Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Các giải pháp nhằm phát triển dịch vụ hỗ trợ đối tượng nộp thuế trong điều kiện ...

Tài liệu Các giải pháp nhằm phát triển dịch vụ hỗ trợ đối tượng nộp thuế trong điều kiện hiện nay của việt nam

.PDF
56
302
88

Mô tả:

Học Viện Tài Chính Luận văn cuối khoá LỜI MỞ ĐẦU Cùng với quá trình phát triển kinh tế xã hội thì ngành thuế Việt Nam đã có những bước tiến vượt bậc. Thuế thực sự là nguồn thu chủ yếu của ngân sách quốc gia, góp phần thực hiện các mục đích khác như định hướng sản xuất, tiêu dùng; điều tiết thu nhập… Hệ thống chính sách thuế dần được hoàn thiện, cơ chế quản lý thuế đang được từng bước cải cách cho phù hợp với quá trình phát triển đất nước và thông lệ quốc tế. Trong thời gian qua, nhiều nội dung mới trong công tác thuế đã được hình thành và phát triển ở Việt Nam. Dịch vụ hỗ trợ đối tượng nộp thuế là một trong số đó. Dịch vụ hỗ trợ đối tượng nộp thuế đã có những bước phát triển nhất định, thu được một số kết quả khả quan và có tác dụng tích cực đối với cơ chế quản lý thuế hiện đại. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công đó thì vẫn còn nhiều vấn đề bất cập. Dịch vụ hỗ trợ đối tượng nộp thuế do cơ quan thuế cung cấp chưa phát huy được hiệu quả thực sự. Dịch vụ hỗ trợ đối tượng nộp thuế do khu vực tư cung cấp chưa được quan tâm phát triển. Thực trạng này đặt ra yêu cầu cần phải nghiên cứu, đánh giá thành công, hạn chế cùng các nguyên nhân của hoạt động hỗ trợ đối tượng nộp thuế hiện nay; tìm hiểu, học tập kinh nghiệm của nước ngoài về lĩnh vực này; từ đó đề ra một số biện pháp để thúc đẩy sự phát triển dịch vụ hỗ trợ đối tượng nộp thuế trong điều kiện hiện nay của Việt Nam. Xuất phát từ lý do đó, em đã chọn đề tài “Các giải pháp nhằm phát triển dịch vụ hỗ trợ đối tượng nộp thuế trong điều kiện hiện nay của Việt Nam” để tìm hiểu, nghiên cứu. Đề tài được kết cấu theo 3 nội dung chính : - Chương 1: Tổng quan về dịch vụ hỗ trợ đối tượng nộp thuế. Nguyễn Minh Hương 02.01 Lớp: K39 - Học Viện Tài Chính Luận văn cuối khoá - Chương 2: Thực trạng áp dụng dịch vụ hỗ trợ đối tượng nộp thuế ở Việt Nam hiện nay. - Chương 3: Giải pháp phát triển dịch vụ hỗ trợ đối tượng nộp thuế ở Việt Nam trong điều kiện hiện nay. Trong quá trình làm bài luận văn này, em đã nhận được sự hướng dẫn tận tình của cô giáo Nguyễn Thị Liên. Em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới cô. Nguyễn Minh Hương 02.01 Lớp: K39 - Học Viện Tài Chính Luận văn cuối khoá DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ĐTNT : Đối tượng nộp thuế HTĐTNT : Hỗ trợ đối tượng nộp thuế TP : Nguyễn Minh Hương 02.01 Thành phố Lớp: K39 - Học Viện Tài Chính Luận văn cuối khoá Chương 1 TỔNG QUAN VỀ DỊCH VỤ HỖ TRỢ ĐỐI TƯỢNG NỘP THUẾ 1.1Khái quát về dịch vụ hỗ trợ đối tượng nộp thuế: 1.1.1Khái niệm: Dịch vụ HTĐTNT là một khái niệm rất quen thuộc ở nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là ở các nước phát triển. Tuy nhiên ở nước ta, khái niệm này còn khá mới mẻ. Mặc dù chúng ta đang từng bước thực hiện dịch vụ HTĐTNT nhưng cũng chưa có văn bản chính thức nào đưa ra khái niệm này một cách rõ ràng. Chính vì vậy, xung quanh vấn đề này có một số quan điểm khác nhau. Dưới đây xin đề cập hai quan điểm nổi bật. Quan điểm phổ biển nhất coi Dịch vụ HTĐTNT là những dịch vụ công trong lĩnh vực thuế, do cơ quan thuế đảm nhận và cung cấp miễn phí cho công chúng và các ĐTNT. Theo quan điểm này, Dịch vụ HTĐTNT bao gồm công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật thuế cho tất cả các ĐTNT cũng như các tầng lớp dân cư; đồng thời giải đáp các vướng mắc về thủ tục, chính sách thuế để các ĐTNT thực hiện đúng luật. Chủ thể cung cấp các dịch vụ này là cơ quan thuế, đối tượng nhận dịch vụ là các ĐTNT và công chúng có quan tâm. Những người tiêu dùng dịch vụ này không phải trả phí. Quan điểm khác cho rằng Dịch vụ HTĐTNT chính là dịch vụ tư vấn trong lĩnh vực thuế và kế toán nhằm giúp cho các ĐTNT trong quá trình chấp hành pháp luật thuế của Nhà nước. Với quan điểm này, phạm vi của dịch vụ HTĐTNT rộng hơn nhiều, nó không chỉ giới hạn trong lĩnh vực thuế mà mở rộng sang cả lĩnh vực tài chính kế toán. Nội dung các hoạt động hỗ trợ tập trung vào việc cung cấp dịch vụ tư vấn và các dịch vụ khác trong lĩnh vực kế toán, thuế, tài chính theo yêu cầu Nguyễn Minh Hương 02.01 Lớp: K39 - Học Viện Tài Chính Luận văn cuối khoá của ĐTNT. Chủ thể cung cấp dịch vụ này thường là các doanh nghiệp thuộc khu vực tư. Người tiêu dùng dịch vụ này phải trả phí. Như vậy, mỗi quan điểm trên đề cập đến một khía cạnh và có những điểm không thống nhất. Theo chúng tôi, để đưa ra một khái niệm chính xác và đầy đủ về Dịch vụ HTĐTNT cần xuất phát từ những thuật ngữ cụ thể. Theo “Từ điển Tiếng Việt” (NXB Đà Nẵng 1998) : “Dịch vụ” là công việc phục vụ trực tiếp cho những nhu cầu nhất định của số đông, có tổ chức và được trả công. (Trang 248) “Hỗ trợ” là giúp đỡ lẫn nhau, giúp đỡ thêm vào. (Trang 411) “Tư vấn” là đề xuất ý kiến về những vấn đề được hỏi đến, nhưng không có quyền quyết định. (Trang 1035) Dựa vào những căn cứ trên, để vừa phù hợp với thực tế, vừa sát nghĩa tiếng Việt, chúng tôi cho rằng Dịch vụ HTĐTNT là toàn bộ các hoạt động trợ giúp cho các tổ chức, cá nhân để họ hiểu và tuân thủ đúng pháp luật thuế. Như vậy, dịch vụ HTĐTNT không chỉ bao gồm công tác tuyên truyền chính sách, pháp luật thuế; hướng dẫn các ĐTNT kê khai, tính toán, xác định nghĩa vụ thuế mà còn tư vấn cho các đối tượng này tháo gỡ vướng mắc và tìm ra phương án tối ưu nhất trong quá trình thực hiện nghĩa vụ với ngân sách Nhà nước. Trong quá trình thực hiện nghĩa vụ nộp thuế của mình, các ĐTNT không chỉ cần giải đáp về chính sách, thủ tục kê khai, quyết toán thuế, xin hoàn thuế…mà còn quan tâm đến những công việc liên quan tới việc xác định nghĩa vụ thuế như hạch toán doanh thu, chi phí…Việc họ tìm đến những nhà cung cấp dịch vụ (có thể là cơ quan thuế hoặc các tổ chức tư vấn thuế độc lập có đủ điều kiện thuộc khu vực tư) để được đáp ứng những nhu cầu đó là hoàn toàn chính đáng. Theo chúng tôi, vấn đề chủ thể cung cấp dịch vụ là Nhà nước hay các tổ chức tư nhân không phải là quan trọng nhất mà cần phải có Nguyễn Minh Hương 02.01 Lớp: K39 - Học Viện Tài Chính Luận văn cuối khoá những quy định rõ ràng, minh bạch và có cơ chế hoạt động cho mỗi tổ chức này. 1.1.2 Đối tượng của dịch vụ HTĐTNT: Đối tượng chủ yếu của dịch vụ HTĐTNT là các tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ thuế với Nhà nước. Để lựa chọn nội dung, hình thức phục vụ và hỗ trợ ĐTNT một cách phù hợp, đạt hiệu quả cao thì phải tiến hành phân loại ĐTNT. Tuỳ thuộc và các tiêu thức khác nhau thì có các cách phân loại khác nhau. *Phân loại theo ý thức chấp hành pháp luật thuế: Căn cứ theo mức độ tuân thủ, chấp hành pháp luật thuế của ĐTNT có thể phân chia ĐTNT ra làm 2 loại. - Đối tượng thường xuyên chấp hành tốt pháp luật thuế. - Đối tượng vi phạm pháp luật thuế: + Do không nắm vững chế độ, chính sách. + Đối tượng vi phạm pháp luật thuế do cố tình. Các ĐTNT có ý thức chấp hành pháp luật thuế khác nhau cần có phương pháp tuyên truyền, tư vấn, hướng dẫn khác nhau. Đặc biệt với các đối tượng cố tình vi phạm pháp luật thuế thì ngoài tuyên truyền, hướng dẫn còn phải chú trọng tới việc nâng cao ý thức thực hiện nghĩa vụ thuế. *Phân loại lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh: Theo tiêu thức này, có 4 nhóm ĐTNT chính: - Doanh nghiệp sản xuất, xây dựng. - Doanh nghiệp vận tải. - Doanh nghiệp thuộc lĩnh vực lưu thông, phân phối. - Doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu. Nguyễn Minh Hương 02.01 Lớp: K39 - Học Viện Tài Chính Luận văn cuối khoá Mỗi lĩnh vực hoạt động thường có các đặc điểm sản xuất, kinh doanh khác nhau dẫn đến việc xác định các căn cứ tính thuế cũng khác nhau nên cần có các hướng dẫn, trợ giúp theo từng lĩnh vực cụ thể. *Phân loại theo thời gian hoạt động: - Doanh nghiệp mới thành lập. - Doanh nghiệp đã hoạt động nhiều năm. Đối với các doanh nghiệp mới thành lập thường cần được hướng dẫn nhiều hơn, chi tiết, tỉ mỉ hơn. *Phân loại theo hình thức sở hữu: - Doanh nghiệp Nhà nước. - Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. - Doanh nghiệp ngoài quốc doanh. 1.1.3 Nội dung và các hình thức thực hiện dịch vụ HTĐTNT: Xét về mặt nội dung, dịch vụ HTĐTNT có thể được chia thành các hoạt động: tuyên truyền về pháp luật thuế và hỗ trợ ĐTNT. 1.1.3.1 Tuyên truyền về pháp luật thuế: Công tác tuyên truyền, giáo dục về pháp luật thuế là nhiệm vụ của cán bộ thuế, bằng nhiều hình thức và phương pháp phù hợp để tuyên truyền về chính sách thuế một cách hiệu quả đến các ĐTNT và các tầng lớp dân cư. Hay nói một cách cụ thể hơn là tuyên truyền bản chất của thuế, lợi ích xã hội từ tiền thuế, quyền và nghĩa vụ của ĐTNT đối với Nhà nước, nội dung của pháp luật thuế, các thủ tục về thuế, các biện pháp xử lý đối với các trường hợp vi phạm… nhằm tạo ý thức tốt cho người dân và tạo điều kiện cho ĐTNT hiểu và chấp hành tốt luật thuế. Nguyễn Minh Hương 02.01 Lớp: K39 - Học Viện Tài Chính Luận văn cuối khoá Nội dung tuyên truyền phải kịp thời giúp cho ĐTNT có thể cập nhật được thường xuyên thông tin về thuế, nhất là khi có sửa đổi, bổ sung chính sách thuế. Ngôn ngữ sử dụng cần đơn giản, dễ hiểu để phù hợp với nhiều ĐTNT khác nhau. Công tác tuyên truyền thường sử dụng một số hình thức chủ yếu sau: - Cung cấp thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng như đài truyền hình, đài phát thanh, báo, tạp chí…theo chương trình định kỳ, theo chiến dịch hoặc theo sự kiện phát sinh. - Xuất bản các ấn phẩm về thuế để cung cấp miễn phí cho ĐTNT. - Cung cấp thông tin qua mạng internet, mạng điện thoại tự động, mạng điện thoại có cán bộ thuế trả lời trực tiếp. - Sử dụng panô, áp phích, băng rôn với những khẩu hiệu sát thực, đi vào lòng dân. - Chương trình giáo dục về chính sách thuế trong trường học tuỳ theo lứa tuổi và phù hợp với nhận thức. 1.1.3.2 Hỗ trợ ĐTNT: Hỗ trợ ĐTNT tức là hướng dẫn, giải thích, tư vấn cho ĐTNT các vấn đề liên quan đến chính sách, chế độ thuế đã được qui định trong luật, nghị định, thông tư các công văn khác về thuế. Công tác hướng dẫn được thực hiện do ý muốn chủ quan của cơ quan thuế, hoạt động tư vấn thuế được thực hiện theo nguyện vọng và yêu cầu từ phía ĐTNT. Khi các ĐTNT có vướng mắc trong quá trình kê khai, tính thuế, quyết toán thuế hoặc các vấn đề kế toán khác có thể đề nghị các cán bộ thuế làm nhiệm vụ tư vấn hoặc đến các trung tâm cung cấp dịch vụ HTĐTNT tư để được giải đáp. Có thể chia thành các nội dung cụ thể sau: - Hướng dẫn, tư vấn các nội dung của chính sách, chế độ thuế. - Hướng dẫn, tư vấn các thủ tục, qui trình chấp nghĩa vụ thuế như: thủ tục đăng ký mã số thuế, nộp thuế, xin miễn giảm thuế… Nguyễn Minh Hương 02.01 Lớp: K39 - Học Viện Tài Chính Luận văn cuối khoá - Hướng dẫn, tư vấn cách lập các biểu mẫu, báo cáo về thuế. - Các vấn đề khác có liên quan đến thuế như: kế toán, cách sử dụng, quản lý hoá đơn, chứng từ… - Các thông tin cảnh báo về các trường hợp trốn thuế, gian lận thuế, các trường hợp vi phạm pháp luật Nhà nước nói chung liên quan đến thuế. Để thực hiện các nội dung trên, có thể sử dụng các hình thức như: tổ chức hội thảo, tập huấn cho ĐTNT; hướng dẫn trực tiếp tại cơ quan thuế hoặc tại cơ sở của ĐTNT; hướng dẫn qua điện thoại, văn bản… Với những nội dung và cách thức hoạt động như trên, dịch vụ HTĐTNT sẽ cung cấp cho các ĐTNT thông tin đầy đủ và chính xác nhất, là điều kiện cho ĐTNT thực hiện tốt nghĩa vụ thuế với Nhà nước. 1.1.4 Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động HTĐTNT: Hiệu quả của hoạt động HTĐTNT chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố, trong đó có 4 yếu tố cơ bản sau: Thứ nhất, các quy định của pháp luật thuế. Chính sách thuế ổn định sẽ làm cho nội dung, tài liệu tuyên truyền, hỗ trợ không phải thay đổi thường xuyên, vừa tiết kiệm chi phí vừa tạo tâm lý yên tâm cho ĐTNT. Hệ thống pháp luật thuế chặt chẽ, rõ ràng và có sự thống nhất giữa thông tư, nghị định với luật, giữa các sắc thuế với nhau sẽ giúp cán bộ thuế trả lời vướng mắc của ĐTNT được nhanh chóng, thuận tiện, nhất quán, hạn chế tình trạng trả lời bằng công văn riêng của cấp trên. Thứ hai, cán bộ làm công tác HTĐTNT. Trong bất cứ hoạt động nào thì nhân tố con người đều đóng vai trò quan trọng. Khi người cán bộ đảm nhận việc tuyên truyền, hỗ trợ ĐTNT mà có trình độ, kinh nghiệm, nhiệt tình, khả năng truyền đạt tốt thì sẽ thúc đẩy hiệu quả công việc và ngược lại. Thứ ba, thái độ quan tâm của ĐTNT. Bất kỳ loại hàng hoá, dịch vụ nào cũng chỉ phát triển, thu được hiệu quả kinh tế khi khách hàng có cầu về loại hàng hoá, dịch vụ đó. Tổ chức, cá nhân nộp thuế là đối tượng chủ yếu nhận dịch vụ HTĐTNT. Khi nhu cầu và yêu cầu của ĐTNT về dịch vụ HTĐTNT Nguyễn Minh Hương 02.01 Lớp: K39 - Học Viện Tài Chính Luận văn cuối khoá tăng lên thì cũng kéo theo sự phát triển và hiệu quả của dịch vụ này. Do đó, thái độ quan tâm, chủ động sử dụng loại hình dịch vụ này của ĐTNT sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động HTĐTNT. Thứ tư, sự quan tâm của xã hội. Hoạt động HTĐTNT tuy là của ngành thuế nhưng rất cần sự phối hợp của các cơ quan ban ngành khác như đài truyền hình, đài phát thanh, báo chí… Chính vì thế, sự quan tâm, ủng hộ của các ngành nghề khác, sự chú ý của công chúng là chất xúc tác quan trọng đảm bảo thực hiện và thực hiện có hiệu quả công tác tuyên truyền, hỗ trợ ĐTNT. 1.2 Sự cần thiết phải phát triển dịch vụ HTĐTNT ở Việt Nam trong điều kiện hiện nay: Có 5 yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến việc thực hiện nghĩa vụ thuế, đó là: ý thức tự giác của người dân, sự hiểu biết về pháp luật của ĐTNT, pháp luật thuế của Nhà nước, trình độ dân trí và các biện pháp cưỡng chế. Từ cơ sở lý luận đó và thực tiễn hiện nay của nước ta thì thấy rằng cần phải hình thành và phát triển dịch vụ HTĐTNT để đảm bảo ĐTNT thực hiện tốt nghĩa vụ thuế. Dưới đây xin được phân tích 3 lý do chủ yếu. 1.2.1 Sự cần thiết phải phổ biến pháp luật thuế: Thứ nhất, tuyên truyền về thuế là một nhiệm vụ của cơ quan thuế. Nguyên tắc pháp chế trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan Nhà nước đòi hỏi mọi cơ quan Nhà nước, mọi tổ chức của Nhà nước, mọi công dân phải theo đúng qui định của pháp luật. Muốn vậy, phải đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, giám sát kiểm tra việc tuân thủ pháp luật của cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội và mọi công dân. Đây cũng là một chức năng quan trọng của các cơ quan quản lý Nhà nước. Pháp luật về thuế là một bộ phận của hệ thống pháp luật Nhà nước mà mọi người dân nói chung và người nộp thuế nói riêng phải chấp hành. Đồng thời, trong hệ thống bộ máy quản lý Nhà nước, cơ quan thuế đại diện cho Nhà nước trong việc quản lý và thực thi pháp luật về thuế. Vì vậy, cơ quan thuế phải tuyên truyền, giải thích, giáo dục pháp luật thuế cho ĐTNT và toàn dân Nguyễn Minh Hương 02.01 Lớp: K39 - Học Viện Tài Chính Luận văn cuối khoá để họ hiểu biết về thuế, pháp luật thuế, về nghĩa vụ và quyền lợi của người nộp thuế, từ đó thực hiện tốt nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước. Xét về khía cạnh khác, trước kia ĐTNT được coi là “đối tượng bị quản lý” do đó cơ quan thuế sử dụng phương pháp quản lý thắt chặt bằng thanh tra, kiểm tra. Nhưng thực tế cho thấy, do khó khăn về nhân lực, thời gian và nguồn tài chính nên công tác thanh tra, kiểm tra không thể thực hiện được với tất cả các ĐTNT. Hơn nữa, khi cơ quan thuế tăng cường các biện pháp thắt chặt quản lý sẽ gây ra tâm lý chây ỳ, đối phó từ phía ĐTNT. Trong khi đó, không phải tất cả các hành vi vi phạm pháp luật thuế đều do cố ý, một phần trong số đó là do ĐTNT không nắm vững chính sách, chế độ thuế. Mặt khác, bằng những cuộc điều tra, khảo sát thực tế, người ta đã tổng kết rằng với cùng một hiệu quả về chấp hành chính sách thuế thì chi phí để thanh tra, kiểm tra lớn hơn nhiều so với chi phí để HTĐTNT. Vì vậy, quan niệm cũ về ĐTNT đến nay không còn phù hợp nữa. Thay vào đó, cơ quan thuế cần coi ĐTNT như người bạn đồng hành, như “khách hàng” của mình, tạo ra một môi trường thuận lợi cho các họ thực hiện quyền và nghĩa vụ thuế. Thứ hai, cần nâng cao nhận thức của người dân về nghĩa vụ thuế. Hiện nay, tình trạng trốn thuế, tránh thuế và các sai phạm về thuế còn khá phổ biến. Một trong những nguyên nhân của tình trạng trên là do hiểu biết của người dân nói chung và người nộp thuế nói riêng về thuế còn hạn chế. Một mặt, họ chưa thấy được vai trò, ý nghĩa của tiền thuế, quyền lợi của người nộp thuế. Mặt khác, quan trọng hơn, họ chưa nhận thức được tính pháp lý của nghĩa vụ thuế. Nghĩa vụ thuế được quy định trong pháp luật, không thực hiện hoặc thực hiện sai nghĩa vụ thuế tức là vi phạm pháp luật. Vì vậy, cần phải có hoạt động tuyên truyền về thuế để mọi người dân hiểu được tầm quan trọng của việc thực hiện nghĩa vụ thuế. Nguyễn Minh Hương 02.01 Lớp: K39 - Học Viện Tài Chính Luận văn cuối khoá 1.2.2 Tính chất phức tạp của các quy định về nghiệp vụ thuế: Tính chất phức tạp của các quy định về nghiệp vụ thuế là một trong những nguyên nhân cơ bản làm giảm khả năng thực hiện đúng luật thuế của các ĐTNT. Thứ nhất, phức tạp vì các luật, nghị định, thông tư về thuế có nhiều từ chuyên môn. Các văn bản pháp quy sử dụng từ chuyên môn là tất yếu. Nhưng với các thuật ngữ như: đối tượng chịu thuế, đối tượng nộp thuế, căn cứ tính thuế, giá tính thuế, chi phí hợp lý… thì không phải bất cứ người nào cũng hiểu được chính xác. Mặt khác, trong một số thông tư, nghị định vẫn còn có những quy định không rõ ràng, nhất quán gây khó hiểu cho cả những người trong ngành. Vì vậy, nhiều ĐTNT không nắm rõ phạm vi, đối tượng… của các sắc thuế cũng là điều dễ hiểu. Do đó, không phải cứ cầm luật thuế trong tay là ĐTNT có thể làm đúng luật thuế. Thứ hai, phức tạp vì các yếu tố kỹ thuật. Việc thực hiện luật thuế mang nặng yếu tố kỹ thuật. Có thể dẫn chứng việc thực hiện hai sắc thuế thường gặp nhất là Thuế giá trị gia tăng và Thuế thu nhập doanh nghiệp: Tờ Quyết toán thuế giá trị gia tăng có 45 chỉ tiêu, Tờ khai quyết toán thuế thu nhập doanh nghiệp có 83 chỉ tiêu kèm theo 11 phụ lục…Để điền đúng, đủ tất cả các chỉ tiêu này không phải là việc đơn giản. Đó là chưa kể đến việc xác định thu nhập nào phải chịu thuế, chi phí nào được coi là hợp lý. Đối với sắc thuế khác như Thuế tiêu thụ đặc biệt, Thuế xuất khẩu, Thuế nhập khẩu thì việc xác định giá tính thuế, thuế suất còn phức tạp hơn nhiều. Vì vậy, rất khó khăn cho các ĐTNT khi kê khai, tính thuế, đặc biệt là trong thời gian tới ngành thuế sẽ áp dụng cơ chế ĐTNT tự khai, tự nộp thuế. Thứ ba, các chính sách thuế chưa ổn định, thường xuyên bổ sung, sửa đổi nên ĐTNT khó có điều kiện nắm bắt kịp thời, dẫn đến không thực hiện đúng nghĩa vụ thuế của mình. Nguyễn Minh Hương 02.01 Lớp: K39 - Học Viện Tài Chính Luận văn cuối khoá Hiện nay, ngành thuế đang thực hiện thí điểm cơ chế tự khai, tự nộp ở một số địa phương, năm 2007 sẽ mở rộng áp dụng trên cả nước. Tự khai, tự nộp thuế là cơ chế quản lý thuế trong đó ĐTNT tự thực hiện các nghĩa vụ mà Luật qui định; cơ quan thuế được tổ chức và thực hiện các biện pháp quản lý thuế phù hợp với nguyên tắc ĐTNT tự thực hiện các nghĩa vụ thuế. Tuy nhiên, với tính chất phức tạp của các quy định về nghiệp vụ thuế như phân tích ở trên thì khi áp dụng cơ chế này ĐTNT sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Vì vậy, để đảm bảo hiệu quả của cơ chế hành thu mới này thì ĐTNT cần nhận được sự hướng dẫn, tư vấn một cách chu đáo từ phía cơ quan thuế hoặc tổ chức tư vấn thuế độc lập (không nằm trong ngành thuế). Trong cơ chế tự kê khai, tự nộp thuế, cơ quan thuế sẽ phải chuyển đổi từ việc chủ yếu dùng quyền lực để quản lý sang hỗ trợ, phục vụ ĐTNT. Đây là chức năng chính của cơ quan thuế. Cơ quan thuế thực hiện tốt việc tuyên truyền, hướng dẫn cho ĐTNT hiểu rõ và tự giác thực hiện nghĩa vụ thuế, đồng thời giám sát chặt chẽ việc tuân thủ nghĩa vụ thuế của ĐTNT, thông qua công tác kiểm tra, thanh tra để phát hiện, xử lý kịp thời những hành vi gian lận, trốn thuế của ĐTNT. Về phía ĐTNT, nhờ có sự hướng dẫn, tư vấn mà họ sẽ hiểu chính sách thuế, xác định mình được nộp thuế thay vì phải nộp thuế như trước đây. Từ đó, họ sẽ chủ động thực hiện nghĩa vụ thuế. Bên cạnh đó, nếu có biện pháp phát triển đúng hướng bộ phận tư vấn thuế độc lập thì bộ phận này cũng sẽ giúp đỡ cho ĐTNT thực hiện đúng chính sách thuế. 1.2.3 Kiến thức, trình độ của các cán bộ quản lý ở các cơ sở sản xuất kinh doanh còn hạn chế: Hiện nay, trên phạm vi cả nước có hơn 1,5 triệu ĐTNT do cơ quan thuế quản lý. Hơn nữa, do điều kiện thành lập doanh nghiệp rất đơn giản nên hằng ngày có rất nhiều công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty tư nhân… ra đời. Thống kê trên địa bàn Hà Nội, mỗi tháng có từ 500 đến 700 doanh nghiệp mới thành lập. Tuy nhiên, kiến thức, trình độ của các cán bộ quản lý các doanh nghiệp này còn hạn chế, đặc biệt là ở các doanh nghiệp nhỏ. Về mặt Nguyễn Minh Hương Lớp: K39 02.01 Học Viện Tài Chính Luận văn cuối khoá kiến thức, nhiều cán bộ quản lý chưa qua trường lớp đào tạo nào về tài chính, về thuế nên họ thiếu sự hiểu biết về lĩnh vực này. Họ chưa nhận thức được ý nghĩa của tiền thuế, chưa hiểu được quyền lợi và nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước. Đồng thời, họ cũng chưa thực sự hiểu và làm đúng luật thuế. Do hạn chế về kiến thức và ít kinh nghiệm thực tế kéo theo hạn chế về trình độ. Rất nhiều cán bộ quản lý chưa thành thạo hoặc thậm chí không biết cách kê khai thuế, tính thuế, xử lý hoá đơn chứng từ… Từ đó có thể dẫn tới trốn thuế một cách vô ý. Mà với số lượng doanh nghiệp nhiều như vậy thì những hành vi vô tình trốn thuế này cũng gây thất thu lớn cho Ngân sách Nhà nước. Vì vậy, để góp phần giảm tình trạng trốn thuế, tăng nguồn thu từ thuế, ngành thuế cần phải nâng cao kiến thức, trình độ về thuế cho những người quản lý doanh nghiệp bằng cách đẩy mạnh tuyên truyền, hướng dẫn chính sách thuế. Ngoài ra, Chính phủ nên tạo điều kiện phát triển bộ phận tư vấn thuế độc lập để giúp đỡ các doanh nghiệp thực hiện tốt nghĩa vụ thuế. Đứng trước các yêu cầu đó, dịch vụ HTĐTNT ở Việt Nam những năm qua đã hình thành và đi vào hoạt động, bước đầu đạt những kết quả quan trọng. Để có thể đánh giá cụ thể hơn những kết quả, hạn chế; có được hướng đi đúng đắn và các giải pháp thích hợp cần thiết phải xem xét cụ thể thực trạng công tác HTĐTNT ở Việt Nam cũng như một số bài học kinh nghiệm nước ngoài. Nguyễn Minh Hương 02.01 Lớp: K39 - Học Viện Tài Chính Luận văn cuối khoá Chương 2 THỰC TRẠNG ÁP DỤNG DỊCH VỤ HTĐTNT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 2.1 Bối cảnh triển khai áp dụng dịch vụ HTĐTNT: Năm 2001, chúng ta đã hoàn thành cải cách thuế bước 2 (1996-2000), chuẩn bị tiến hành cải cách thuế bước 3 (2001-2010). Mục tiêu chính của cải cách thuế bước 3 là hoàn thiện hệ thống chính sách thuế và tạo lập môi trường quản lý thuế hiện đại, nâng cao hiệu quả quản lý thuế. Từ năm 2001 đến nay ngành thuế đã có nhiều chuyển biến tích cực, mở đầu là dịch vụ HTĐTNT, tiếp theo là chế độ hành thu mới, quy trình quản lý mới…Để có cái nhìn tổng quát về dịch vụ HTĐTNT, cần phải xem xét qua từng mặt đổi mới đó của ngành thuế. 2.1.1 Quá trình triển khai hoạt động HTĐTNT tại cơ quan thuế: Để công cuộc cải cách thuế tiến hành thuận lợi, góp phần tích cực vào việc ổn định và phát triển kinh tế xã hội theo đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước thì công tác tuyên truyền, hỗ trợ ĐTNT là một nhiệm vụ trọng tâm, đã và đang được quan tâm đúng mức. Ngày 15/10/2001, Tổng cục thuế ban hành Quyết định số 1846/TCT/QĐ/TCCB về việc thành lập Ban chỉ đạo thí điểm hoạt động tư vấn thuế, phục vụ cho ĐTNT. Sau đó là hàng loạt các công văn của Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tài chính, Tổng cục thuế qui định về lộ trình, quy chế thực hiện công tác tuyên truyền, hỗ trợ ĐTNT như: Quyết định 39/2002/QĐBTC (ngày 1/4/2002), công văn 1830/TCT/TCCB (ngày 6/5/2002), Quyết định 1788/TCT/QĐ/TTHT (ngày 1/12/2004)…Theo đó, từ quí IV năm 2001, Cục thuế TP Hồ Chí Minh, Cục thuế tỉnh Quảng Ninh, Cục thuế tỉnh Thừa Thiên-Huế, Cục thuế An Giang, tiếp đó là Cục thuế TP Hà Nội được chọn để tổ chức thí điểm hoạt động tuyên truyền, hỗ trợ ĐTNT. Các cục thuế khác tuy không nằm trong diện thí điểm nhưng do nhận thức được tầm quan trọng và Nguyễn Minh Hương 02.01 Lớp: K39 - Học Viện Tài Chính Luận văn cuối khoá tính cấp thiết của công tác này, tuỳ theo điều kiện và khả năng đã chủ động triển khai các hoạt động HTĐTNT. Sau hơn 2 năm thực hiện thí điểm, Tổng cục thuế đã đúc rút kinh nghiệm từ thực tế để hoàn thiện quy trình tuyên truyền, hỗ trợ ĐTNT tiến tới thực hiện chính thức công tác này trong toàn ngành. Từ năm 2004, từ Tổng cục thuế đến các Cục thuế địa phương đã tiến hành sắp xếp nhân sự, tổ chức bộ máy theo chức năng, nhiệm vụ mới. Hệ thống tuyên truyền, hỗ trợ ĐTNT được hình thành từ Trung ương đến các cơ sở Quận, Huyện. Sau khi ổn định bộ máy tổ chức, cơ quan thuế các cấp đã tập trung triển khai công tác tuyên truyền và hỗ trợ ĐTNT. Tổng cục thuế chỉ đạo các Cục thuế địa phương thông báo tên, địa chỉ, số điện thoại của Phòng, Tổ tuyên truyền và hỗ trợ ĐTNT để các tổ chức, cá nhân biết liên hệ. Đến nay, đã có 2200 cán bộ thuế làm công tác tuyên truyền và hỗ trợ ĐTNT, hầu hết các địa phương đã ổn định về mặt tổ chức, sắp xếp cán bộ, cũng như tạo điều kiện về cơ sở vật chất, phương tiện làm việc để triển khai công tác HTĐTNT. Như vậy, tính cho đến thời điểm này, dịch vụ HTĐTNT đã xuất hiện ở Việt Nam hơn 3 năm, mở rộng trên phạm vi cả nước được 1 năm. 2.1.2 Áp dụng thí điểm cơ chế tự kê khai, tự nộp ở một số Cục thuế: Tự kê khai, tự nộp thuế là một cơ chế hành thu tiên tiến, đã được nhiều nước phát triển trên thế giới áp dụng. Cơ chế này có nhiều ưu điểm như tiết kiệm nguồn lực, nâng cao trách nhiệm và ý thức tự nguyện tuân thủ pháp luật thuế cho các ĐTNT, thể hiện tính dân chủ hoá trong hệ thống thuế, thích hợp với nền kinh tế thị trường…Việc ngành thuế Việt Nam chuyển sang áp dụng quản lý thuế theo cơ chế tự khai, tự nộp là điều tất yếu. Tuy nhiên, để cơ chế tự khai, tự nộp phát huy tác dụng trong điều kiện thực tế của Việt Nam, cần phải có giai đoạn chuyển đổi và tìm được bước đi thích hợp cho ngành. Thực hiện quản lý thuế theo cơ chế tự kê khai, tự nộp thuế, bộ máy quản lý thuế ở cơ quan thuế các cấp phải tổ chức tập trung theo các chức Nguyễn Minh Hương 02.01 Lớp: K39 - Học Viện Tài Chính Luận văn cuối khoá năng, bao gồm: tuyên truyền, hướng dẫn ĐTNT; theo dõi xử lý việc kê khai thuế; đôn đốc thu nợ và cưỡng chế thuế; kiểm tra, thanh tra thuế. Ngày 23/9/2003, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định 197/2003/QĐ-TTg về việc thí điểm thực hiện cơ chế cơ sở sản xuất kinh doanh tự kê khai, tự nộp thuế. Sau đó, Bộ Tài chính đã ra thông tư 127/2003/TT-BTC hướng dẫn thực hiện quyết định 197. Phạm vi thí điểm áp dụng cơ chế mới là thuế giá trị gia tăng (trừ phần thuế giá trị giă tăng kê khai và nộp ở khâu nhập khẩu) và thuế thu nhập doanh nghiệp. Lộ trình áp dụng cơ chế tự khai, tự nộp được chia thành 3 giai đoạn: - Từ ngày 01/01/2004, thí điểm áp dụng đối với một số cơ sở sản xuất kinh doanh đăng ký kê khai, nộp thuế tại Cục thuế TP Hồ Chí Minh và Cục thuế tỉnh Quảng Ninh. - Năm 2005, Tổng cục thuế tiến hành sơ kết tình hình thực hiện thí điểm và báo cáo Bộ Tài chính để mở rộng thí điểm đối với các cơ sở kinh doanh khác thuộc Cục thuế TP Hồ Chí Minh và Cục thuế tỉnh Quảng Ninh, đồng thời mở rộng thí điểm áp dụng tại một số địa phương khác. - Năm 2007, Bộ Tài chính tổng kết, đánh giá việc thí điểm phương pháp quản lý mới này, hoàn thiện các cơ chế, chính sách để áp dụng trên phạm vi cả nước. Sở dĩ TP Hồ Chí Minh và tỉnh Quảng Ninh được chọn để thí điểm cơ chế tự khai, tự nộp thuế là vì hai địa bàn này đều thực hiện tốt nghĩa vụ chính sách về thuế, phí, lệ phí; việc đăng ký, kê khai thuế hàng tháng đảm bảo chất lượng và đúng hạn; nhiều năm liên tiếp có số thu thuế nộp vào NSNN tăng cao. Năm 2004, Tổng cục thuế đã lựa chọn 337 cơ sở kinh doanh tại TP Hồ Chí Minh và 122 cơ sở kinh doanh tại Quảng Ninh để thực hiện thí điểm. Trước đó, Cục thuế TP Hồ Chí Minh và Cục thuế tỉnh Quảng Ninh đã có những bước chuẩn bị tích cực cho đề án này. Cơ quan thuế thực hiện từng Nguyễn Minh Hương Lớp: K39 02.01 Học Viện Tài Chính Luận văn cuối khoá bước cải cách thủ tục hành chính, bộ máy quản lý được sắp xếp và hoạt động theo chức năng chuyên sâu, khắc phục tình trạng chồng chéo trong các khâu quản lý thuế. Đồng thời, Cục thuế TP Hồ Chí Minh và Cục thuế Quảng Ninh còn là 2 trong số 4 cục thuế đầu tiên của cả nước thực hiện thí điểm dịch vụ HTĐTNT từ cuối năm 2001, đảm bảo tuyên truyền, hỗ trợ kịp thời cho các ĐTNT. Sau một năm thí điểm, kết quả thu được khá khả quan. Việc chấp hành tự kê khai, tự tính thuế và nộp thuế đã đi vào nề nếp, tất cả các doanh nghiệp đều nộp tờ khai theo đúng thời gian qui định. Chất lượng kê khai đã từng bước được nâng lên, phần lớn các doanh nghiệp kê khai đảm bảo đúng mẫu biểu, đúng các chỉ tiêu, nội dung kinh tế phát sinh. Số thuế phát sinh hàng tháng nộp tương đối đều đặn, tỷ lệ nợ đọng giảm đáng kể. Công tác thanh tra, kiểm tra, quyết toán thuế tại các doanh nghiệp của cơ quan thuế cho thấy các số liệu quyết toán tương đối sát thực, phản ánh đúng kết quả sản xuất kinh doanh. Điều này thể hiện được tính trung thực cũng như tinh thần trách nhiệm trước pháp luật của các doanh nghiệp về báo cáo quyết toán của đơn vị mình. Do thực hiện tốt việc kê khai và nộp thuế nên tổng thu NSNN của các doanh nghiệp này đều có xu hướng tăng. Tổng thu của 122 doanh nghiệp thực hiện thí điểm ở Quảng Ninh trong năm 2004 là 832 tỷ đồng, bằng 149% cùng kỳ. Như vậy, qua một năm thí điểm cơ chế tự kê khai, tự nộp thuế đã thu được kết quả tổt, đạt mục tiêu đặt ra của đề án. Trên cơ sở kết quả này, bắt đầu từ ngày 1/1/2005, Tổng cục thuế tiếp tục triển khai thí điểm cơ chế tự khai, tự nộp theo quyết định 197 của Thủ tướng Chính phủ ở 5 Cục thuế: Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Quảng Ninh, Đồng Nai và Bà Rịa-Vũng Tàu. Bên cạnh đó, các Cục thuế Yên Bái, Khánh Hoà, Thừa Thiên-Huế, An Giang, Cần Thơ, Bình Thuận đã đề nghị với Tổng cục được thực hiện đề án cải cách tổ chức bộ máy quản lý thuế theo chức năng. Vì vậy, song song với đề án thí điểm tại 5 Cục thuế là chương trình thí điểm ở một số Cục thuế trên tổ chức bộ máy quản lý thuế cấp cục theo mô hình chức Nguyễn Minh Hương 02.01 Lớp: K39 - Học Viện Tài Chính Luận văn cuối khoá năng thực hiện cơ chế tự khai, tự nộp từ này 01/7/2005. Cùng với mở rộng phạm vi thí điểm về địa phương, về ĐTNT, trong thời gian tới, việc thí điểm còn được mở rộng về sắc thuế, ngoài thuế giá trị gia tăng và thu nhập doanh nghiệp có thêm thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế tài nguyên. 2.1.3 Quy trình quản lý thuế mới: Nhằm thực hiện nghiêm chỉnh các luật thuế, pháp lệnh thuế, đảm bảo nộp đúng, nộp đủ, nộp kịp thời tiền thuế vào NSNN; đề cao ý thức tự giác chấp hành chính sách, pháp luật thuế và tạo điều kiện thuận lợi cho các ĐTNT thực hiện tốt nghĩa vụ thuế, xoá bỏ những thủ tục không cấn thiết gây phiền hà, tốn kém cho ĐTNT; đồng thời chuẩn hoá dần công tác quản lý thuế, nâng cao năng lực hiệu quả của bộ máy quản lý thuế…..Tổng cục trưởng Tổng cục thuế đã ban hành hai quyết định 1201/TCT/QĐ/TCCB và 1209/TCT/QĐ/TCCB về quy trình quản lý thuế đối với hộ kinh doanh cá thể và đối với doanh nghiệp. Hai quyết định này được thực hiện từ ngày 01/10/2004, thay thế hai quyết định 1345/TCT/QĐ/TCCB và 1368/TCT/QĐ/TCCB. Hai quy trình quản lý thuế này được chỉnh sửa theo hướng phù hợp với cơ chế tự khai tự nộp thuế, phù hợp với cơ cấu tổ chức mới, đáp ứng các yêu cầu chỉnh sửa các luật, nghị định, thông tư mới ban hành trong 4 năm qua, quy định rõ hơn các bước công việc và thời gian thực hiện. Các đơn vị chính tham gia quy trình 1209 là: - Phòng Tuyên truyền và hỗ trợ tổ chức và cá nhân nộp thuế tại Cục thuế và Tổ nghiệp vụ hỗ trợ tại Chi cục thuế. - Phòng Tin học và xử lý dữ liệu tại Cục thuế và Tổ xử lý dữ liệu Chi cục thuế. - Các phòng Quản lý doanh nghiệp tại Cục thuế và Đội quản lý doanh nghiệp tại Chi cục thuế. Nguyễn Minh Hương 02.01 Lớp: K39 - Học Viện Tài Chính Luận văn cuối khoá - Phòng Thanh tra tại Cục thuế và Tổ thanh tra, kiểm tra tại Chi cục thuế. - Phòng Hành chính-Lưu trữ tại Cục thuế và Tổ hành chính tại Chi cục thuế. - Phòng Tổng hợp-dự toán Cục thuế. - Phòng Quản lý ấn chỉ Cục thuế và Tổ quản lý ấn chỉ Chi cục thuế. - Các Ban quản lý thuế đối với doanh nghiệp và Trung tâm tin học-thống kê tại Tổng cục thuế. Các đơn vị tham gia quy trình 1201 là: - Tổ xử lý dữ liệu Chi cục thuế. - Tổ nghiệp vụ-hỗ trợ Chi cục thuế. - Các đội quản lý doanh nghiệp Chi cục thuế. - Tổ thanh tra, kiểm tra Chi cục thuế. - Tổ hành chính Chi cục thuế. - Phòng tổng hợp-xử lý dữ liệu Cục thuế. Như vậy, dễ dàng nhận thấy một trong những điểm khác biệt của quy trình 1201 và 1209 so với quy trình 1345 và 1368 là có sự tham gia của Phòng tuyên truyền-hỗ trợ tổ chức và cá nhân nộp thuế tại Cục thuế và Tổ nghiệp vụ hỗ trợ tại Chi cục thuế. Tóm lại, thông qua việc xem xét bối cảnh triển khai áp dụng dịch vụ HTĐTNT, có thể kết luận rằng hoạt động HTĐTNT có một vị trí quan trọng, không thể thiểu được trong các chương trình cải cách của ngành thuế. 2.2 Kết quả của hoạt động HTĐTNT ở Việt Nam trong thời gian qua: Dịch vụ HTĐTNT chính thức được triển khai hơn 3 năm. Để đánh giá những thành công đã đạt được cũng như những mặt cần phải khắc phục, trước hết phải tổng kết những hoạt động HTĐTNT đã diễn ra trong thời gian qua. Nguyễn Minh Hương 02.01 Lớp: K39 -
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan