhất trong hệ thống an sinh xã hội. Khía cạnh kinh tế và pháp lý có các khái niệm về Bảo hiểm xã hội khác nhau. Theo từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học, Bảo hiểm xã hội là sự: "Bảo đảm những quyền lợi vật chất cho công nhân, viên chức khi không làm được vì ốm đau, sinh đẻ, già yếu, bị tai nạn lao động". Theo tác giả Trần Quang Hùng và Tiến sĩ Mạc Văn Tiến: "Bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với người lao động khi họ gặp phải các biến cố hoặc mất khả năng lao động hoặc mất việc làm bằng các hình thức và sử dụng một qũy tài chính tập trung sự đóng góp của người sử dụng lao động và người lao động nhằm đảm bảo an toàn đời sống cho người lao động và gia đình họ, góp phần bảo đảm an toàn xã hội". [14, tr.19] Cuốn: "Thuật ngữ lao động Thương binh xã hội" Tập 1 nhà xuất bản Lao động 1999, Bảo hiểm xã hội được hiểu là: "Sự bảo đảm của xã hội đối với người lao động thông qua việc huy động các nguồn đóng góp của người sử dụng lao động, người lao động và sự hỗ trợ của nhà nước để trợ cấp người lao động khi họ bị mất sức lao động tạm thời hoặc vĩnh viễn do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, tàn tật, thất nghiệp, tuổi già chết nhằm đảm bảo an toàn xã hội". Theo Tổ chức lao động quốc tế (ILO): "Bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập từ nghề nghiệp do bị mất hoặc giảm khả năng lao động hoặc mất việc làm do những rủi ro xã hội thông qua việc hình thành, sử dụng một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia Bảo hiểm xã hội, nhằm góp phần đảm bảo an toàn đời sống của người lao động và gia đình họ, đồng thời góp phần đảm bảo an toàn xã hội". [13, tr.10] 7 Dưới góc độ kinh tế: Bảo hiểm xã hội là phạm trù kinh tế tổng hợp, là sự bảo đảm thu nhập nhằm đảm bảo cuộc sống cho người lao động khi bị giảm hoặc mất khả năng lao động. Dưới góc độ pháp lý: Chế độ Bảo hiểm xã hội là tổng hợp những quy định của Nhà nước, quy định các hình thức đảm bảo điều kiện vật chất và tinh thần cho người lao động và trong một số trường hợp là thành viên gia đình họ khi bị giảm hoặc mất khả năng lao động. Như vậy, đã có rất nhiều quan điểm khi đưa ra khái niệm Bảo hiểm xã hội song có một điểm chung là Bảo hiểm xã hội có tác dụng giúp người lao động trong những lúc khó khăn hiểm nghèo, ốm đau, tai nạn, thai sản... trên cơ sở đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động có sự hỗ trợ của Nhà nước trước khi có biến cố xảy ra và khi người lao động gặp phải thì quỹ Bảo hiểm xã hội sẽ giúp họ cân bằng phần thu nhập bị giảm sút hay bị mất, giúp họ trang trải phần chi tiêu bị tăng cao khi gặp các rủi ro khó khăn. Như vậy, về bản chất BHXH chính là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động trong trường hợp họ gặp rủi ro trong quá trình lao động như ốm đau, thai sản, tai nạn lao động hoặc khi họ không còn tham gia quan hệ lao động nữa như hết tuổi lao động, chết…BHXH thường được thực hiện dưới 2 hình thức: BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện trong đó BHXH bắt buộc là hình thức BHXH quan trọng được áp dụng với phạm vi đối tượng tương đối rộng và các chế độ BHXH bao gồm cả BHXH ngắn hạn và BHXH dài hạn. Bảo hiểm xã hội tự nguyện BHXH tự nguyện là một loại hình BHXH được xây dựng và thực hiện ở nước ta. Cơ sở pháp lý đầu tiên cho việc thực hiện BHXH tự nguyện ở Việt Nam là luật BHXH số 76/2006/QH được Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 29/6/2006. Chế định về BHXH tự nguyện tại luật BHXH số 76/2006/QH được Quốc hội nước Cộng 8 hòa XHCN Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 9 thông qua ngày 29/6/2006, có hiệu lực thực hiện vào ngày 01/1/2008, cho đến nay pháp luật về BHXH tự nguyện ở Việt Nam được thực hiện gần 9 năm. Sau thời gian đưa vào thực hiện đã được sửa đổi tại luật số 58/2014/QH13, được Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam khóa VIII, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 20/11/2014. Theo Từ điển giải thích thuâṭ ngữ Luâṭ hoc ̣ :“Bảo hiểm xã hôị tự nguyêṇ là loại hình bảo hiểm xã hội hình thành trên cơ sở kết hợp giữa tổ chức , bảo trợ của Nhà nước với sự tham gia tự nguyện của người lao động có nhu cầu bảo hiểm”. Nhằm hiểu rõ hơn bản chất của bảo hiểm xã hôị tự nguyêṇ cần phải phân biêṭ với loaị hình kinh doanh bảo hiểm (bảo hiểm thương mại ). Bảo hiểm xã hôị tự nguyêṇ và bảo hiểm thương mại được thực hiện trên cùng một nguyên tắc là có tham gia đóng góp bảo hiểm thì mới được hưởng quyền lợi. Hoạt động của hai loại bảo hiểm này đều nhằm để bù đắp tài chính cho các đối tượng tham gia bảo hiểm khi họ gặp phải những rủi ro gây ra thiệt hại trong khuôn khổ bảo hiểm đang tham gia. Phương thức hoạt động của hai loại hình này đều mang tính cộng đồng lấy số đông bù số ít. Tuy nhiên mục tiêu hoạt động của bảo hiểm thương mại là lợi nhuận còn mục tiêu hoạt động bảo hiểm xã hội tự nguyện là nhằm thực hiện chính sách xã hội của Nhà nước, góp phần ổn định đời sống cho người lao động và các thành viên trong gia đình họ. Vì vậy hoạt động bảo hiểm xã hội tự nguyện là hoạt động phi lợi nhuận và nhằm mục đích an sinh xã hội. Như vậy thì BHXH tự nguyện là hệ thống những quy tắc xử sự mang tính bắt buộc chung do nhà nước ban hành và đảm bảo thực hiện, nhằm điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực BHXH tự nguyện. Luật BHXH tự nguyện quy định chế độ, chính sách BHXH tự nguyện, đối tượng đóng, mức đóng, phương thức đóng, quyền, trách nhiệm của các bên liên quan đến việc thực hiện pháp luật BHXH tự nguyện. 9 Phân biệt BHXH bắt buộc với BHXH tự nguyện BHXH bắt buộc với BHXH tự nguyện cùng là chính sách an sinh xã hội được thực hiện ở nước ta như BHXH bắt buộc, BHXH tự nguyện có nhiều điểm khác biệt để nhận thấy. + Đối tượng tham gia BHXH bắt buộc là người lao động tham gia hợp đồng lao động với chủ sử dụng lao động (tổ chức hoặc cá nhân), nhưng đối với người tham gia BHXH tự nguyện là lao động tự do, tự mình tham gia đóng BHXH tự nguyện. + Phí BHXH bắt buộc bao gồm người lao động đóng một phần, chủ sử dụng đóng một phần, riêng phí BHXH tự nguyện thì do người tham gia BHXH tự nguyện đóng 100%; tuy nhiên do thực hiện chính sách mới cho nên Nhà nước hỗ trợ phần nhỏ trên đóng BHXH tự nguyện từ 2018 trở đi. + BHXH bắt buộc hiện nay có 5 chế độ, gồm ốm đau, thai sản, tai nạn lao động bằng nghề nghiệp, hưu trí, tử tuất về BHXH tự nguyện có hai chế độ sau: hưu trí, tử tuất. + Phương thức đóng BHXH bắt buộc là theo tháng, có trường hợp đặc biệt theo ngành sản xuất kinh doanh của đơn vị sử dụng lao động thì họ có thể đóng theo quý, theo 6 tháng. Đối với BHXH tự nguyện, người lao động có thể đóng theo tháng, theo quý, cả năm hoặc đóng một lần cho nhiều năm sau đó, đặc biệt người tham gia BHXH tự nguyện đủ tuổi nghỉ hưu nhưng thời gian đóng BHXH tự nguyện đóng đủ từ 10 năm trở lên thì được đóng mỗi lần tiền gốc, tiền lãi để đủ tối thiếu 20 năm đóng BHXH tự nguyện để hưởng chế độ hưu BHXH. [23, tr.66] Quy định tại Khoản 3 điều 3 Luật Bảo hiểm xã hội, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2014): “Bảo hiểm xã hội tự nguyện là loại hình bảo hiểm xã hội mà người lao động tự nguyện tham gia, được lựa chọn mức đóng và phương thức đóng phù hợp với thu nhập của mình để hưởng bảo hiểm xã hội”. 10 Theo Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học:“Bảo hiểm xã hội tự nguyện là loại hình bảo hiểm xã hội hình thành trên cơ sở kết hợp giữa tổ chức, bảo trợ của Nhà nước với sự tham gia tự nguyện của người lao động có nhu cầu bảo hiểm”. [15, tr.15] Như vậy, nhằm hiểu rõ hơn bản chất của bảo hiểm xã hội tự nguyện cần phải phân biệt với loại hình kinh doanh bảo hiểm (bảo hiểm thương mại). Bảo hiểm xã hội tự nguyện và bảo hiểm thương mại được thực hiện trên cùng một nguyên tắc là có tham gia đóng góp bảo hiểm thì mới được hưởng quyền lợi. Hoạt động của hai loại bảo hiểm này đều nhằm để bù đắp tài chính cho các đối tượng tham gia bảo hiểm khi họ gặp phải những rủi ro gây ra thiệt hại trong khuôn khổ bảo hiểm đang tham gia. Phương thức hoạt động của hai loại hình này đều mang tính cộng đồng lấy số đông bù số ít. Tuy nhiên mục tiêu hoạt động của bảo hiểm thương mại là lợi nhuận còn mục tiêu hoạt động bảo hiểm xã hội tự nguyện là nhằm thực hiện chính sách xã hội của Nhà nước, góp phần ổn định đời sống cho người lao động và các thành viên trong gia đình họ. Vì vậy hoạt động bảo hiểm xã hội tự nguyện là hoạt động phi lợi nhuận và nhằm mục đích an sinh xã hội. Pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện Hệ thống bảo hiểm xã hội lần đầu tiên trên thế giới được hình thành vào giữa thế kỷ XIX là công trình của Chính phủ Đức và sau đó được hoàn thiện năm 1883-1889 với chế độ bảo hiểm ốm đau, bảo hiểm tuổi già, tàn tật và sự hiện diện của cả ba thành viên xã hội: người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước. Kinh nghiệm về bảo hiểm xã hội của Đức,sau đó lan dần sang nhiều nước châu Âu (Anh 1991, Ý: 1919, Pháp 1918…) Pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện ở Trung Quốc Chương trình BHXH tự nguyện ở nông thôn được thực hiện như một chương trình tiết kiệm cá nhân, trong đó có mức đóng hoặc tỷ lệ đóng do 11 người lao động tự chọn, các hợp tác xã ở nông thôn khuyến khích người lao động trong xã hội tham gia đóng quỹ với mức tương ứng của hợp tác xã. Đối tượng tham gia chương trình Bảo hiểm tự nguyện ở nông thôn là những lao động làm việc trong các hợp tác xã ở khu vực nông thôn. - Cơ chế đóng. + Mức đóng quỹ: Mức đóng, tỷ lệ đóng quỹ là tự nguyện, hợp tác xã và người lao động có thể đóng cùng một mức, nhưng có thể đóng mức khác nhau tùy thuộc vào điều kiện của từng Hợp tác xã và người lao động. + Phương thức đóng: Việc đóng của người lao động là tự nguyện, không hạn chế tuổi tác, có thể đóng một lần, điều đó hoàn toàn phụ thuộc vào điều kiện và hoàn cảnh riêng của người lao động. + Mức đóng và phương thức hưởng: Mức hưởng BHXH hàng tháng của người nghỉ hưu được xác định trên cơ sở lấy tổng số tiền trên tài khoản cá nhân chia ra 216 tháng (18 năm), nếu người đóng quỹ quá ít, người lao động thường xin nhận một lần với toàn bộ số tiền có trong tài khoản. Phương thức hưởng đối với người lao động là rất linh hoạt, người lao động có thể nhận tiền hàng tháng hoặc có thể được nhận một lần, trong quá trình đóng quỹ người lao động có thể nhận tiền đóng của mình trong các trường hợp như: phải di chuyển chỗ ở sang tỉnh khác, hay có lý do chính đáng khác nhưng chỉ được nhận lại số tiền do chính bản thân mình đóng góp còn phần đóng của Hợp tác xã thì người lao động không được nhận. [8, tr.38] - Điều kiện hưởng: + Người lao động tham gia quỹ và số tiền được hưởng trong tài khoản của cá nhân. + Người lao động được nhận chế độ BHXH đối với nam đủ 60 tuổi và nữ 55 tuổi trở lên. 12 - Chính sách khuyến khích Thực hiện chính sách khuyến khích thông qua lãi suất tài khoản cá nhân với mức hiện nay là 2,5%, trong khi đó lãi suất tiết kiệm 1 năm là 1,9% và lãi suất được tính gộp (tức là lãi suất được tính vào vốn), đây là chính sách được khuyến khích mạnh mẽ người lao động tham gia đóng quỹ. Người lao động phải trừ chi phí quản lý 30% trong năm đầu đóng quỹ, từ năm thứ hai không phải trừ một loại chi phí nào khác, trong trường hợp thiếu chi phí quản lý được bổ sung từ ngân sách địa phương (Bùi Sỹ Lợi, 2012). Pháp luật về bảo hiểm xã hội tự nguyện ở Ba Lan Tại Ba Lan do số lao động nông thôn và nông dân khá lớn, Chính phủ Ba Lan đã triển khai các hoạt động xã hội cho nông dân ở Ba Lan được thực hiện trên cơ sở tự nguyện từng khu vực (không phụ thuộc vào biên giới hành chính mà phụ thuộc vào điều kiện canh tác) có thể thương lượng và lập ra quỹ BHXH (chủ yếu là chương trình hưu trí). Đối tượng tham gia vào chương trình BHXH tự nguyện ở nông thôn là những người lao động làm nhiệm vụ trong các trang trại tư nhân và người lao động ở nông thôn (không phải nông dân cũng có quyền tham gia) - Cơ chế đóng hưởng + Mức đóng vào quỹ: Mức đóng hay tỷ lệ đóng quỹ là tự nguyện ban quản lý quỹ thông qua các mức đóng – hưởng khác nhau và được chính quyền chấp nhận, tùy thuộc vào điều kiện của từng khu vực và người lao động. + Phương thức đóng: Có thể một lần hay nhiều lần . + Khi đủ tuổi nghỉ hưu như quy định chung của hệ thống BHXH quốc gia người lao động có quyền hưởng lương hưu không phụ thuộc vào người đó có làm việc hay không. Nhà nước (chính quyền Trung ương và địa phương) có thể hỗ trợ trực tiếp cho quỹ một khoản hàng năm, tùy thuộc vào mức độ chi BHXH và khả năng của ngân sách, đồng thời bảo hộ cho các hoạt động đầu tư quỹ. 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan