Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Biến đổi tập quán cưới xin của người tày ở huyện cao lộc, tỉnh lạng sơn...

Tài liệu Biến đổi tập quán cưới xin của người tày ở huyện cao lộc, tỉnh lạng sơn

.PDF
186
493
138

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM Giang Thị Huyền BIẾN ĐỔI TẬP QUÁN CƯỚI XIN CỦA NGƯỜI TÀY Ở HUYỆN CAO LỘC, TỈNH LẠNG SƠN LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC Hà Nội- 2017 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM Giang Thị Huyền BIẾN ĐỔI TẬP QUÁN CƯỚI XIN CỦA NGƯỜI TÀY Ở HUYỆN CAO LỘC, TỈNH LẠNG SƠN Chuyên ngành: Văn hóa học Mã số : 62 31 06 40 LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HÓA HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. ĐỖ ĐÌNH HÃNG Hà Nội- 2017 1 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan, bản luận án tiến sĩ Biến đổi tập quán cưới xin của người Tày ở huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn là do tôi viết và chưa công bố. Trong quá trình thực hiện luận án, tôi đã kế thừa nguồn tài liệu của các nhà nghiên cứu đi trước và có trích dẫn đầy đủ. Kết quả nghiên cứu trong luận án là trung thực. Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan này. Hà Nội, ngày tháng năm 2017 Tác giả Giang Thị Huyền 2 MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN………………………………………………………………….. ........ 1 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT…………………………………………………… ........ 3 DANH MỤC BẢNG.......................................................................................................... 4 MỞ ĐẦU ............................................................................................................................ 5 Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU ................................................................................................ 11 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài luận án ....................................................... 11 1.2. Cơ sở lý thuyết ........................................................................................................ 20 1.3. Khái quát về người Tày ở Lạng Sơn và 3 địa điểm nghiên cứu ............................. 29 Tiểu kết Chương 2. TRUYỀN THỐNG TRONG TẬP QUÁN CƯỚI XIN CỦA NGƯỜI TÀY Ở HUYỆN CAO LỘC, TỈNH LẠNG SƠN ........................................................... 42 2.1. Quan niệm về hôn nhân .......................................................................................... 42 2.2. Các nguyên tắc kết hôn ........................................................................................... 46 2.3. Các nghi lễ cưới xin ................................................................................................ 50 Tiểu kết Chương 3. NHỮNG BIẾN ĐỔI TRONG TẬP QUÁN CƯỚI XIN TRUYỀN THỐNG CỦAN GƯỜI TÀY Ở HUYỆN CAO LỘC, TỈNH LẠNG SƠN .................. 85 3.1. Những khía cạnh biến đổi ....................................................................................... 85 3.2. Nguyên nhân của sự biến đổi .................................................................................. 120 Tiểu kết Chương 4. GIÁ TRỊ, XU HƯỚNG BIẾN ĐỔI VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA ...... 130 4.1. Giá trị truyền thống trong tập quán cưới xin của người Tày................................... 130 4.2. Xu hướng biến đổi tập quán cưới xin của người Tày ở Cao Lộc, Lạng Sơn những năm tới. ........................................................................................................................... 140 4.3. Một số vấn đề đặt ra ............................................................................................... 142 Tiểu kết KẾT LUẬN ........................................................................................................................ 152 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ………….. ............ 155 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................ 157 3 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT CNH, HĐH: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa NCS : Nghiên cứu sinh NTL : Người trả lời PTTQ : Phong tục tập quán PL : Phụ lục SL : Số lượng STT : Số thứ tự THCS : Trung học cơ sở THPT : Trung học phổ thong TT : Thị trấn UBND : Ủy ban nhân dân V/C NTL : Vợ / Chồng người trả lời 4 DANH MỤC BẢNG Bảng 3.1. Nơi sinh của NTL và vợ/chồng NTL.......................................................86 Bảng 3.2. Tương quan giữa nơi sinh của V/C NTL với 3 điểm NC ...................86 Bảng 3.3. Tiêu chí lựa chọn bạn đời ...................................................................88 Bảng 3.4. Tuổi kết hôn lần đầu ...........................................................................90 Bảng 3.5.Giới và độ tuổi kết hôn ........................................................................91 Bảng 3.6. Tuổi kết hôn với nhóm năm kết hôn của NTL ...................................91 Bảng 3.7. Trình độ học vấn và độ tuổi kết hôn ...................................................92 Bảng 3.8. Tuổi kết hôn ở 3 điểm nghiên cứu ......................................................93 Bảng 3.9. Cảm nhận khi người thân kết hôn với dân tộc khác ...........................95 Bảng 3.10. Các hình thức tìm hiểu trước khi kết hôn..............................................98 Bảng 3.11 . Hình thức tự tìm hiểu trước khi cưới (%)........................................99 Bảng 3.12. Hình thức “bố mẹ giới thiệu” trước khi cưới (%) ............................99 Bảng 3.13. Quyền quyết định hôn nhân............................................................100 Bảng 3.14. Nghi thức pháp luật .......................................................................107 Bảng 3.15. Đăng ký kết hôn theo nhóm năm kết hôn của NTL ......................107 Bảng 3.16. Ý kiến về quy mô tổ chức đám cưới so với trước .........................109 Bảng 3.17. Nguyên nhân thay đổi quy mô đám cưới .......................................111 Bảng 3.18. Quà mừng đám cưới .......................................................................112 Bảng 3.19. Quà mừng đám cưới theo nhóm năm kết hôn của người trả lời.....112 Bảng 3.20. Mức độ trang trải của đồ mừng đám cưới so với chi phí bỏ ra ......113 Bảng 3.21. Trang phục truyền thống khi tổ chức đám cưới ............................115 Bảng 3.22. Trang phục truyền thống trong đám cưới theo nhóm năm kết hôn của NTL ................................................................................................ 116 Bảng 3.23. Của hồi môn của cô dâu, chú rể .....................................................118 Bảng 3.24. Của hồi môn của cô dâu, chú rể theo nhóm năm kết hôn của NTL ...... 119 Bảng 3.25. Hát quan lang trong đám cưới truyền thống ...................................120 Bảng 3.26. Hát quan lang trong đám cưới hiện nay .........................................120 5 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Việt Nam là một quốc gia đa tộc người. Trải qua quá trình lịch sử lâu dài, các tộc người thiểu số trên đất nước ta đã sáng tạo và để lại nhiều giá trị văn hóa tiêu biểu, độc đáo, in đậm dấu ấn tộc người. Văn hóa các dân tộc thiểu số là bộ phận cốt lõi tạo nên tính đa dạng trong sự thống nhất của nền văn hóa Việt Nam. Nhiều giá trị văn hóa của các tộc người thiểu số đã được vinh danh và trở thành di sản chung của cả nhân loại. Trong những năm qua, sự vận động và phát triển của văn hóa các dân tộc thiểu số ở nước ta ngoài những yếu tố tự thân còn diễn ra dưới sự tác động của công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng từ năm 1986, quá trình đẩy mạnh hội nhập quốc tế, phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa… Kết quả là, văn hóa các dân tộc thiểu số ở nước ta đã và đang có những biến đổi rất nhanh. Có một thực tế là, sự phát triển kinh tế - xã hội, kinh tế thị trường, toàn cầu hóa, giao lưu văn hóa… tạo cơ hội cho các nền văn hóa cơ hội được chia sẻ và tiếp biến các giá trị, làm giàu nền văn hóa tộc người nhưng cũng đặt các nền văn hóa của các tộc người trước nguy cơ ngày càng trở nên hiện hữu là sự mất mát di sản, sự phai nhạt bản sắc văn hóa... Trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, các dân tộc thiểu số với tư cách chủ thể văn hóa phải lựa chọn được mô hình văn hóa thích hợp khi phải đối mặt với những áp lực từ bên ngoài, dũng cảm phá bỏ những rào cản để vừa kế thừa truyền thống vừa đổi mới và phát triển. Nhận diện quá trình biến đổi, tác động của sự biến đổi với mục tiêu ổn định và phát triển, dự báo xu hướng biến đổi, giải pháp bảo tồn và phát triển văn hóa truyền thống Việt Nam nói chung, văn hóa các dân tộc thiểu số, trong đó có văn hóa các dân tộc thiểu số ở khu vực miền núi phía Bắc nói riêng trong quá trình biến đổi để xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là vấn đề có tính cấp thiết cả trước mắt và lâu dài, vừa có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. 6 1.2. Là một tộc người trong nhóm ngôn ngữ Tày - Thái, người Tày có vai trò, vị trí quan trọng trong sự hình thành và phát triển của dân tộc Việt Nam nói riêng và trong khu vực Đông Nam Á nói chung. Ở Việt Nam, địa bàn cư trú của người Tày chủ yếu ở các tỉnh vùng miền núi phía Bắc, đặc biệt là Đông Bắc, như Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Hà Giang, Thái Nguyên và rải rác ở một số tỉnh như Hòa Bình, Yên Bái, Quảng Ninh trong đó Lạng Sơn là nơi có nhiều người Tày sinh sống nhất, 252.800 người [115, tr.15-16]... So với các tộc người thiểu số khác, người Tày nói chung, người Tày ở Lạng Sơn nói riêng, có trình độ phát triển tương đối cao, sớm làm chủ một vùng đất đai rộng lớn. Trải qua quá trình phát triển lâu dài, người Tày ở Lạng Sơn đã tạo dựng cho mình một đời sống vật chất, tinh thần phong phú, độc đáo góp phần tạo dựng nên văn hóa Xứ Lạng nhiều thành tựu và đậm đà bản sắc. Trong thời kỳ đổi mới, trước tác động của sự biến đổi kinh tế - xã hội, của khoa học kỹ thuật và công nghệ, quá trình đô thị hóa và giao lưu diễn ra sâu rộng trên mọi mặt của đời sống xã hội, văn hóa truyền thống của người Tày đang có sự biến đổi rất nhanh. Người Tày tiếp nhận được nhiều giá trị mới, tiến bộ từ văn hóa các tộc người khác làm phong phú hơn, hiện đại hơn cho văn hóa của mình. Tuy nhiên, cũng có thể dễ dàng nhận thấy một số phong tục, tập quán chứa đựng nhiều giá trị tốt đẹp có nguy cơ bị mai một, xói mòn, thậm chí biến mất khỏi đời sống đương đại… So với các tộc người thiểu số khác, quá trình biến đổi văn hóa của người Tày diễn ra nhanh hơn, mạnh mẽ hơn ở nhiều cấp độ, đa dạng về mô hình… một phần do người Tày cư trú chủ yếu ở vùng thấp, Lạng Sơn lại cách thủ đô Hà Nội không xa và nằm trên trục đường thông thương giữa vùng phía Nam của Trung Quốc với Việt Nam nên thuận lợi cho giao lưu và tiếp biến văn hóa. Sự biến đổi văn hóa truyền thống của người Tày còn do và xuất phát từ nhu cầu tự thân của sự vận động và phát triển. Nghiên cứu thực trạng xu hướng biến đổi văn hóa của người Tày ở Lạng Sơn trong thời kỳ đổi mới vừa có ý nghĩa làm rõ, khẳng định những giá trị truyền thống tốt đẹp, cung cấp cơ sở thực tiễn để hoạch định và triển khai thực hiện có hiệu quả đường lối, chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước trong xây 7 dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc nói chung và văn hoá tộc người nói riêng. 1.3. Là một trong những nghi lễ quan trọng của chu kỳ đời người, cưới xin phản ánh rõ nét đặc điểm văn hóa tộc người. Thông qua cách tổ chức đám cưới, người ta có thể đánh giá trình độ văn hóa, cả về đời sống vật chất và đời sống tinh thần của một tộc người. Cùng với nhiều phong tục, tập quán khác, tập quán cưới xin của người Tày nói chung, người Tày ở Lạng Sơn nói riêng mang nhiều nét độc đáo, chứa đựng nhiều giá trị nhân văn và in đậm bản sắc văn hóa tộc người. Tuy nhiên, sự thay đổi thời gian và không gian sống kéo theo sự thay đổi trong hôn nhân, mà trước hết là trong việc tổ chức cưới xin. Sự biến đổi đó đang diễn ra theo nhiều xu hướng và ở nhiều mức độ khác nhau. Điều đó đòi hỏi cần có những nghiên cứu, đánh giá thật toàn diện, cụ thể để có những khuyến nghị nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị trong tập quán cưới xin của người Tày để các giá trị này có thể phát triển một cách bền vững trong bối cảnh mới. Từ những lý do trên, tôi chọn đề vấn đề: “Biến đổi tập quán cưới xin của người Tày ở huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn” làm đề tài luận án Tiến sỹ chuyên ngành Văn hóa học. 2. Mục đích nghiên cứu 2.1. Mục đích tổng quát Nêu, phân tích, đánh giá sự biến đổi trong tập quán cưới xin truyền thống của người Tày ở huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn giai đoạn hiện nay, từ đó cung cấp những luận cứ khoa học và những đề xuất khả thi trong việc định hướng cho bảo tồn và phát huy giá trị trong tập quán cưới xin của người Tày ở Lạng Sơn nói riêng, người Tày ở khu vực miền núi phía Bắc nói chung . 2.2. Mục đích cụ thể - Tìm hiểu diện mạo tập quán cưới xin truyền thống của người Tày ở Cao Lộc, Lạng Sơn. - Thực trạng, nguyên nhân biến đổi trong tập quán cưới xin của người Tày ở huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn. 8 - Khuyến nghị một số vấn đề cho việc đề ra giải pháp bảo tồn và phát huy giá trị truyền thống trong tập quán cưới xin của người Tày ở huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn trong xã hội đương đại. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng: Tập quán cưới xin của người Tày ở huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn trong quá trình vận động, biến đổi theo thời gian để thích nghi và tồn tại. 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Không gian nghiên cứu: Huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn. Điểm nghiên cứu chính là 3 làng/thôn: thôn Bản Vàng (Xã Cao Lâu), đại diện cho vùng sâu, vùng xa; thôn Bắc Đông II (Xã Gia Cát), đại diện cho vùng ven đô và Khối 5 (thị trấn Cao Lộc), đại diện cho vùng đô thị hóa. - Thời gian nghiên cứu: Nghiên cứu tập quán cưới xin của người Tày với các mốc thời gian cụ thể gắn với những biến đổi của đời sống chính trị, kinh tế, xã hội (trước 1975: thời kỳ chiến tranh; từ 1975-1986: Thời kỳ bao cấp; từ 1986-1996: 10 năm sau đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH; và từ 1997- nay: Thời kỳ mở rộng hợp tác quốc tế) trong sự so sánh hồi cố với tập quán cưới xin truyền thống. 4. Phương pháp tiếp cận và phương pháp nghiên cứu Xuất phát từ đối tượng nghiên cứu của luận án là biến đổi tập quán cưới xin, NCS lựa chọn phương pháp tiếp cận liên ngành văn hóa học với mong muốn đây là phương pháp tiếp cận hữu hiệu cho đề tài luận án. Sau đây là một số phương pháp nghiên cứu cụ thể: 4.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Tiếp cận, nghiên cứu phân tích, sử dụng các nhóm tài liệu sau: (i) nhóm tài liệu trình bày các khái niệm tập quán, phong tục và các quan điểm lý thuyết về biến đổi văn hóa, vùng văn hóa; (ii) các nghiên cứu về người Tày, văn hóa Tày, về biến đổi văn hóa của người Tày trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, giao lưu và hội nhập; đặc biệt chú trọng nghiên cứu đề cập đến phong tục, tập quán cưới xin của người Tày; (iii) các báo cáo kinh tế - xã hội hàng năm của địa phương. 4.2. Phương pháp nghiên cứu định tính: Tiến hành điền dã dân tộc học nhiều đợt ở các địa bàn nghiên cứu, sử dụng các phương pháp phỏng vấn sâu, quan sát tham dự, thảo luận nhóm để thu thập thông tin. 9 Đối tượng để tiến hành nghiên cứu là những cán bộ quản lý văn hóa và cán bộ làm công tác văn hóa cơ sở; các chuyên gia và người dân địa phương. Đối với cán bộ quản lý, cán bộ làm công tác văn hóa cơ sở, thông qua các cuộc phỏng vấn sâu nghiên cứu sinh tìm hiểu thực trạng văn hóa truyền thống và sinh hoạt văn hóa ở địa phương, thực trạng quản lý và định hướng chính sách của chính quyền đối với việc bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa truyền thống trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Đối với các chuyên gia, nghiên cứu sinh tham vấn quan điểm của họ trong đánh giá thực trạng, hệ quả của vấn đề biến đổi văn hóa của người Tày nói chung, tập quán cưới xin nói riêng, cũng như các giải pháp cần thiết nhằm bảo tồn và phát huy nét đẹp trong phong tục, tập quán của tộc người này. Đối với người dân địa phương, nghiên cứu sinh dành nhiều thời gian làm việc với nhóm nòng cốt - gồm những người hiểu biết nhất về lịch sử và hiện trạng của cộng đồng (trưởng thôn, người có uy tín trong cộng đồng, các nghệ nhân), nhóm phụ nữ và nhóm thanh niên. Mục đích của nghiên cứu định tính là tìm hiểu sâu hơn về quá trình phát triển của mỗi cộng đồng, các lựa chọn của cộng đồng ở mỗi thời điểm mang tính bước ngoặt, các quan điểm của người dân về những vấn đề mà họ đã và đang đối diện, các khuôn mẫu đang chi phối hành vi của người dân địa phương. Thời gian của mỗi cuộc phỏng vấn, thảo luận phụ thuộc vào nội dung cần trao đổi. Mỗi cuộc phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm được ghi âm, chụp ảnh, quay phim với sự cho phép của những người được tham gia phỏng vấn. Các ghi chép sau đó được chọn lọc là tài liệu cho bản thảo luận án. Một số trường hợp nhạy cảm, tên của thông tín viên được thay đổi. 4.3. Phương pháp nghiên cứu định lượng: Kết hợp với nguồn tư liệu định tính, nguồn tư liệu qua điều tra xã hội học sẽ giúp đề tài có điều kiện phân tích sâu, so sánh, đối chiếu các thông tin. Bảng hỏi được thiết kế gồm các nội dung liên quan tập quán hôn nhân và cưới xin của người Tày và đã được thực hành ở huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn (Phụ lục kèm theo). Mẫu điều tra được chọn theo phương pháp ngẫu nhiên tại 3 thôn/ khối phố ở huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn là thôn Bản Vàng (xã Cao Lâu), thôn Bắc 10 Đông II (xã Gia Cát) và Khối 5 (thị trấn Cao Lộc). Số lượng hộ được điều tra là 109 hộ. Trong đó, thôn Bản Vàng 36 hộ, thôn Bắc Đông II 45 hộ và khối 5 là 28 hộ. Số liệu được xử lý và phân tích trên phần mềm SPSS. 5. Đóng góp của luận án Đây là chuyên khảo tìm hiểu một cách có hệ thống và tương đối toàn diện về tập quán cưới xin của người Tày trong môi trường biến đổi. Vì vậy, luận án được thực hiện thành công sẽ góp phần: - Tìm hiểu một cách có hệ thống tập quán cưới xin truyền thống của người Tày ở huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn và chỉ ra những giá trị cơ bản của tập quán này. - Nhận diện sự biến đổi tập quán cưới xin của người Tày ở tất cả các phương diện, chỉ rõ nguyên nhân của sự biến đổi, dự báo các xu hướng biến đổi của văn hóa của người Tày nói chung, tập quán cưới xin của người Tày nói riêng ở một một vùng giáp biên dưới tác động của quá trình toàn cầu hóa, đô thị hóa và chính sách phát triển góp phần cung cấp cho chính quyền các cấp những cứ liệu khoa học trong việc hoạch định chính sách bảo tồn và phát huy những giá trị tốt đẹp, góp phần thiết thực xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. - Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ bổ sung vào việc nghiên cứu về biến đổi văn hóa các tộc người trong bối cảnh kinh tế thị trường và công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 6. Cấu trúc của luận án Ngoài phần Mở đầu (10 trang), Kết luận (5 trang), Tài liệu tham khảo (9 trang) và Phụ lục (28 trang), nội dung của luận án được kết cấu thành 4 chương: Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý thuyết và địa bàn nghiên cứu (30 trang) Chương 2. Truyền thống trong tập quán cưới xin của người Tày ở Cao Lộc, Lạng Sơn (42 trang) Chương 3. Những biến đổi trong tập quán cưới xin của người Tày ở Cao Lộc, Lạng Sơn (44 trang) Chương 4. Giá trị, xu hướng biến đổi và một số vấn đề đặt ra (23 trang) 11 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài luận án 1.1.1. Nghiên cứu của các học giả nước ngoài về người Tày ở Việt Nam Là một tộc người trong nhóm ngôn ngữ Tày - Thái, có vai trò, vị trí quan trọng trong sự hình thành và phát triển của khu vực Đông Nam Á nói chungvà dân tộc Việt Nam nói riêng, từ sớm dân tộc Tày đã được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm tìm hiểu. Sử sách Trung Quốc cổ đại và cận hiện đại đã đề cập đến dân tộc Tày ở nước ta trong mối quan hệ với các tộc người ở bên kia biên giới Việt Trung. Trong các thư tịch cổ Trung Quốc: Sử ký (Tư Mã Thiên), Thủy kinh chú (Lịch Đào Nguyên), Hậu Hán thư (Phạm Việp), Tùy Thư (Ngụy Trung)... đã có các ghi chép về các tộc người ở Tứ Xuyên, Vân Nam, Quảng Tây, trong đó có các nhóm Khương, Di, Choang - Đồng cổ đại với các tộc người nói ngôn ngữ Tày Thái hiện nay ở Trung Quốc, Việt Nam, Thái Lan, Lào. Đến thời kỳ cận đại, các học giả Trung Quốc tiếp tục tìm hiểu và cho công bố nhiều nghiên cứu về các tộc người Tày, Nùng, Thái. Tiêu biểu là: Các dân tộc thiểu số ở Trung Quốc của Sở nghiên cứu dân tộc Trung Quốc; Các dân tộc thiểu số ở Vân Nam của Sở nghiên cứu dân tộc Quý Châu, Trung Quốc Tây Nam đích cổ đại dân tộc của Vưu Trung... Đầu thế kỷ XX, một số học giả Tây Âu và Bắc Mỹ cũng quan tâm đến người Tày và một số tộc người khác vùng miền núi phía Bắc nhằm tìm hiểu lịch sử, ngôn ngữ và văn hóa của các cộng đồng ngữ hệ Thái - Kađai khu vực Nam Trung Quốc và Đông Nam Á. Chẳng hạn như: Vân Nam- cái chốt giữa Ấn Độ và sông Dương Tử của H.R. Danes; Tính năng động chủng tộc ở Đông Nam Á và từ Vân Nam đến Thái Lan của V. Eichstedt; hoặc Thái-Kađai và Indonesia, một cách phân loại mới ở Đông Nam Á của Paul K.Benedict [41, tr.42]... Tuy nhiên, điều dễ nhận thấy là, phần lớn các nghiên cứu này đều tập trung vào lịch sử hình thành và phát triển của các tộc người. Vấn đề văn hóa, nhất là sự khu biệt về văn hóa giữa các dân tộc ít được quan tâm.Trong suốt thời gian dài sau đó, người Tày cũng như văn hóa Tày ít được các học giả ngước ngoài quan tâm hơn. Phải đến những năm 12 đổi mới bắt đầu có một số công trình, dự án nghiên cứu liên ngành về chuyển đổi nông nghiệp vùng cao, tiêu biểu như: Brigh Peaks, Dark Valleys: A Comparative Analasis of Enviromental and Social Conditions and Development Trends in Five Communities in Vietnam’s Northern Mountain Region của Lê Trọng Cúc và Rambo [21]... đề cập đến những biến đổi trong đời sống kinh tế - xã hội và văn hóa của dân tộc Tày. Gần đây, khi mối quan hệ giữa các tộc người, nhất là quan hệ tộc người xuyên biên giới trở thành chủ đề được quan tâm, một số học giả Trung Quốc, nhất là các nhà nghiên cứu ở Đại học Dân tộc Quảng Tây, Học viện Hồng Hà (Vân Nam), Trung Quốc có xu hướng quay trở lại tìm hiểu, nghiên cứu về nhóm Tày, Nùng (trong mối tương quan với người Choang, Trung Quốc). Ví dụ như: Luận bàn khái quát về sùng bái tổ tiên của dân tộc Choang Trung Quốc và dân tộc Tày, Nùng của Việt Nam của Đằng Thành Đạt [99]. Tuy nhiên, các nghiên cứu chủ yếu tập trung vào sự giao thoa, sự tương đồng và khác biệt giữa 2 nhóm này liên quan đến nguồn gốc, quá trình tộc người, tín ngưỡng, lễ hội... chứ không đề cập đến những vấn đề hôn nhân hay cưới xin. 1.1.2. Nghiên cứu của các học giả trong nước về người Tày và tập quán cưới xin của người Tày 1.1.2.1. Các công trình nghiên cứu về người Tày có đề cập đến tập quán cưới xin Là một trong những nghi lễ vòng đời người nên có thể thấy trong những nghiên cứu, hầu hết khi phản ánh đời sống văn hóa tinh thần của người Tày các tác giả đều đề cập đến tập quán cưới xin. Từ những năm đầu thế kỷ XX, trong công trình Cao Bằng tạp chí nhật tập viết về nguồn gốc các tộc người ở Cao Bằng, khi nói về người Tày, phần: Tục lấy vợ, lấy chồng của người Thổ (tức người Tày) tác giả Bế Huỳnh khái quát như sau: “Người Thổ từ xưa không có lễ gia quan, chỉ có tục lấy vợ, lấy chồng, đại thể cũng tuân theo sáu thứ lễ của Chu Công„[87, tr.25], bao gồm: lễ Nạp thái, lễ Vấn danh, Trưng lễ, Cát lễ, lễ Thỉnh lỳ, lễ Thân nghênh. Sáu lễ trên tương ứng với tên tục gọi, gồm: Lễ Nạp thái (lễ Má (dấm, dạm) - lễ Dạm vợ); lễ Vấn danh (lễ Páo sư đây - lễ báo hợp mệnh); Trưng lễ (lễ Báo đáp); Cát lễ (lễ Tẳt tháp - đặt gánh); lễ Nạp cát, lễ Thỉnh kỳ (lễ Páo hoằn - lễ báo cưới, thách cưới); lễ Thân nghênh (Rẳp lùa - lễ đón 13 dâu). Trong từng lễ, tác giả đã miêu thuật một cách cụ thể về thời gian, cách thức, lễ vật cụ thể của từng vùng người Thổ ở Cao Bằng. Ngoài ra, ông cũng miêu tả tục “nộp lễ gánh„ (Sống tháp), tục “đại lễ„ và tục “uống rượu, ăn cỗ cưới„ (Kin lẩu), tục “hát hỏi Quan lang„ hay tục lễ lại mặt. Theo đó, ba ngày sau khi cưới, nhà trai phải chuẩn bị lễ vật là lễ lại mặt, vợ chồng cùng về nhà gái làm lễ bái yết. Từ đó cô dâu sẽ ở lại nhà cha mẹ đẻ, khi nhà chồng có việc thì đón về vài ngày, xong lại quay trở về . Chỉ đến khi có thai đến kỳ sinh nở nhà chồng mới đón về sinh con và từ đó sinh sống luôn tại nhà chồng. Từ cuối những năm 60 của thế kỷ XX hàng loạt các công trình nghiên cứu về về dân tộc thiểu số, trong đó có người Tày được công bố: Công trình Các dân tộc ít người ở Việt Nam của Viện Dân tộc học [111], Công trình Sơ lược giới thiệu các nhóm Tày - Nùng – Thái ở Việt Nam của Lã Văn Lô và Đặng Nghiêm Vạn [58]; Công trình Văn hóa Tày, Nùng của Lã Văn Lô và Hà Văn Thư [59]; Công trình Văn hóa truyền thống Tày - Nùng của Hoàng Quyết và Ma Khánh Bằng [76]; Công trình Phong tục tập quán dân tộc Tày ở Việt Bắc của Hoàng Huy Quyết và Tuấn Dũng [77], .v.v.. Điểm chung của các công trình này là đã “vẽ nên một bức tranh khái quát nhất về diện mạo của một dân tộc theo cái nhìn của dân tộc học lịch sử„ bao gồm: nguồn gốc lịch sử, quá trình tộc người, đặc trưng đời sống văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần, văn hóa xã hội. Trong đó, tập quán cưới xin được mô tả khái quát nhất ở các phương diện: quan niệm hôn nhân, chế độ, nguyên tắc kết hôn, quyền quyết định hôn nhân, tuổi kết hôn. Theo đó, người Tày cho rằng, hôn nhân là nhằm mục đích thỏa mãn yêu cầu của gia đình là sinh con đẻ cái, nối dõi tông đường [59, tr.42]. Vì vậy, việc hôn nhân chủ yếu do cha mẹ quyết định. Chính đặc điểm này đã chi phối toàn bộ nội dung nguyên tắc, bản chất, tiêu chí lựa chọn bạn đời. Bên cạnh đó, các tác giả cũng cho rằng, về cơ bản, tục cưới xin của đồng bào Tày có 7 nghi lễ chính, bao gồm: Lễ dạm hỏi, Lễ mình hom (mừng lá số), Lễ khả cáy (mổ gà), Lễ sêu tết, Lễ ăn hỏi, Lễ cưới chính thức, Lễ hòi ròi [59, tr.44 - 45]. Các nghi lễ được tác giả miêu tả và trình bày một cách hết sức sơ lược và khái quát. Ở thập niên cuối của thế kỷ XX, khi quá trình giao lưu, hợp tác quốc tế ngày càng được mở rộng, văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam nói chung, văn hóa 14 các tộc người nói riêng đang đứng trước những cơ hội lớn của quá trình giao lưu, tiếp biến văn hóa. Đồng thời cũng chính văn hóa, nhất là văn hóa của các dân tộc thiểu số cũng bị đặt trước thách thức của sự lai căng, áp đặt từ bên ngoài, sự mai một các giá trị, bản sắc dân tộc. Từ đây, vấn đề vị trí, vai trò của văn hóa, nhất là văn hóa truyền thống được nhận thức được đầy đủ hơn. Hàng loạt các công trình nghiên cứu về văn hóa và vấn đề phát huy giá trị bản sắc văn hóa tộc người được công bố. Có thể kể đến hai công trình tiêu biểu về văn hóa Tày theo hướng này là: Công trình Đến với người Tày và văn hóa Tày của La Công Ý [115]. và chuyên khảo Văn hóa Tày ở Việt Nam và tiến trình hội nhập thế giới của Dương Thuấn [92]. Điểm chung của hai công trình này là, tác giả đều là những người con của dân tộc Tày. Sự kết hợp giữa vốn sống thực tế, những điều mắt thấy, tai nghe, những trải nghiệm của một người trong cuộc với tri thức văn hóa mà một nhà nghiên cứu đã được các tác giả trình bày ở dạng học thuật đã đem lại những ấn tượng mạnh mẽ về vẻ đẹp của văn hóa Tày. Tuy nhiên, do đây không phải là những công trình nghiên cứu chuyên sâu về phong tục, nhất là phong tục, tập quán cưới xin nên những nội dung liên quan đến tập quán này chỉ được các tác giả nhắc đến như những dẫn dụ về những nét đặc trưng làm nên những giá trị độc đáo của văn hóa truyền thống người Tày. Luận án Tiến sỹ Nhân học Một số nét biến đổi văn hóa của người Tày ở Lạng Sơn trong quá trình đổi mới kinh tế- xã hội của Bế Văn Hậu [41] là một trong số hiếm hoi những chuyên khảo đã dựng lên một bức tranh tương đối khái quát và toàn diện về văn hóa của người Tày ở Lạng Sơn trên tất cả các phương diện: văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần, văn hóa xã hội và những biến đổi của nó trước sự tác động của quá trình đổi mới kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Ở chương Biến đổi văn hóa tinh thần, tác giả cũng có chỉ ra sự biến đổi của Lễ cưới ở một số phương diện: nghi thức tổ chức lễ cưới, tuổi kết hôn lần đầu, quyền quyết định hôn nhân,tục thách cưới và hiện tượng hôn nhân hỗn hợp [41, tr.130-136]... Ngoài ra, tác giả cũng đặt ra vấn đề bảo tồn và phát huy các giá trị tốt đẹp của văn hóa truyền thống của người Tày ở Lạng Sơn. Tuy nhiên, do đối tượng nghiên cứu của luận án khá rộng, bao quát các phương diện liên 15 quan hầu hết đến mọi khía cạnh của đời sống văn hóa của người Tày (trước và sau 1986) nên tác giả cũng chưa có điều kiện đi sâu phân tích, lý giải những nguyên nhân sâu xa của sự biến đổi trong tập quán này. Báo cáo kết quả nghiên cứu đề tài Văn hóa tộc người và giao thoa văn hóa ở miền Tây Cao Bằng của Đàm Thị Uyên [108] trong phần “Phong tục cưới hỏi của người dân tộc Tày miền Tây Cao Bằng: truyền thống và những thay đổi„ cũng chỉ ra những nguyên tắc cơ bản, những khuôn mẫu lý tưởng trong quan hệ nam nữ, tính chất và quyền quyết định hôn nhân trong phong tục truyền thống của người Tày [108, tr.423-425]. Đồng thời công trình cũng lược thuật những nghi lễ cơ bản trong tổ chức đám cưới. Về đại thể, một đám cưới truyền thống của người Tày thường bao gồm các nghi lễ sau: Lễ dạm hỏi (xam), Lễ hợp số (Mỉnh hom, Lục mỉnh), Lễ ăn hỏi (Kin háp, Kin lẹ), Lễ sêu tết, Lễ báo ngày cưới (Páo vằn), Lễ cưới (Kin lẩu) và Lễ lại mặt [108, tr.430-439]. Tác giả cũng đưa ra một vài nhận định về xu hướng biến đổi phong tục tập quán cưới xin của người Tày hiện nay. Tuy nhiên, do tác giả không đặt tập quán cưới xin làm đối tượng nghiên cứu chính của công trình nên cũng mới chỉ dừng lại ở nhận xét, đánh giá mà chưa đưa ra được những kết quả nghiên cứu cụ thể, xác thực. 1.1.2.2. Các công trình nghiên cứu chuyên sâu về tập quán cưới xin của người Tày Có thể nhận thấy, những công trình chuyên khảo, nghiên cứu chuyên sâu về tập quán hôn nhân và cưới xin của người Tày không nhiều. Có thể kể ra các công trình nghiên cứu tiêu biểu sau: Hôn nhân và gia đình các dân tộc Tày, Nùng và Thái ở Việt Nam của Đỗ Thúy Bình [7] là “cuốn sách chuyên khảo đầu tiên đi sâu vào hôn nhân và gia đình ba dân tộc Tày, Nùng và Tháí„ [7, tr.9]. Cuốn sách gồm 5 chương, trong chương V “Những nghi lễ gia đình„ có mục Tập tục cưới xin ở người Tày, Nùng [7, tr.181-193]. Phần này tác giả chủ yếu tập trung mô tả các nghi lễ chủ yếu của một đám cưới Tày bao gồm: Lễ ướm hỏi, lễ xin lục mệnh, lễ ăn hỏi, lễ cưới, lễ lại mặt... Trong quá trình mô tả, tác giả đã có cái nhìn so sánh giữa cộng đồng Tày ở các khu vực khác nhau cũng như của người Tày với các tộc người khác để tìm ra những điểm tương đồng cũng như khác biệt, độc đáo trong từng nội dung của nghi lễ. Công trình đã phác họa bức 16 tranh toàn cảnh sự tiến hóa của các hình thức khác nhau của hôn nhân và gia đình, những đặc điểm chung và riêng tiềm ẩn trong các quan hệ hôn nhân và gia đình ở các dân tộc Tày, Nùng và Thái [7, tr.13]. Tuy nhiên, có thể thấy, ngay tên chuyên khảo cũng đã chỉ rõ nội dung nghiên cứu không chỉ tập trung vào hôn nhân và cưới xin, đối tượng nghiên cứu của chuyên khảo cũng không chỉ là dân tộc Tày, vì vậy phần dành cho tập quán cưới xin còn chiếm số lượng khiêm tốn [7, tr.181-195]. Công trình Tục cưới xin của người Tày của tác giả Triều Ân và Hoàng Quyết [4] miêu tả khá kỹ lễ cưới truyền thống của người Tày. Đây là công trình văn hóa dân gian được hai tác giả dày công sưu tầm, khảo cứu. Công trình gồm 3 phần: Phần thứ nhất. Tục cưới xin và lễ cưới, tập trung miêu tả những chuẩn bị của hai bên gia đình, cho con cái trước khi tiến hành lễ cưới và các nghi lễ trong đám cưới. Theo đó, khi gia đình có con trai lớn (khoảng từ 12 tuổi) cha mẹ phải lo tính tìm cưới vợ cho con. Việc chuẩn bị phải tiến hành nhiều mặt, nhất là về vật chất. Một đám cưới phải chi dùng rất tốn kém của cải và tiền bạc cho nên cha mẹ phải lo liệu sớm những vấn đề cần thiết: tiền bạc; lợn cưới; tham gia phường họ, bạn; gửi gom vật chất; tìm ướm lựa chọn con dâu tương lai; đưa con trai ra ngoài xã hội và chăm sóc dạy bảo con gái; trồng bông dệt vải; chăn tằm, dệt lụa; trồng cây chàm, nhuộm chàm; làm lõi chăn bông và khâu quần áo; phấn si (vốn riêng)... Vì thế, có rất nhiều các công việc cần chuẩn bị và trong một thời gian dài mới có thể hoàn thành được. Tiếp theo là tổ chức lễ cưới. Có thể nói, tục lệ cưới xin truyền thống của người Tày gồm nhiều bước, nhiều thủ tục và khá câu nệ. Diễn trình một đám cưới từ buổi gặp gỡ đầu tiên giữa hai gia đình đến khi cô dâu về lại mặt bố mẹ đẻ gồm 8 lễ, trong một lễ lại bao gồm khá nhiều thủ tục. Như trong lễ đón dâu gồm có 12 lệ: căng dây chặn đường; giữ cửa; rải chiếu; mời nước chè; nộp gánh; dâng tấm vải ướt khô; bái tổ họ hàng; lễ bố mẹ vợ/ bố mẹ chồng; xin đón dâu... Phần thứ hai, tác giả giới thiệu hệ thống các văn bản thơ Quan lang, Pả mẻ được sưu tầm ở Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Thái, Tuyên Quang, Yên Bái và Hà Giang. Phần thứ ba, các tác giả đề cập đến vấn đề bảo tồn, kế thừa và phát triển những giá trị tôt đẹp trong tập quán cưới xin của người Tày. Tuy nhiên, như Lời nói đầu cuốn sách đã khẳng định: cuốn 17 sách mới chỉ dừng lại ở việc “sưu tầm, nghiên cứu khoa học khảo cứu về tục cưới xin của người Tày nhằm tìm hiểu những nét đẹp cũng như những điều cần suy nghĩ, bổ sung về một di sản văn hóa dân gian” [4, tr.12] mà chưa có dịp đề cập, nghiên cứu về sự biến đổi của nó trong xã hội đương đại. Công trình Việc dựng vợ, gả chồng của người Tày Cao Bằng của tác giả Hoàng Tuấn Nam và Bế Thanh Tuyền [64]. Công trình gồm 3 phần, trong đó phần 2: “Một số nghi thức về việc đón con dâu, con rể trong ngày làm lễ cưới„ giới thiệu nghi thức cưới xin bao gồm 12 bước theo trình tự: Xin bản lục mỉnh (đính hôn), Lễ dạm hỏi, chuẩn bị làm lễ cưới, ngày làm lễ cưới,việc đón dâu trong ngày cưới, con rể lạy tổ tiên, con rể dâng rượu mời khách, bữa cơm đoàn kết hoan hỷ giữa đoàn đại biểu nhà trai và nhà gái, mời con dâu ra cửa vè nhà chồng, nàng dâu ra cửa về nhà chồng, đón dâu vào nhà và tẻo sam nâư. Mỗi bước lại bao gồm nhiều thủ tục, nghi lễ, nội dung... Cuốn sách đã khắc họa được những vấn đề cơ bản nhất về việc dựng vợ, gả chồng của tập quán có từ lâu đời của người Tày ở Cao Bằng... [64, tr.98]. Tuy nhiên, cũng như công trình Tục cưới xin của người Tày của hai tác giả Triều Ân và Hoàng Quyết, công trình Việc dựng vợ, gả chồng của người Tày Cao Bằng cũng mới chỉ dừng lại ở “phản ánh những nhận thức cổ truyền trong sáng về việc xây dựng hạnh phúc lứa đôi cho con cái của người Tày„ [64, tr.10], chưa có điều kiện đề cập đến sự biến đổi của nó cũng như những vấn đề cần quan tâm trong việc bảo tồn và phát huy những giá trị trong tập quán cưới xin của người Tày trong giai đoạn hiện nay. Công trình Tục hôn nhân cổ của người Tày Nguyên Bình của Hoàng Thị Cành [16]. Theo tác giả, người Tày ở huyện Nguyên Bình, Cao Bằng còn lưu giữ những nét phong tục văn hóa rất độc đáo trong sinh hoạt văn hóa đặc biệt là trong hôn nhân. Điều này được tác giả miêu tả một cách cụ thể, chi tiết qua từng bước: trước, trong và sau khi cưới với nhiều thủ tục, nghi lễ. Từ tìm hiểu, điều tra gia đình đối phương, xem lục mệnh, mua sắm đến tiến hành các nghi lễ dạm hỏi, lễ ăn hỏi, lễ cưới, lễ lại mặt… Ngoài việc mô tả chi tiết phong tục cưới hỏi ở trên, công trình cũng dành một dung lượng cho việc phân tích một số vấn đề trong phong tục 18 hôn nhân của người Tày ở Nguyên Bình, những thuần phong mỹ tục cần giữ gìn phát triển, hoặc khôi phục, có cái đã lỗi thời cần điều chỉnh lại hoặc gạt bỏ. Ngoài ra, có thể thấy Tập quán cưới xin của người Tày cũng trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều sinh viên, học viên khi viết khóa luận, luận văn tốt nghiệp, nhất là của sinh viên khoa Văn hóa dân tộc thiểu số của Trường Đại học Văn hóa Hà Nội những năm gần đây. Có thể kể đến công trình: Khóa luận tốt nghiệp Cử nhân Bước đầu tìm hiểu về tục lệ cưới xin của người Tày ở xã Hưng Đạo, Hòa An, Cao Bằng của Đoàn Minh Thuận [93]; Luận văn Thạc sỹ Văn hóa học Hôn nhân của người Tày ở xã Vân Trình, huyện Thạch An, tỉnh Cao Bằng của Nông Anh Nga [66]; Tập tục chu kỳ đời người của người Tày ở xã Bằng Hành, huyện Bắc Quang, tỉnh Hà Giang của Seo Thị Thu Trang [98]; Khóa luận tốt nghiệp Tìm hiểu tập quán cưới xin của dân tộc Tày huyện Lục Yên, tỉnh Yên Bái của Quốc Thị Diễm, [26] và Tập quán cưới xin của người Tày ở xã Lăng Hiếu, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng của Hứa Thị Huyền [47], .v.v.. Điểm chung của tất cả các nghiên cứu này là đã miêu tả và chỉ ra đặc điểm trong tập quán cưới xin truyền thống của người Tày ở các phương diện: quan niệm hôn nhân, nguyên tắc kết hôn, tiêu chí chọn vợ, chọn chồng, các bước tiến hành và các nghi lễ tổ chức cưới hỏi. Một vài nghiên cứu bước đầu chỉ ra được những biến đổi trong tập quán cưới xin của người Tày hiện nay. Ngoài ra, các nghiên cứu còn cho thấy sự đa dạng của văn hóa tộc người ở các địa phương khác nhau thông qua tập quán cưới xin. Tuy nhiên, do phương pháp tiếp cận chủ yếu của các công trình trên chủ yếu tiếp cận dưới góc độ Dân tộc học nên thường tập trung vào khảo tả mà ít có những điều tra cụ thể nên chủ yếu mới nhìn nhận đối tượng nghiên cứu ở trong tình trạng “tĩnh”, chưa đặt vào trong bối cảnh biến đổi và nếu có chăng thì cũng chỉ mới dừng lại ở việc đưa ra những luận điểm chung mà chưa có các số liệu, minh chứng cụ thể, thuyết phục. Mặc dù vậy, đây vẫn là những công trình nghiên cứu có ý nghĩa quan trọng, cơ sở cần thiết, tiền đề cho việc nghiên cứu có tính chuyên sâu của luận án này. Đề cập đến tập quán cưới xin của người Tày không thể không nhắc đến các công trình sưu tầm, nghiên cứu về tục hát quan lang. Có thể nói, đây là “chất thơ”
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan