Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự việt nam từ thực tiễn tỉn...

Tài liệu Các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự việt nam từ thực tiễn tỉnh vĩnh phúc]

.DOC
86
480
87

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI KHỔNG MINH QUÂN CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH VĨNH PHÚC Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự Mã số : 8380104 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC TS. Trần Ngọc Hương HÀ NỘI- 2018 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu ghi trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn không trùng lặp với các công trình nghiên cứu có liên quan đã được công bố. Tác giả luận văn Khổng Minh Quân MỤC LỤC MỞ ĐẦU:...................................................................................................................................................1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM..................................................................................................6 1.1. Khái niệm các biện pháp ngăn chặn trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam. .6 1.2. Mục đích và ý nghĩa của việc áp dụng biện pháp ngăn chặn trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam.............................................................................................................................8 1.3. Các nguyên tắc và căn cứ áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam..........................................................................................................................12 1.4. Cơ quan, người có thẩm quyền và đối tượng áp dụng biện pháp ngăn chặn......21 Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI TỈNH VĨNH PHÚC ..................24 2.1. Các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về các biện pháp ngăn chặn.............24 2.2. Thực tiễn áp dụng các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự tại tỉnh Vĩnh Phúc..........................................................................................................................................52 Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TẠI TỈNH VĨNH PHÚC..............................................................................................................................65 3.1. Các giải pháp....................................................................................................................................65 3.2. Một số kiến nghị về hoàn thiện hệ thống các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự...........................................................................................................................................................71 KẾT LUẬN...............................................................................................................................................76 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................................78 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT BLHS : Bộ luật Hình sự BLTTHS : Bộ luật tố tụng hình sự CQCSĐT : Cơ quan điều tra KSV : Kiểm sát viên ĐTV : Điều tra viên KSND : Kiểm sát nhân dân TAND : Tòa án nhân dân VKS : Viện kiểm sát VKSQS : Viện kiểm sát quân sự XHCN : Xã hội chủ nghĩa DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU 1. Bảng 2.1: Số liệu thụ lý án hình sự trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc từ năm 2015-2017 2. Bảng 2.2: Số liệu thụ lý án hình sự trên địa bàn cả nước từ năm 2015-2017 3. Bảng 2.3: Tình hình áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc từ 2015-2017 4. Bảng 2.4: Tình hình áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc giai đoạn 2015-2017 5. Bảng 2.5: Tình hình áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt người trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc từ 2015-2017 MỞ ĐẦU 1.Tính cấp thiết của đề tài: Quyền con người là quyền cơ bản của mỗi công dân, được Hiến pháp và pháp luật bảo hộ. Quyền con người là bất khả xâm phạm, động chạm đến quyền con người là hết sức nhạy cảm. Đặc biệt trong điều kiện trình độ dân trí ngày càng lên cao và phương tiện thông tin đại chúng được phổ biến rộng rãi, bảo vệ quyền con người có ý nghĩa hết sức quan trọng. Việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự để kịp thời ngăn chặn tội phạm, hoặc khi có căn cứ chứng tỏ người bị buộc tội sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội, hoặc để bảo đảm thi hành án, nhưng nó cũng trực tiếp động chạm đến quyền con người, các quyền tự do, quyền được bảo vệ tính mạng, danh dự, nhân phẩm…. Vấn đề đặt ra trong giai đoạn hiện nay là pháp luật phải hết sức chặt chẽ, quy định rõ ràng cụ thể về các biện pháp ngăn chặn trong TTHS và các cơ quan có thẩm quyền, người có thẩm quyền trong TTHS áp dụng cũng cần hiểu đúng, làm đúng, tuân thủ chặt chẽ các quy định đó để tránh những trường hợp vi phạm, gây hậu quả rất lớn đối với cá nhân và ảnh hưởng tới trật tự toàn xã hội. Nghiên cứu lý luận và thực tiễn áp dụng các biện pháp ngăn chặn ở nước ta nói chung và tại tỉnh Vĩnh Phúc nói riêng trong những năm gần đây cho thấy, các biện pháp ngăn chặn trong TTHS đã được áp dụng trong việc giải quyết các vụ án hình sự. Việc áp dụng các biện pháp đó cũng đã có vai trò quan trọng trong việc ngăn chặn kịp thời phạm tội, chặn đứng hành vi trốn tránh pháp luật của bị can, bị cáo, đảm bảo thi hành án. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được thì trong thời gian qua, vẫn còn có những hạn chế, bất cập nhất định trong quy định của pháp luật cũng như nhận thức của người tiến hành tố tụng về áp dụng các biện pháp ngăn chặn. Cùng với việc thông qua Hiến pháp 2013, các BLTTHS, BLHS cũng được sửa đổi, bổ sung trong đó về việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đã có nhiều điểm mới, khắc phục được những hạn chế của BLTTHS năm 2003. Việc nghiên cứu đánh giá đúng các quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự tại tỉnh Vĩnh Phúc 1 trong những năm gần đây; làm rõ những kết quả đã đạt được, hạn chế, vướng mắc, nguyên nhân của hạn chế, vướng mắc làm cơ sở cho việc đề xuất những giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc. Với những lý do nói trên, tác giả lực chọn đề tài “Các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Vĩnh Phúc” làm luận văn thạc sĩ là vấn đề rất cần thiết trong giai đoạn cải cách tư pháp hiện nay. 2.Tình hình nghiên cứu đề tài: Trong thời gian qua, trong sách báo pháp lý nước ta, các biện pháp ngăn chặn đã được đề cập đến trong các giáo trình của Trường Đại học Luật Hà Nội, GS.TS Võ Khánh Vinh (Chủ biên), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam NXB Công an nhân dân năm 2008, Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, NXB Công an nhân dân năm 2016… chúng được đưa ra nghiên cứu như đối tượng của bình luận khoa học các quy định của pháp luật hoặc hướng dẫn áp dụng thực tiễn. Các biện pháp ngăn chặn cũng được đưa ra nghiên cứu trong nhiều bài báo sách chuyên khảo chung về về tố tụng hình sự. Đặc biệt, đã có công trình nghiên cứu tương đối sâu đề cập đến các biện pháp ngăn chặn như: Những điều cần biết về bắt người, tạm giữ, tạm giam… đúng pháp luật của đồng tác giả Phạm Thanh Bình- Nguyễn Vạn Nguyên - NXB Pháp lý năm 1990; Các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự những vấn đề lý luận và thực tiễn, NXB công an nhân dân – Hà Nội 1999 của tác giả Nguyễn Duy Thuần; Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự, NXB Công an nhân dân năm 2004 do GS.TS Võ Khánh Vinh làm Chủ biên; Biện pháp ngăn chặn khám xét và kê biên tài sản trong Bộ luật tố tụng hình sự , NXB Tư pháp, 2004 của Th.s Nguyễn Mai Bộ; Về tự do cá nhân và biện pháp cưỡng chế tố tụng hình sự, NXB Chính trị Quốc gia, 2005 của TS. Trần Quang Tiệp; “Những nội dung mới trong Bộ luật tố tụng hình sự 2015”, Sách chuyên khảo, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2016 do PGS.TS Nguyễn Hòa Bình làm Chủ biên. Nhìn chung các công trình kể trên, ở các mức độ khác nhau đã đề cập đến đề tài luận văn. Tuy nhiên, chưa có công trình nào trực tiếp nghiên cứu đến vấn đề 2 “Các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Vĩnh Phúc”. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở các quy định của pháp luật, thực tiễn áp dụng các biện pháp ngăn chặn tại tỉnh Vĩnh Phúc, tác giả đặt ra cho mình mục đích nhận thức toàn diện về các biện pháp ngăn chặn và làm rõ những kết quả đã đạt được, hạn chế, vướng mắc, nguyên nhân của hạn chế, vướng mắc làm cơ sở cho việc đề xuất những giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nêu trên, trong luận văn tác giả tập trung giải quyết những nhiệm vụ sau đây: - Nghiên cứu bản chất pháp lý của biện pháp ngăn chặn. - Trên cơ sở nghiên cứu các quy định về biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự và các quan điểm của các nhà khoa học từ đó tác giả đưa ra khái niệm các biện pháp ngăn chặn. - Phân tích làm rõ mục đích, ý nghĩa, các nguyên tắc, căn cứ, thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và đối tượng có thể bị áp dụng biện pháp ngăn chặn. - Phân tích các quy định của BLTTHS năm 2015, (có so sánh với các quy định của BLTTHS năm 2003) về các biện pháp ngăn chặn. - Nghiên cứu việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc (trong thời gian từ 2015-2017) để có những đánh giá về hạn chế, vướng mắc, nguyên nhân của hạn chế,vướng mắc để từ đó đề xuất các giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc. 3 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu - Phân tích làm rõ mục đích, ý nghĩa, các nguyên tắc, căn cứ, thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và đối tượng có thể bị áp dụng biện pháp ngăn chặn. - Phân tích các quy định của BLTTHS năm 2015, (có so sánh với các quy định của BLTTHS năm 2003) về các biện pháp ngăn chặn. - Nghiên cứu việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc (trong thời gian từ năm 2015 đến năm 2017) để có những đánh giá những hạn chế, vướng mắc, nguyên nhân của hạn chế,vướng mắc để từ đó đề xuất các giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật tố tụng hình sự trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc. 4.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu, phân tích những vấn đề lý luận về các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự; Quy định của pháp luật và thực trạng áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc từ năm 2015 đến năm 2017. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Để đạt được mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu, luận văn dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lê Nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; Các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về áp dụng pháp luật, tăng cường pháp chế trong đấu tranh phòng, chống tội phạm, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu cụ thể, như: Phương pháp khảo sát, phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê…Kết hợp giữa các phương pháp nghiên cứu, phương pháp phân tích được xem là phương pháp chủ đạo. 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn Đây là công trình khoa học nghiên cứu có hệ thống chuyên sâu và đầy đủ trên một địa bàn cụ thể về áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra, truy 4 tố, xét xử. Ở một mức độ nhất định, kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo đối với các các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng cũng như những ai quan tâm nhận thức đầy đủ về lý luận và thực tiễn trong đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung cũng như hoạt động áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự nói riêng. Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng dạy, học tập trong các Trường Đại học. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu của luận văn còn có thể sử dụng để xây dựng các kỹ năng nghề nghiệp, thao tác nghiệp vụ cho ĐTV, KSV và Thẩm phán trong quá trình áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo; nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về các biện pháp ngăn chặn theo pháp luật Việt Nam Chương 2: Quy định của pháp luật Việt Nam về các biện pháp ngăn chặn và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Vĩnh Phúc. Chương 3: Các giải pháp nâng cao chất lượng áp dụng các quy định của pháp luật về các biện pháp ngăn chặn tại tỉnh Vĩnh Phúc. 5 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM 1.1. Khái niệm các biện pháp ngăn chặn trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam Trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, hệ thống các biện pháp ngăn chặn được quy định cụ thể trong Chương VI BLTTHS năm 2003 và tại Chương VII BLTTHS năm 2015 có hiệu lực pháp luật kể từ ngày 01/01/2018, bao gồm: bắt người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã, bắt bị can, bị cáo để tạm giam, tạm giữ, tạm giam, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc có giá trị để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư trú. Riêng BLTTHS năm 2015 có thêm biện pháp: Giữ người trong trường hợp khẩn cấp và tạm hoãn xuất cảnh. Tuy vậy, khái niệm về biện pháp ngăn chặn không được nêu trong luật. Trong sách báo pháp lý của nước ta, các tác giả đã đưa ra nhiều khái niệm khác nhau về biện pháp ngăn chặn. Trong giáo trình tố tụng hình sự của trường Đại học Luật Hà Nội, khái niệm biện pháp biện pháp ngăn chặn được hiểu như sau: Biện pháp ngăn chặn là những biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự được áp dụng đối với bị can bị cáo hoặc đối với những người chưa bị khởi tố (trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang), nhằm ngăn chặn những hành vi nguy hiểm cho xã hội của họ, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành động cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Theo tác giả Phạm Thanh Bình - Nguyễn Vạn Nguyên, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội năm 1993, thì biện pháp ngăn chặn bao gồm việc bắt người, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản để bảo đảm là những biện pháp cưỡng chế cần thiết về mặt tố tụng hình sự do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo và trong một số trường hợp được pháp luật quy định, có thể áp dụng cả đối với người chưa bị khởi tố (như bắt người trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang) nhằm ngăn chặn những hành vi nguy hiểm cho xã hội của họ, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành động gây cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc thi 6 hành án. Trong cuốn sách “Tôi phạm học, luật hình sự và luật tố tụng hình sự” Viện nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội năm 1995, thì “Biện pháp ngăn chặn là một loại biện pháp cưỡng chế do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án áp dụng đối với người bị tình nghi phạm tội, đối với bị can, bị cáo và cả người bị án khi các cơ quan này có căn cứ cho rằng những người này sẽ gây khó khăn cho việc điều tra điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hoặc sẽ tiếp tục phạm tội. Biện pháp ngăn chặn gồm: bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm” Trong cuốn sách, “Các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Nguyễn Duy Thuần, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội năm 1999, thì “Biện pháp ngăn chặn là những biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự bao gồm bắt, tạm giữ, tam giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản để bảo đảm do người có thẩm quyền áp dụng đối với bị can, bị cáo, người bị tình nghi nhằm ngăn chặn họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc cản trở điều tta, truy tố, xét xử” Theo tác giả, khái niệm biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự Việt Nam được trình bày cơ bản gống nhau. Các khái niệm trên đều chỉ ra được nội dung cơ bản của khái niệm các biện pháp ngăn chặn, đó là: - Biện pháp ngăn chặn là biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự. - Đối tượng áp dụng là bị can, bị cáo và người chưa bị khởi tố (người bị tình nghi) - Mục đích của biện pháp ngăn chặn là nhằm ngăn chặn những hành vi nguy hiểm cho xã hội của họ, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành động cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc thi hành án. Theo tác giả, khái niệm về biện pháp ngăn chặn ngoài việc nêu rõ tính chất, mục đích và đối tượng áp dụng của biện pháp ngăn chặn cần phải xác định đúng chủ thể áp dụng. Chủ thể áp dụng các biện pháp ngăn chặn không chỉ là CQĐT, VKS và Tòa án. Theo quy định của pháp luật, một số cơ quan khác cũng được áp 7 dụng biện pháp ngăn chặn đó là người chỉ huy đơn vị quân đội độc lập cấp trung đoàn và tương đương; người chỉ huy đồn biên phòng ở hải đảo và biên giới; người chỉ huy tàu bay, tàu biển đã rời khỏi sân bay, bến cảng… trong trường hợp bắt người phạm tội quả tang thì bất cứ ai trong thấy đều có quyền bắt. Do vậy, để xác định nội hàm trong khái niệm và để phân biệt giữa biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự và biện pháp ngăn chặn hành chính là rất quan trọng. Từ sự phân tích trên đây có thể rút ra khái niệm về các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự như sau: “Biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự là loại biện pháp cưỡng chế do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án trong phạm vi thẩm quyền tố tụng của mình hoặc người có thẩm quyền theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự có thể áp dụng đối với người bị tình nghi phạm tội, đối với bị can, bị cáo và người bị án khi những cơ quan và người có thẩm quyền nêu trên có căn cứ cho rằng những người này sẽ gây khó khăn cho việc điều tra điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội cũng như khi cần bảo đảm thi hành án. Biện pháp ngăn chặn gồm: bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm, tạm hoãn xuất cảnh” . 1.2. Mục đích và ý nghĩa của việc áp dụng biện pháp ngăn chặn trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam 1.2.1. Mục đích của việc áp dụng biện pháp ngăn chặn trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam. Mục đích của áp dụng biện pháp ngăn chặn là vấn đề các cơ qua tiến hành tố tụng cần đạt được khi áp dụng khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn đó. Theo quy định của Điều 109 BLTTHS năm 2015 (Điều 79 BLTTHS năm 2003) thì các biện pháp ngăn chặn được áp dụng để kịp thời ngăn chặn tội phạm hoặc bảo đảm cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Do vậy, việc áp dụng biện pháp ngăn chặn nhằm đạt các mục đích sau đây: - Để kịp thời ngăn chặn tội phạm bao gồm: + Ngăn chặn tội phạm không cho tội phạm đang được chuẩn bị xảy ra. + Ngăn chặn không cho hành vi phạm tội đang được thực hiện tiếp tục tiếp diễn 8 + Ngăn chặn kẻ phạm tội thực hiện tội phạm mới. - Bảo đảm cho công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án Các biện pháp ngăn chặn được áp dụng để bảo đảm các điều kiện pháp lý cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án theo đúng các quy định của pháp luật như bảo đảm sự có mặt của bị can, bị cáo trong hoạt động tố tụng khi cần thiết, bảo đảm bản án đã tuyên có đủ điều kiện thi hành án khi bản án có hiệu lực pháp luật.. Đồng thời cũng bảo đảm tính chính xác, khách quan của hoạt động tố tụng đó như: Bảo đảm bí mật về điều tra, không cho bị can bị cáo có điều kiện để thông cung… Tùy theo từng giai đoạn tố tụng mà các biện pháp ngăn chặn chỉ có mục đích bảo đảm cho một loại công tác như điều tra, hoặc truy tố, hay xét xử, thi hành án. Còn ở phạm vi cả quá trình tố tụng hình sự thì mục đích cuối cùng của các biện pháp ngăn chặn do trong số những người có thẩm quyền áp dụng trong bất cứ giai đoạn nào cũng là bảo đảm cho việc quyết định của Tòa án được khách quan, chính xác và được thi hành khi bản án có hiệu lực pháp luật. Trên thực tế thì mối biện pháp ngăn chặn cụ thể ở một giai đoạn tố tụng đều do một cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng với mục đích là bảo đảm cho cơ quan đó hoàn thành chức năng nhiệm vụ của mình do pháp luật quy định. Chính vì vậy mà tại các Điều 240 BLTTHS 2015 (Điều 166 BLTTHS năm 2003) quy định: “sau khi nhận hồ sơ vụ án, Viện kiểm sát có quyền quyết định việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn…”[25] Điều 278 BLTTHS 2015(Điều 177 BLTTHS năm 2003) quy định: “Sau khi nhận hồ sơ vụ án, Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa có quyền quyết định việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn…”. Mục đích áp dụng biện pháp ngăn chặn ở mỗi giai đoạn tố tụng có thể là không giống nhau. Ví dụ: Ở giai đoạn điều tra, CQĐT áp dụng biện pháp ngăn chặn với mục đích ngăn ngừa tội phạm và bảo đảm các điều kiện pháp lý để hoàn thành nhiệm vụ điều tra như: bảo đảm bắt giữ ngay người phạm tội, khi cần có thể lấy ngay lời khai của bị can, tổ chức đối chất không để cho thông cung hoặc xóa bỏ dấu vết tội phạm… Trong gia đoạn truy tố, VKS áp dụng biện pháp ngăn chặn nhằm mục đích bảo 9 đảm sự có mặt của bị can theo giấy triệu tập, khi cần có thể lấy lời khai được ngay và bảo đảm không cho bị can trốn, đảm bảo việ truy tố và sau khi quyết định việc truy tố, tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Trong giai đoạn xét xử, việc áp dụng biện pháp ngăn chặn nhằm bảo đảm sự có mặt của bị cáo tại phiên tòa, việc tạm giam các bị cáo còn bảo đảm việc ngăn ngừa không cho các bị cáo thông cung, đe dọa người làm chứng, bảo đảm việc điều tra tại phiên tòa được khách quan và thi hành ngay được bản án đã tuyên khi có hiệu lực pháp luật. Trong thực tiễn đã chứng minh không phải bất cứ vụ án nào được khởi tố đều đưa ra truy tố, xét xử và không phải bất cứ ai bị khởi tố đều đưa ra truy tố, xét xử. Bởi lẽ, trong số đó có vụ án, có bị can vì lý do này, lý do khác theo pháp luật quy định được tạm đình chỉ, đình chỉ….và trước khi có quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ, CQĐT, VKS có thể đã áp dụng biện pháp ngăn chặn, nay phải hủy bỏ biện pháp ngăn chặn. Như vậy, trong thực tế có vụ án, có giai đoạn tố tụng mục đích áp dụng biện pháp ngăn chặn chỉ dừng lại ở việc bảo đảm cho công tác điều tra, hoặc bảo đảm việc truy tố. Qua phân tích trên cho thấy, mục đích chung của việc áp dụng biện pháp ngăn chặn chỉ đạt được khi các mục đích của từng biện pháp ngăn chặn do từng cơ quan tiến hành tố tụng được thực hiện trong từng giai đoạn tố tụng. Mục đích của biện pháp ngăn chặn gồm ngăn chặn tội phạm và bảo đảm cho việc khởi tố điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án như Điều 109 BLTTHS năm 2015 quy định là đúng đắn và đầy đủ. 1.2.2. Ý nghĩa của việc áp dụng biện pháp ngăn chặn trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam Quy định về áp dụng những biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự có ý nghĩa lớn trong việc đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm, thể hiện sự chuyên chính của nhà nước xã hội chủ nghĩa trong việc đấu tranh chống tội phạm. Tội phạm về bản chất là hành vi nguy hiểm cho xã hội, gây ra hoặc đe dọa gây 10 ra thiệt hại cho những quan hệ xã hội quan trọng được luật hình sự bảo vệ. Tội phạm trực tiếp hoặc gián tiếp xâm hại đến sự bền vững và ổn định của chế độ nhà nước, chế độ kinh tế- chính trị và xã hội, đến tính mạng, sức khỏe, tự do, danh dự, nhân phẩm và tài sản của công dân cũng như các quy tắc của cuộc sống xã hội- xã hội chủ nghĩa. Do đó, Nhà nước ta coi việc đấu tranh phòng, chống tội phạm, ngăn chặn kịp thời, xử lý nghiêm minh nhằm tiến tới loại trừ hiện tượng phạm tội ra khỏi đời sống xã hội là một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất và phải được tiến hành một các kiên quyết, triệt để, không khoan nhượng. Việc quy định và đảm bảo thực hiện các biện pháp ngăn chặn trong BLTTHS là biểu hiện cụ thể quan điểm đó của Nhà nước: Những biện pháp ngăn chặn bảo đảm cho hoạt động của các cơ quan có thẩm quyền tố tụng được thuận lợi, góp phần quan trọng nâng cao hiệu quả công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm. Thông thường, người phạm tội ý thức rất rõ về hậu quả pháp lý mà mình phải chịu do việc thực hiện tội phạm nên họ tìm đủ mọi cách để vừa có thể nhanh chóng đạt được mục đích phạm tội lại vừa có thể che giấu, trốn tránh sự phát hiện và trừng phạt của pháp luật. Do đó, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn kịp thời và có hiệu quả ngay từ đầu các hành vi thực hiện tội phạm hoặc hành vi trốn tránh, gây khó khăn cho việc xử lý người phạm tội là một tất yếu khách quan. Mặt khác, việc quy định và áp dụng các biện pháp ngăn chặn hỗ trợ rất nhiều cho các hoạt động này được tiến hành thuận lợi và đạt được hiệu quả cao. Bởi lẽ, với tính đặc thù của các biện pháp này là “cưỡng chế nhằm ngăn chặn” đã góp phần hạn chế đến mức thấp nhất những khó khăn mà người phạm tội có thể gây ra cho quá trình giải quyết vụ án. Những biện pháp ngăn chặn chỉ được áp dụng đối với đối tượng nhất định trong những trường hợp nhất định khi có căn cứ pháp luật quy định nên đã bảo đảm sự dân chủ, tôn trọng quyền con người, quyền công dân được hiến pháp quy định như quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền tự do cư trú và tự do đi lại... Quy định và áp dụng những biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự không chỉ đơn thuần là tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện 11 tốt nhiệm vụ theo chức năng của mình mà còn nhằm đảm bảo sự tôn trọng và thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân đã được quy định trong Hiến pháp. Điều này thể hiện ở chỗ việc áp dụng hay không áp dụng biện pháp ngăn chặn nào đó trong đấu tranh phòng, chống tội phạm không xuất phát từ ý muốn chủ quan, bởi sự áp đặt từ phía các cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà là từ các quy định của pháp luật, xuất phát từ pháp luật và đáp ứng sự đòi hỏi của thực tiễn. Sự tuân thủ các quy định của pháp luật tố tụng hình sự khi áp dụng, thay đổi hay hủy bỏ biện pháp ngăn chặn nào đó về các phương diện như: đối tượng, căn cứ, thẩm quyền, thủ tục áp dụng... trước hết là xuất phát từ sự tôn trọng các quyền và lợi ích hợp pháp của con người, đối tượng của các biện pháp ngăn chặn. Mọi trường hợp thực hiện không đúng các quy định pháp luật trong việc áp dụng biện pháp ngăn chặn đều phải bị phát hiện và khắc phục kịp thời. Mọi hành vi trái pháp luật khi áp dụng biện pháp ngăn chặn gây hậu quả nghiêm trọng về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của công dân đều bị xử lý nghiêm minh. Như vậy, xét một cách toàn diện, quy định và đảm bảo áp dụng nghiêm chỉnh những biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự là thể hiện tập trung và rõ nét nhất sự dân chủ, tính ưu việt của chế độ Nhà nước ta. 1.3. Các nguyên tắc và căn cứ áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam 1.3.1. Các nguyên tắc áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam Các nguyên tắc áp dụng biện pháp ngăn chặn trong TTHS chính là những tư tưởng chỉ đạo toàn bộ quá trình xây dựng và áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong TTHS. Những nguyên tắc này được xây dựng trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của pháp luật XHCN. Đồng thời xuất phát từ quan điểm và đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước ta trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Những nguyên tắc này là cơ sở đề ra các biện pháp ngăn chặn cụ thể, quy định về thẩm quyền, thủ tục, trình tự áp dụng, đối tượng bị áp dụng… trong thực tiễn. Xuất phát từ đặc điểm của hoạt động TTHS là hoạt động đa dạng, phức tạp liên quan nhiều đến quyền và nghĩa 12 vụ của công dân nhất và việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong đấu tranh phòng chống tội phạm chúng ta phải kiên quyết và thận trọng, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Để thực hiện tốt vấn đề này, trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn. Chúng ta cần quán triệt và thực hiện tốt các nguyên tắc cơ bản sau đây: 1.3.1.1. Nguyên tắc kiên quyết xử lý tội phạm Trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, Luật HS và Luật TTHS giữ vị trí, vai trò rất quan trọng, là công cụ, phương tiện hữu hiệu để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Để đáp ứng yêu cầu đó, vấn đề kiên quyết xử lý tội phạm là một nguyên tắc chỉ đạo trong hoạt động tố tụng. Nhiệm vụ đấu tranh trấn áp tội phạm là yêu cầu đòi hỏi cần thiết và cấp bách, nhất là đối với các loại tội phạm đặc biệt nguy hiểm xâm phạm An ninh quốc gia và các tội phạm hình sự đặc biệt nghiêm trọng khác như giết người, cướp của, tham ô, tham nhũng, lừa đảo, hiếp dâm, ma túy… đối với các loại tội phạm nghiêm trọng này thì việc áp dụng biện pháp ngăn chặn là cần thiết, đáp ứng yêu cầu kiên quyết xử lý tội phạm. Bởi vậy, việc áp dụng biện pháp ngăn chặn phải đảm bảo yêu cầu kiên quyết xử lý tội phạm, coi đây là nguyên tắc của TTHS nói chung và cũng là nguyên tắc trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn nói riêng. Nội dung cơ bản của nguyên tắc này thể hiện ở chỗ: Để kịp thời, kiên quyết đấu tranh xử lý tội phạm đòi hỏi trong hoạt động TTHS là phải ngăn chặn không cho tội phạm xảy ra, không để đối tượng phạm tội tiếp tục phạm tội, hoặc gây khó khăn cho quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. Đây chính là mục đích của việc áp dụng biện pháp ngăn chặn trong TTHS. Do vậy, các biện pháp ngăn chặn được quy định trong BLTTHS gồm các biện pháp gì, áp dụng như thế nào phải đảm bảo yêu cầu đó. Điều này thể hiện ở chỗ hệ thống các biện pháp ngăn chặn phải đảm bảo gồm những biện pháp có tính nghiêm khắc thấp để áp dụng trong những trường hợp tội phạm ít nghiêm trọng. Đồng thời phải có những biện pháp có tính nghiêm khắc cao để áp dụng trong những trường hợp nghiệm trọng, có nguy hiểm cao để kịp thời ngăn chặn tội phạm. 13 Về quyền hạn và thủ tục áp dụng vừa phải có quy định có tính chất mở, thủ tục đơn giản để kịp thời trấn áp ngăn chặn tội phạm để áp dụng đối với những trường có tính chất cấp bách như trường hợp quả tang, khẩn cấp. Đồng thời lại phải có quy định cho các trường hợp không mang tính cấp bách như ở các trường hợp như tạm giam, bắt bị can, bị cáo để tạm giam… để đảm bảo chặt chẽ về mặt thủ tục. Trong quá trình áp dụng biện pháp ngăn chặn, đối với những đối tượng xét thấy cần thiết và có đủ căn cứ áp dụng biện pháp ngăn chặn phải kiên quyết áp dụng để ngăn chặn tội phạm, đảm bảo thuận lợi cho việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án được thuận lợi, kịp thời. Nếu áp dụng đúng đắn, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật thì đảm bảo được yêu cầu kiên quyết xử lý tội phạm, đáp ứng yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân, tăng thêm uy tín của Nhà nước, nhân dân tin tưởng vào công lý. Để tạo điều kiện thuận lợi cho Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng sử dụng các biện pháp ngăn chặn để xử lý tội phạm thì các quy định về các biện pháp này như căn cứ áp dụng, quyền hạn, thủ tục áp dụng, đối tượng bị áp dụng trong từng trường hợp phải rõ ràng, cụ thể. Tránh những quy định mang tính khái quát, tùy nghi, dẫn tới hiểu lệch lạc, gây khó khăn cho việc áp dụng, vi phạm pháp luật. Tuy nhiên nguyên tắc áp dụng các biện pháp ngăn chặn có mối quan hệ với nhau. Kiên quyết trấn áp, xử lý tội phạm phải đi đôi với vấn đề dân chủ, nhân đạo và vấn đề pháp chế. Do vậy, kiên quyết xử lý tội phạm phải trên cơ sở của pháp luật, đó là sự kết hợp hài hòa, không được đề cao một nguyên tắc nào. 1.3.1.2. Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa Pháp chế XHCN là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Bộ máy Nhà nước XHCN. Đây chính là nguyên tắc Hiến định, là đòi hỏi hoạt động của quản lý xã hội của Nhà nước nói chung và hoạt động TTHS nói riêng. Trong hoạt động TTHS, Nguyên tắc pháp chế XHCN được thể hiện ở Điều 2 của BLTTHS: “Mọi hoạt động tố tụng hình sự trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải được tiến hành theo quy định của Bộ luật này..” (Điều 3 BLTTHS năm 2015). Như vậy, theo quy định của BLTTHS thì hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án chủ yếu do các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự và 14 người tiến hành tố tụng hình sự quy định. Đồng thời có sự tham gia của một số cơ quan tổ chức và cá nhân khác có liên quan đến vụ án hình sự. các hoạt động nêu trên phải thực hiện theo đúng quy định của BLTTHS thì mới đảm bảo việc phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Trong BLTTHS việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đòi hỏi phải tôn trọng và đảm bảo nguyên tắc pháp chế XHCN. Nội dung của nguyên tắc này được thể hiện như sau: Một là, việc áp dụng biện pháp ngăn chặn khi cần thiết và có căn cứ áp dụng. Việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn ảnh hưởng trực tiếp đến quyền tự do của con người, đến sinh mệnh chính trị của người bị áp dụng nên khi áp dụng phải hết sức thận trọng, tránh việc áp dụng tràn lan. Khi áp dụng phải chú ý chỉ khi xét thấy thật cần thiết và có căn áp dụng rõ ràng, cần phải áp dụng mới được áp dụng. Đó chính là sự thể hiện sự thận trọng và tuân thủ pháp chế XHCN. Hai là, về thẩm quyền áp dụng phải tuân theo đúng quy định của BLTTHS. Xuất phát từ yêu cầu khách quan, thận trọng trong việc giải quyết vụ án hình sự, BLTTHS đã quy định thẩm quyền rất cụ thể cho từng loại biện pháp ngăn chặn. Vì vậy, khi áp dụng biện pháp ngăn chặn, cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng phải tuân thủ quy định này. Cùng với việc tuân theo quy định về thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn chặn của BLTTHS thì việc tuân thủ các quy định về thủ tục áp dụng rất quan trọng để tăng cường pháp chế XHCN. Việc tuân thủ nguyên tắc pháp chế XHCN còn đòi hỏi khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với một đối tượng không được tùy tiện, định kiến cá nhân. Đồng thời phải đảm bảo sự thống nhất trên địa bàn toàn quốc, không có trường hợp ngoại lệ cho bất cứ địa phương nào. 1.3.1.3. Nguyên tắc nhân đạo xã hội chủ nghĩa. Nhà nước Việt Nam là nhà nước của dân, do dân, vì dân, nên hoạt động TTHS nói chung và việc áp dụng biện pháp ngăn chặn trong TTHS nói riêng phải xuất phát từ nguyên tắc nhân đạo XHCN. Nội dung của nguyên tắc nhân đạo XHCN được thể hiện ở nội dung sau: Một là, việc áp dụng biện pháp ngăn chặn không được vi phạm các quyền và lợi 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan