Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả kinh tế sản xuất lúa ở xã nghĩa đồng, huyện t...

Tài liệu Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả kinh tế sản xuất lúa ở xã nghĩa đồng, huyện tân kỳ, tỉnh nghệ an

.PDF
76
387
53

Mô tả:

Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Hồ Tú Linh PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lý do chọn đề tài Việt Nam đang thực hiện quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng giảm dần tỷ trọng ngành nông nghiệp, tăng dần tỷ trọng các ngành công nghiệp - dịch vụ. Tuy nhiên, vai trò của ngành nông nghiệp là không thể phủ nhận. Ngành nông nghiệp cung cấp lương thực, thực phẩm cần thiết để đảm bảo sự sống còn của một nền kinh tế. Những thành công đáng kể của nền kinh tế Việt Nam sau khi chính thức gia nhập vào tổ chức thương mại quốc tế -WTO không thể không kể đến những thắng lợi trong lĩnh vực nông nghiệp. Nghĩa Đồng là một xã có truyền thống trồng lúa lâu đời thuộc huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An, Việt Nam. Đặc điểm địa hình của xã tương đối bằng phẳng cùng với diện tích đất nông nghiệp màu mỡ tạo thuận lợi cho việc phát triển ngành nông nghiệp đặc biệt là các loại cây trồng. Bên cạnh đó, hệ thống kênh mương dày đặc phục vụ tốt cho công tác tưới tiêu trong hoạt động trồng trọt. Những lợi thế so sánh ở trên đã giúp cho người dân ở đây có điều kiện phát triển cây lúa, mang lại giá trị kinh tế cao tại xã. Tuy nhiên trong điều kiện thời tiết ngày càng phức tạp do sự nóng dần lên của trái đất, gây ra hiện tượng hạn hán, mưa lũ liên miên đã khiến người nông dân không phản ứng kịp với sự thay đổi của khí hậu, kết quả sản xuất bị ảnh hưởng. Hơn nữa, việc sử dụng các yếu tố đầu vào như giống, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật (BVTV)… còn chưa ổn định, chất lượng chưa đảm bảo. Hay tình trạng đất nông nghiệp bị chuyển đổi thành đất để xây dựng nhà ở. Chính những điều này đã làm cho hoạt động sản xuất lúa của người dân địa phương xã Nghĩa Đồng chưa tương xứng với tiềm năng trên địa bàn so với những yếu tố đầu vào bỏ ra. Xuất phát từ thực trạng đó, tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả kinh tế sản xuất lúa ở xã Nghĩa Đồng, huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An” cho khóa luận tốt nghiệp của mình. 2. Mục đích nghiên cứu của đề tài - Hệ thống hoá cơ sở lý luận, thực tiễn sản xuất lúa và hiệu quả sản xuất lúa. - Đánh giá hiệu quả sản xuất lúa vụ Đông Xuân và Hè Thu năm 2011. - Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế sản xuất lúa ở xã Nghĩa Đồng, huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An SVTH: Nguyễn Thị Nhung - Lớp: K42A Kinh tế nông nghiệp 1 Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Hồ Tú Linh - Đề xuất một số giải pháp góp phần khắc phục những khó khăn và phát huy những lợi thế của địa phương nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất lúa trên địa bàn nghiên cứu. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động sản xuất lúa - Phạm vi nghiên cứu:  Về không gian: Nghiên cứu trên địa bàn xã Nghĩa Đồng, huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An, Việt Nam.  Về thời gian: từ 2009 đến 2011. 4. Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử: Là phương pháp nhằm nhận thức bản chất của các hiện tượng tự nhiên, kinh tế, xã hội. Nó yêu cầu các hiện tượng phải được nghiên cứu trong mối liên hệ bản chất chặt chẽ, tác động lẫn nhau một cách khoa học khách quan và logic, không phải đặt trong trạng thái tĩnh mà là trong sự phát triển không ngừng và sự vận động của các sự vật, hiện tượng qua các thời kỳ khác nhau. - Phương pháp thu thập và xử lý số liệu: + Phương pháp thu thập số liệu sơ cấp: Được thu thập từ điều tra phỏng vấn 60 hộ sản xuất lúa ở địa bàn nghiên cứu bằng cách xây dựng các phiếu điều tra căn cứ vào nội dung nghiên cứu theo phương pháp điều tra chọn mẫu ngẫu nhiên. + Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp: Dựa vào số liệu điều tra của UBND xã Nghĩa Đồng, các niên giám thống kê của xã, của tỉnh, niên giám thống kê của cả nước, các báo cáo hoạt động của xã, một số tạp chí sách báo liên quan, internet,… + Phương pháp thống kê mô tả và hạch toán kinh tế: Dựa vào các số liệu thứ cấp và số liệu sơ cấp thu thập được trong suốt quá trình điều tra, nghiên cứu để hệ thống hoá các số liệu dưới dạng các chỉ tiêu nghiên cứu từ đó phân tích, đánh giá theo các chỉ tiêu qua thời gian. + Phương pháp chuyên gia: Tham khảo ý kiến của những người có kinh nghiệm, các cán bộ lãnh đạo am hiểu về lĩnh vực này, các bậc bề trên có kinh nghiệm trong làng xã, các thầy cô giáo,… + Phương pháp hạch toán kinh tế: Được vận dụng để đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến năng suất lúa bằng mô hình Cobb-Douglas theo phương pháp OLS trên phần mềm Eviews. SVTH: Nguyễn Thị Nhung - Lớp: K42A Kinh tế nông nghiệp 2 Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Hồ Tú Linh Tôi xin trân trọng cảm ơn sự giúp đỡ từ phía UBND xã Nghĩa Đồng, các hộ tham gia quá trình điều tra, ông Ngô Xuân Nghĩa (chủ tịch xã), ông Võ Duy Hiển (Phó chủ tich xã) và các bác trong phòng thống kê xã đã cung cấp các số liệu cần thiết, cảm ơn cô giáo Hồ Tú Linh và các thầy cô khác đã có những tư liệu, ý kiến đóng góp cho việc hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này. Tuy đã cố gắng nhưng với trình độ chuyên môn, kinh nghiệm và thời gian còn hạn chế nên nội dung khóa luận sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong quý thầy cô và các bạn đọc thông cảm đồng thời góp ý thêm để đề tài hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn! SVTH: Nguyễn Thị Nhung - Lớp: K42A Kinh tế nông nghiệp 3 Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Hồ Tú Linh PHẦN II NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CHƯƠNG I: CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN 1.1.1. Lý luận chung về hiệu quả kinh tế 1.1.1.1. Một số khái niệm và phương pháp tính hiệu quả kinh tế 1.1.1.1.1. Khái niệm hiệu quả Hiệu quả: Theo quan điểm của các nhà kinh tế học thì hiệu quả là một đại lượng so sánh với thành quả và chi phí thời gian, tài nguyên bỏ ra để đạt được hiệu quả đó. Kết quả là cái mà chúng ta thu được, đạt được, là kết quả của quá trình lao động. 1.1.1.1.2. Hiệu quả kinh tế Hiệu quả kinh tế là một hiện tượng (hoặc quá trình) kinh tế là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực (nhân lực, tài lực, vật lực, tiền vốn) để đạt được mục tiêu xác định. Hiệu quả kinh tế phản ánh chất lượng hoạt động kinh tế. Theo quan điểm kinh tế học vi mô: Hiệu quả kinh tế là tất cả những quyết định sản xuất cái gì nằm trên đường năng lực sản xuất là có hiệu quả vì nó tận dụng hết tất cả nguồn lực; Số lượng hàng hoá đạt trên đường giới hạn của năng lực sản xuất càng lớn càng có hiệu quả cao; Sự thoả mãn tối đa về mặt hàng, chất lượng, số lượng hàng hoá theo nhu cầu thị trường trong giới hạn của đường năng lực sản xuất cho ta đạt được hiệu quả kinh tế cao nhất; Và cuối cùng là kết quả trên một đơn vị chi phí càng lớn hoặc chi phí trên một đơn vị kết quả càng nhỏ thì hiệu quả kinh tế càng cao. Hiệu quả kinh tế là tiêu chuẩn cao nhất của mọi sự lựa chon kinh tế của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Nâng cao hiệu quả kinh tế có ý nghĩa quan trọng trong sự tăng trưởng và phát triển của mỗi doanh nghiệp nói riêng và của toàn xã hội nói chung. Bên cạnh đó hiệu quả kinh tế còn phải quan tâm hiệu quả về mặt xã hội cũng như hiệu quả về mặt môi trường. Hiệu quả xã hội phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực nhằm đạt được mục tiêu xã hội nhất định. Các mục tiêu xã hội thường thấy là: giải quyết công ăn việc làm SVTH: Nguyễn Thị Nhung - Lớp: K42A Kinh tế nông nghiệp 4 Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Hồ Tú Linh trong phạm vi toàn xã hội hoặc từng khu vực kinh tế, giảm số người thất nghiệp, nâng cao trình độ và đời sống văn hoá, tinh thần cho người lao động đảm bảo mức sống tối thiểu cho người lao động, nâng cao mức sống tốt cho các tầng lớp nhân dân trên cơ sở giải quyết tôt các quan hệ trong sản xuất, đảm bảo và nâng cao sức khoẻ; đảm bảo vệ sinh môi trường. Hay nói cách khác, đó chính là tương quan so sánh về mặt kinh tế xã hội so với một đồng chi phí bỏ ra. 1.1.1.2. Phương pháp xác định hiệu quả kinh tế Bản chất của hiệu quả kinh tế là sự so sánh giữa kết quả thu được với chi phí bỏ ra. Do đó, để tính được hiệu quả kinh tế ta phải xác định được chi phí với kết quả. Trong hệ thống cân đối quốc dân (MPS), kết quả thu được có thể là toàn bộ giá trị sản phẩm (c+v+m) hoặc có thể là thu nhập (v+m), hoặc có thể là thu nhập thuần tuý (m)… Trong hệ thống tài khoản quốc gia (SNA) thì kết quả thu được có thể là tổng giá trị sản xuất (GO), có thể là giá trị gia tăng (VA), có thể là thu nhập hỗn hợp (MI), hoặc lợi nhuận (P). Tuỳ theo mục đích tính toán hiệu quả kinh tế mà ta sử dụng các chỉ tiêu kết quả cho phù hợp. Chi phí bỏ ra trong quá trình sản xuất kinh doanh là những chi phí cho yếu tố đầu vào như đất đai, lao động, tiền vốn, nguyên vật liệu. Tuỳ theo mục đích nghiên cứu mà chi phí bỏ ra có thể tính toán toàn bộ hay cho từng yếu tố chi phí. Thông thường chi phí bỏ ra được tính là tổng chi phí, chi phí vật chất, lao động sống, tổng số vốn, tổng diện tích, tổng chi phí trung gian. Sau khi xác định được kết quả thu được và chi phí bỏ ra, ta tính được hiệu quả kinh tế. Hiệu quả kinh tế có thể được tính bằng 2 phương pháp sau: Phương pháp hiệu quả tuyệt đối: H=Q-C (1.1) ΔH=ΔQ-ΔC (1.2) Phương pháp hiệu quả tương đối: Dạng thuận (toàn bộ): H= Q C (1.3) Dạng thuận (cận biên): Hb =ΔQ/ΔC (1.4) SVTH: Nguyễn Thị Nhung - Lớp: K42A Kinh tế nông nghiệp 5 Khóa luận tốt nghiệp Dạng nghịch (toàn bộ): GVHD: ThS. Hồ Tú Linh H= C Q (1.5) Trong đó: H là hiệu quả (lần) Hb hiệu quả cận biên (lần) Q là lượng kết quả thu được (nghìn đồng, triệu đồng…) C là chi phí bỏ ra hoặc các yếu tố đầu vào (nghìn đồng, triệu đồng…) ΔQ là lượng kết quả tăng thêm (nghìn đồng, triệu đồng…) ΔC là lượng chi phí hoặc đầu vào tăng thêm (nghìn đồng, triệu đồng…) 1.1.2. Đặc điểm kinh tế, kỹ thuật của cây lúa 1.1.2.1. Giá trị kinh tế của cây lúa 1.1.2.1.1. Nguồn gốc, xuất xứ Cây lúa (tên khoa học là Oryza sativa) là một trong những loại ngũ cốc có lịch sử trồng trọt từ lâu đời và sản phẩm của cây lúa là gạo đã trở thành một loại thực phẩm hết sức cần thiết cho con người. Theo thống kê của cơ quan thực phẩm Liên Hiệp Quốc trên thế giới có khoảng 147.5 triệu ha đất trồng lúa và 90% diện tích này là thuộc các nước Châu Á, các nước Châu Á cũng sản xuất 92% tổng sản lượng lúa gạo trên thế giới. Có thể nói rằng Châu Á là trung tâm sản xuất lúa gạo lớn nhất thế giới. Căn cứ vào tài liệu khảo cổ của Trung Quốc, Ấn Độ và Việt Nam, cây lúa đã có mặt hơn 3000 năm trước công nguyên. Ở Trung Quốc cây lúa đã có mặt ở Triế Giang khoảng 5000 năm, ở hạ lưu sông Dương Tử là 4000 năm. Theo kết quả khảo cổ học trong vòng vài thập niên qua, quê hương của cây lúa là vùng Đông Nam Á và vùng Đông Dương. Từ Đông Nam Á cây lúa mới được du nhập vào Ấn Độ và Trung Quốc phát triển theo hai hướng đông và tây. Cho đến thập kỷ thứ nhất cây lúa được đưa vào trồng ở vùng Địa Trung Hải như Ai Cập, Italia, Tây Ban Nha. Đầu thế kỷ XV, cây lúa từ bắc Italia nhập vào các nước Đông Nam Âu như Nam Tư cũ, Bungari, Rumani…sau đó lúa mới được trồng đáng kể ở Pháp và Hungari. Vào thế kỷ XVII cây lúa được nhập vào Mỹ và được trồng ở các bang như Virginia, Nam Caronia, hiện nay được trồng phổ biến ở California, Louisiana, Texa. Theo hướng đông từ đầu thế kỷ XI cây lúa từ Ấn Độ được nhập vào Indonexia đầu tiên ở đảo Java. Đến giữa thế kỷ XVII cây lúa từ Iran vào trồng ở Kuban (Nga). Cho đến nay cây lúa đã có mặt trên tất cả các châu lục, bao gồm các nước nhiệt đới, á nhiệt đới và một số nước ôn đới. SVTH: Nguyễn Thị Nhung - Lớp: K42A Kinh tế nông nghiệp 6 Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Hồ Tú Linh 1.1.2.1.2. Giá trị dinh dưỡng của cây lúa Lúa gạo là trong những sản phẩm cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của con người. Trong lúa gạo có đầy đủ chất dinh dưỡng cung cấp nguồn năng lượng. Thành phần chủ yếu trong lúa là tinh bột và protein, bên cạnh đó còn có các loại vitamin nhóm B và các loại khoáng chất khác.  Tinh bột: Hàm lượng tinh bột là 62.4% là nguồn cung cấp calo chủ yếu. Giá trị nhiệt lượng của lúa là 3594 calo, so với lúa mì là 3610 calo, độ đồng hoá đạt đến 95.5%. Tinh bột được cấu tạo bởi amylopectin và amylose. Amylose có cấu tạo mạch thẳng và có nhiều ở gạo tẻ, amylopectin có cấu tạo mạch ngang và có nhiều ở gạo nếp. Các loại gạo ở Việt Nam có hàm lượng amylose từ 18-48%. Tỷ lệ thành phần amylose và amylopectin cũng có liên quan đến độ dẻo của hạt, gạo nếp có nhiều amylopectin nên thường dẻo hơn gạo tẻ.  Protein: Các giống lúa ở Việt Nam có hàm lượng Protein chủ yếu khoảng 7-8% các giống lúa nếp có hàm lượng Protein cao hơn lúa tẻ.  Lipit: Chủ yếu ở lớp vỏ gạo. Ở gạo xay là 2.02%, ở gạo đã xát chỉ còn 0.52%.  Vitamin: Trong cây lúa còn có một số Vitamin nhất là vitamin nhóm B như B1, B2, B6, PP…lượng vitamin B1 là 0.45mg/100 hạt (trong đó ở phôi 47%, vỏ cám 430.5%, hạt gạo 3.8%. 1.1.2.1.3. Giá trị kinh tế của cây lúa Theo thống kê của tổ chức Nông Lương Liên Hiệp Quốc (FAO), lúa là một trong năm loại cây lương thực chính của thế giới, cùng với ngô (Zea Mays L.), lúa mỳ (Triticum SP), sắn (Manihot esculenta Crantz), khoai tây (Solanum tuberosum L). Trong các loại lương thực kể trên lúa gạo và lúa mỳ là hai loại lương thực cơ bản nhất dành cho con người. Nếu như người phương Tây lương thực chính của họ là lúa mỳ thì đối với người phương Đông lúa gạo là lương thực không thể thiếu. Trên thế giới cây lúa được 250 triệu hộ dân trồng, là lương thực chính của 1.3 tỷ người nghèo nhất trên thế giới, là sinh kế chủ yếu của người nông dân. Là nguồn cung cấp năng lượng chủ yếu của con người, bình quân 180-200 kg/người/năm tại các nước Châu Á, khoảng 10 kg/người/năm tại các nước Châu Mỹ. Ở Việt Nam dân số trên 80 triệu người và 100% người dân Việt Nam sử dụng lúa gạo làm lương thực chính. Từ đó cho thấy vai trò của lúa gạo là hết sức quan trọng, nhất là ở các nước Châu Á, tỷ lệ calo cung cấp từ lúa gạo chiếm 50-60%. Bên cạnh đó các sản phẩm phụ của cây lúa cũng được sử dụng nhiều hơn trong các lĩnh vực khác nhau: SVTH: Nguyễn Thị Nhung - Lớp: K42A Kinh tế nông nghiệp 7 Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Hồ Tú Linh  Tấm: Sản xuất tinh bột rượi cồn, axeton, phấn mịn, thuốc chữa bệnh…  Cám: Dùng để sản xuất thức ăn tổng hợp, sản xuất vitamin B1 để chữa bệnh tê phù, chế tạo sơn cao cấp hoặc làm nguyên liệu chế tạo xà phòng  Trấu: Sản xuất nấm men làm thức ăn cho gia súc, vật liệu đóng lót hàng, vật liệu độn cho phân chuồng, làm chất đốt.  Rơm rạ: Được sử dụng cho công nghệ sản xuất giày, catton xây dựng, đồ gia dụng (thừng, chảo, mũ, dày, dép…), hoặc làm thức ăn cho gia súc, sản xuất nấm… Như vậy, ngoài hạt lúa là bộ phận chính làm lương thực, tất cả các bộ phận khác của cây lúa đều được sử dụng vào các mục đích khác, thậm chí bộ rễ của cây lúa nằm sâu trong đất sau khi thu hoạch cũng được tận dụng làm phân… Ngoài ra, cây lúa còn đóng một vai trò quan trọng trong quá trình xuất khẩu. Sản xuất và xuất khẩu lúa gạo đã và đang góp phần vào thắng lợi của quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở các nước. Trong đó Việt Nam đã có những bước tiến vượt bậc, đưa đất nước từ chỗ thiếu ăn triền miên lên thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai thế giới. 1.1.2.2. Kỹ thuật thâm canh cây lúa Lúa là lương thực được canh tác lâu đời ở nước ta. Tuy nhiên trong những năm gần dây do quá trình thâm canh tăng vụ, lạm dụng quá nhiều phân bón hoá học, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc kích thích tăng trưởng…đã phát sinh ra nhiều đối tượng sâu bệnh gây hại, làm ảnh hưởng đến năng suất lúa. Vì vậy vấn đề đặt ra là cần nắm được kỹ thuật thâm canh cây lúa để nâng cao hiệu quả sản xuất. Hiện nay, ở nước ta cây lúa được canh tác theo hai phương thức chủ yếu là cấy lúa và lúa gieo thẳng. Kỹ thuật thâm canh cây lúa được thực hiện theo các bước sau: * Kỹ thuật chọn giống: Giống tốt là tiền đề làm ổn định năng suất. Do đó chúng ta nên chọn giống thích hợp cho từng mùa vụ và giống phải đạt ít nhất các tiêu chuẩn sau: - Giống phải có độ thuần cao, cở hạt thuần nhất - Giống phải sạch bệnh - Giống phải sạch hạt cỏ dại và lúa cỏ - Giống có tỷ lệ nảy mầm trên 90% SVTH: Nguyễn Thị Nhung - Lớp: K42A Kinh tế nông nghiệp 8 Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Hồ Tú Linh *Kỹ thuật làm đất:  Vệ sinh ruộng đồng, dọn sạch cỏ dại và tàn dư sâu bệnh trên ruộng. Nhất là trong vụ Hè thu thì nên đốt đồng, cày bừa phơi đất cũng là biện pháp kỹ thuật giúp cho lúa phát triển tốt và đồng thời tránh ngộ độc hữu cơ cho cây lúa ở gian đoạn sau, góp phần làm ổn định năng suất.  San mặt đất bằng phẳng, đánh đường nước kỹ tạo điều kiện cho giống mọc tốt ngay từ đầu, thuận lợi cho việc sử dụng nước trừ cỏ, khống chế cỏ bằng nước và áp dụng kỹ thuật rút nước ở giai đoạn lúa 30 ngày.  Cần chủ động được nước tưới để tiện lợi cho việc đưa nước vào đồng ruộng, bón phân đúng giai đoạn cần thiết của cây lúa.  Làm luống rộng 1.2-1.4m, rãnh sâu 20cm, rộng 20-25cm, mặt lấp bằng phẳng không đọng nước. * Kỹ thuật gieo trồng: - Thóc giống sau khi xử lý vớt ra, rửa sạch và đem ngâm. Ngâm đến khi hạt lúa có phôi màu trắng là được. - Mật độ gieo: 50-60 gam giống/m2 (25-30 kg/sào) - Lượng hạt gieo cho một ha lúa cấy các giống lúa thuần: +Vụ Hè Thu: 80-100 kg + Vụ Đông Xuân: 110-120 kg - Lượng hạt gieo cho 1 ha lúa cấy các giống lúa lai: 24-30kg (1.2-1.5kg/sào) - Mật độ cấy: + Đối với lúa thuần:Vụ Hè Thu, Đông Xuân cấy 45-50 khóm/m2, 1-2 dảnh/khóm + Đối với lúa lai: Vụ Hè Thu cấy 45-46 khóm/m2, 1-2 dảnh/khóm Vụ Đông Xuân cấy 40-42 khóm/m2, 1-3 dảnh/ khóm * Kỹ thuật cấy: Lúa lai nói riêng, các giống lúa ngắn ngày nói chung không nên nhổ cấy. Biện pháp tốt nhất là xúc đặt, đảm bảo cây mạ không bị tổn thương. Nên cấy thẳng hàng, cấy theo băng rộng 1.2-1.4m, hướng băng cấy vuông góc với phương mặt trời mọc và lặn. * Kỹ thuật chăm sóc và phân bón:  Kỹ thuật chăm sóc, phân bón quyết định đến sự thành bại của đồng ruộng. Bón phân như thế nào cho phù hợp cũng không phải là điều dễ dàng và chúng ta cần nắm được tác dụng các loại phân trong khâu quản lý và chăm sóc. SVTH: Nguyễn Thị Nhung - Lớp: K42A Kinh tế nông nghiệp 9 Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Hồ Tú Linh  Sau khi gieo cấy phải giữ nước cho ngập mặt ruộng để lúa có khả năng sinh trưởng tốt. Thường xuyên giữ nước ở mức 3-5 cm, khi lúa chuẩn bị phân hoá đòng có thể tháo kiệt nước. Luôn giữ nước 5-10 cm ở thời kỳ làm đòng. Lúa có đòng già rút nước lần hai, song chỉ để 1-2 ngày rồi tưới lại ngay. Khi chín sữa thì tháo cạn chỉ giữ đủ ấm.  Thường xuyên theo dõi và kiểm tra quá trình phát triển của cây lúa, bón phân để cây lúa phát triển khoẻ mạnh, ra lá nhanh và đẻ nhánh sớm.  Nếu phát hiện sâu bệnh hại thì phải tiến hành phun thuốc ngay.  Trong mỗi giai đoạn sinh trưởng và phát triển của cây trồng thì có nhu cầu về điều kiện ngoại cảnh khác nhau. Do đó chúng ta cần nắm vững đặc điểm sinh vật học, sinh thái học trong từng giai đoạn sinh trưởng và phát triển của cây trồng để từ đó đưa ra những biện pháp chăm sóc hợp lý nhất. 1.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất lúa Hoạt động sản xuất nông nghiệp nói chung cũng như quá trình sản xuất lúa nói riêng có nhiều sự khác biệt so với các ngành sản xuất khác. Quá trình sản xuất lúa được tiến hành trên một phạm vi không gian rộng lớn và trong một khoảng thời gian dài. Vì vậy nó chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố, song những yếu tố này có thể tác động đồng thời nhưng ở những mức độ khác nhau, có thể trực tiếp hoặc gián tiếp tác động vào năng suất, chất lượng và sản lượng cây trồng. Có thể chia các yếu tố ảnh hưởng năng suất, sản lượng ra thành các nhóm sau. 1.1.3.1. Nhóm nhân tố thuộc điều kiện tự nhiên  Thời tiết khí hậu: Khí hậu là yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến hệ thống canh tác và năng suất lúa. Có thể nói đây là yếu tố có tính quy luật cho từng vùng rộng lớn, ảnh hưởng tới sự phân bố và sự sống của cây lúa trên toàn thế giới. Trong đó có chế độ nhiệt, ánh sáng, nước có ảnh hưởng trực tiếp tới sự sinh trưởng và phát triển của cây lúa.  Nhiệt độ: Đây là nhân tố có ảnh hưởng lớn tới sự nảy mầm của hạt, sự ngoi lên khỏi mặt đất của cây con, nhiệt độ dưới 17oC đã ảnh hưởng lớn tới sự sinh trưởng của cây lúa, nhiệt độ thấp dưới 13oC cây lúa ngừng sinh trưởng và sẽ chết. Nhiệt độ cao hơn 40oC kết hợp với gió nóng khô sẽ ảnh hưởng tới quá trình thụ phấn, dẫn tới tỷ lệ hạt lép cao. Tổng tích ôn của một vụ từ khi nảy mầm tới khi thu hoạch là 2500-3000oC với giống ngắn ngày và 3000-4000oC đối với giống dài ngày. SVTH: Nguyễn Thị Nhung - Lớp: K42A Kinh tế nông nghiệp 10 Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Hồ Tú Linh  Ánh sáng: Ánh sáng ảnh hưởng tới cây lúa trên cả hai mặt cường độ chiếu sáng và thời gian chiếu sáng. Thời gian chiếu sáng trong ngày ảnh hưởng tới quá trình phát dục và ra hoa, thời gian chiếu sáng dưới 13h kích thích sự ra hoa của cây lúa. Cường độ chiếu sáng tức là lượng bức xạ mặt trời có ảnh hưởng đến quang hợp. Lượng bức xạ mặt trời trung bình từ 2000-3000calo/cm2 ngày trở lên.  Nước: Nước cũng là yếu tố quan trọng đối với động, thực vật cũng như đối với cây trồng đặc biệt là cây lúa. Khi có nước thì tế bào cây lúa mới trương lên lúc đó cây lúa mới cứng cỏi được, khi thiếu nước tế bào lúa xẹp lại. Đối với cây lúa ở giai đoạn trổ bông thì nước có vai trò quyết định đến năng suất lúa sau này. Nước có tác dụng thau chua rửa mặn, thiếu nước năng suất sẽ giảm. Vào thời kỳ làm đòng thì cần rất nhiều nước, nếu thiếu nước năng suất sẽ giảm nghiêm trọng. Thời kỳ trổchín sữa cần nhiều nước vì 75-85% trọng lượng khô của hạt gạo phụ thuộc vào thời kỳ này. Thời kỳ lúa chắc xanh và chín hoàn toàn thì không cần nhiều nước, có thể tháo hoàn toàn để thu hoạch.  Đất đai: Đất đai là tư liệu sản xuất quan trọng và không thể thiếu trong quá trình sản xuất lúa, nhờ có đất đai mà cây lúa có thể đứng vững và tồn tại và cũng chính đất đã cung cấp chất dinh dưỡng cần thiết để nuôi cây. Đất tốt hay xấu thể hiện qua độ phì tự nhiên, ở môi trường khác nhau thì độ màu mỡ khác nhau…Vì vậy để sản xuất lúa có hiệu quả cần chú ý tới chế độ canh tác sao cho hợp lý, phù hợp với đặc điểm đất đai nhằm cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng cho cây trồng sinh trưởng và phát triển tốt. 1.1.3.2. Nhóm nhân tố kinh tế xã hội  Điều kiện thị trường và giá cả tiêu thụ sản phẩm: Trong nền kinh tế thị trường, người nông dân không chỉ sản xuất đáp ứng nhu cầu tiêu dùng cho họ mà họ còn sản xuất để bán ra thị trường sản phẩm của mình. Chính vì thế mà giá cả các yếu tố đầu vào cũng như sản phẩm đầu ra trên thị trường có quyết định rất lớn tới quyết định sản xuất của người nông dân.  Tập quán canh tác: Tập quán canh tác là yếu tố ảnh hưởng không nhỏ tới năng suất và sản lượng của cây trồng. Nếu tập quán canh tác lạc hậu sẽ hạn chế việc tái sản xuất đầu tư mở rộng, hạn chế mức đầu tư thâm canh cũng như việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất. Vì vậy việc đổi mới tập quán canh tác tăng cường công tác khuyến nông, giúp người dân thấy rõ được tầm quan trọng của việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất là rất cần thiết. SVTH: Nguyễn Thị Nhung - Lớp: K42A Kinh tế nông nghiệp 11 Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Hồ Tú Linh  Cơ chế chính sách của nhà nước: Các chính sách của nhà nước tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến năng suất lúa. Từ những năm đầu của thập niên 90 của thế kỷ XX, Đảng và Nhà Nước ta đã tập trung chỉ đạo ban hành nhiều văn bản pháp lý nhằm hỗ trợ giúp đỡ nông dân sản xuất nông nghiệp nói chung cũng như trong quá trình sản xuất lúa nói riêng. Những chính sách này đã có tác dụng tích cực, kịp thời đối với việc sản xuất lúa như chính sách đất đai, chính sách đổi mới hợp tác xã nông nghiệp, chính sách đầu tư tín dụng, chính sách khuyến nông…  Chính sách đất đai: Đảng và Nhà Nước ta đã thay thế chế độ bao cấp sang chế độ khoán sản phẩm trong một số lĩnh vực nhất định. Ban bí thư trung ương Đảng đã ra chỉ thị 100 CT/TW về công tác khoán sản phẩm đến người lao động. Nghị quyết 10 của bộ chính trị (ban hành ngày 5/4/1988) về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp, luật đất đai sửa đổi năm 1993 và gần đây nhất là luật đất đai sửa đổi năm 2003 công nhận quyền sử dụng hợp pháp lâu dài của người dân, có thể cầm, cố, chuyển nhượng, thế chấp… Những nhân tố pháp lý này đã ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động sản xuất nông nghiệp nói chung và hoạt động sản xuất lúa nói riêng, giúp người nông dân yên tâm đầu tư lâu dài để nâng cao năng suất cây trồng cũng như hiệu quả kinh tế, đảm bảo cho hoạt động sản xuất nông nghiệp phát triển ổn định và bền vững.  Chính sách khuyến nông: Khuyến nông là chính sách quan trọng của nhà nước nhằm thúc đẩy hỗ trợ sản xuất nông nghiệp phát triển. Thực tế cho thấy người nông dân thiếu vốn nên mức đầu tư vẫn còn thấp, họ sản xuất với quy mô nhỏ lẻ. Đây là nguyên nhân dẫn đên năng suất thấp và chất lượng sản phẩm kém. Trong những năm gần đây nhà nước ta đã dành một khoản ngân sách thích đáng để hỗ trợ sản xuất lúa nhằm cải thiện thu nhập cho một bộ phận dân cư lớn ở nông thôn, các hoạt động khuyến nông cụ thể là:  Nhập giống cây trồng mới  Trợ giá lúa giống cho địa phương  Tập huấn kỹ thuật cho bà con nông dân  Hỗ trợ kinh phí cho cán bộ khuyến nông  Thực hiện chương trình truyền thông đại chúng bằng các hình thức như: Báo, đài, vô tuyến truyền hình, giới thiệu mô hình của nông dân sản xuất giỏi, các chương trình chuyển giao khoa học kỹ thuật, thông tin về giá cả trên thị trường để người dân kịp thời nắm bắt. SVTH: Nguyễn Thị Nhung - Lớp: K42A Kinh tế nông nghiệp 12 Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Hồ Tú Linh  Nhân tố kỹ thuật: Để nâng cao năng suất, sản lượng và chất lượng cây trồng thì cần thực hiện đúng quy trình kỹ thuật và áp dụng các tiến bộ khoa học vào trong sản xuất. Vì vậy các biện pháp kỹ thuật đóng vai trò hết sức quan trọng cần thiết, góp phần nâng cao năng suất cây trồng và chất lượng cây trồng. Tuỳ theo tính chất từng loại đất và từng loại cây trồng mà có nhữn biện pháp kỹ thuật phù hợp. 1.1.4. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất lúa * Chỉ tiêu đánh giá mức độ đầu tư các yếu tố sản xuất: Các chỉ tiêu đánh giá mức độ đầu tư của các yếu tồ nguồn lực trên một đơn vị diện tích cho một hoạt động cụ thể đối với hoạt động sản xuất lúa bao gồm: - Chi phí đầu tư phân bón/ha (số lượng: kg/ha; giá trị: 1000 đ) - Chi phí giống/ha (số lượng: kg/ha; giá trị: 1000 đ) - Chi phí thuốc BVTV/ha (gồm thuốc trừ sâu, diệt cỏ… số lượng: chai/ha; giá trị: 1000 đ) - Chi phí khác/ha (bao gồm chi phí lao động thuê ngoài/ha, chi phí thuỷ lợi, chi phí làm đất, chi phí tuốt lúa…đơn vị tính: 1000 đ) * Hệ thống chỉ tiêu đánh giá kết quả sản xuất: - Tổng giá trị sản xuất trên một đơn vị diện tích (GO): Là toàn bộ của cải vật chất và dịch vụ hữu ích, trực tiếp do lao động sáng tạo ra trong thời kỳ nhất định thường là một năm GO =Qi*Pi (1.6) Trong đó: Qi: Lượng sản phẩm i được sản xuất ra. Pi: Giá của sản phẩm loại i. - Chi phí trung gian trên một đơn vị diện tích (IC): Bao gồm những khoản chi phí vật chất và dịch vụ được sử dụng trong quá trính sản xuất nông nghiệp. - Giá trị gia tăng trên một đơn vị diện tích (VA): Là kết quả cuối cùng thu được sau khi trừ chi phí trung gian của một hoạt động sản xuất kinh doanh nào đó. VA =GO - IC (1.7) * Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sản xuất lúa: - Năng suất lúa (N): Phản ánh trung bình một năm thu được bao nhiêu kg lúa trên, một đơn vị diện tích gieo trồng. N= Q S SVTH: Nguyễn Thị Nhung - Lớp: K42A Kinh tế nông nghiệp (1.8) 13 Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Hồ Tú Linh Trong đó: Q : Tổng sản lượng lúa trong năm S : Diện tích gieo trồng lúa - Giá trị sản xuất trên chi phí trung gian (GO/IC): chỉ tiêu này cho biết việc đầu tư một đồng chi phí trung gian thu được bao nhiêu đồng chi phí sản xuất. - Hiệu suất chi phí trung gian tính theo giá trị gia tăng (VA/IC): Được tính bằng phần giá trị gia tăng bình quân trên một đồng chi phí trung gian bỏ ra. Nó cho biết sẽ có bao nhiêu thu nhập được đem lại từ việc đầu tư một đồng chi phí trung gian bỏ ra. Đây là một chỉ tiêu quan trọng để đánh giá hiệu quả kinh tế. - Giá trị sản xuất trên lao động (GO/lao động): Chỉ tiêu này cho biết một công lao động bỏ ra thì thu được bao nhiêu đồng giá trị sản xuất. - Giá trị gia tăng trên lao động (VA/lao động): Chỉ tiêu này cho biết một công lao động bỏ ra thì thu về được bao nhiêu đồng giá trị gia tăng. - Giá trị sản xuất trên vốn sản xuất kinh doanh (GO/vốn sản xuất kinh doanh): Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn bỏ ra thì sẽ thu được bao nhiêu đồng chi phí sản xuất. - Giá trị gia tăng trên vốn sản xuất kinh doanh (VA/vốn sản xuất kinh doanh): Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn bỏ ra thì sẽ thu về được bao nhiêu đồng giá trị gia tăng. 1.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN 1.2.1. Tình hình sản xuất lúa ở Việt Nam Việt Nam nằm phía đông của bán đảo Đông Dương, thuộc vùng Đông Nam châu Á. Lãnh thổ Việt Nam chạy dọc bờ biển đông của bán đảo này. Việt Nam có bờ biển đất liền với Trung Quốc (1281 km), Lào (2130 km) và Campuchia (1228 km) và bờ biển dài 3444 km tiếp giáp với vịnh Bắc Bộ, biển Đông và vịnh Thái Lan. Tổng diện tích tự nhiên của cả nước là 331.212 km2, phần lớn diện tích đất đai sử dụng vào mục đích nông nghiệp, đáp ứng nhu cầu đời sống của nhân dân. Vì thế người dân có điều kiện trồng các loại cây có giá trị kinh tế cao. Lúa là cây trồng cổ truyền của Việt Nam và là cây trồng quan trọng nhất hiện nay, vì diện tích gieo trồng lúa chiếm tới 61% diện tích trồng trọt cả nước và 80% nông dân Việt Nam là nông dân trồng lúa. Gạo là lương thực thiết yếu hàng đầu của người Việt Nam vì hằng ngày 100% dân số Việt Nam không ai là không ăn gạo từ người có thu nhập thấp đến người có thu nhập cao, từ nông thôn tới thành thị. SVTH: Nguyễn Thị Nhung - Lớp: K42A Kinh tế nông nghiệp 14 Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Hồ Tú Linh Chính vì tầm quan trọng của lúa gạo, thời gian qua Chính phủ Việt Nam luôn luôn đặt phát triển lúa gạo là nhiệm vụ trung tâm của phát triển nông nghiệp. Nhìn lại hơn 20 năm qua, sản xuất lúa ở Việt Nam đã có những thành tựu đặc biệt ấn tượng, mà dấu mốc là lịch sử là năm 1989, lần đầu tiên Việt Nam - một nước thiếu lương thực - trở thành nước xuất khẩu lúa gạo với số lượng lên đến 1 triệu tấn và sau đó, từ 1990 đến 2011 sản lượng lúa từ 19 triệu tấn tăng lên 42 triệu tấn, xuất khẩu gạo từ 1,6 triệu tấn tăng lên 7,3 triệu tấn…Từ những năm 2002 trở lại đây, năng suất lúa bình quân của Việt Nam luôn dẫn đầu các nước ASEAN và ít nhất trên nửa triệu ha lúa ở nước ta đạt năng suất trên 7 tấn/ha trong vụ Đông Xuân mức năng suất lúa tiên tiến của thế giới hiện nay. Cụ thể tình hình sản xuất lúa gạo của Việt Nam từ năm 2001- 2011 được thể hiện qua Bảng 1. Qua Bảng 1 ta thấy: Từ năm 2001 đến nay thì diện tích gieo trồng lúa có sự gia tăng, từ 7492,7 nghìn ha năm 2001 lên đến 7700,0 nghìn ha vào năm 2011. Như vậy diện tích trồng lúa qua 11 năm đã có sự gia tăng nhưng không mạnh (chỉ tăng 207,3 nghìn ha). Bảng 1: Diện tích, năng suất, sản lượng lúa gạo Việt Nam từ 2001-2011 Diện tích (nghìn ha) Năm Tổng số Lúa Lúa Đông Hè xuân thu Sản lượng (nghìn tấn) Lúa Tổng mùa số Lúa Lúa Đông Hè Xuân Thu Năng Lúa Mùa suất (tấn/ ha) 2001 7492,7 3056,9 2210,8 2225,0 32108,4 15474,4 8328,4 8305,6 4,29 2002 7054,3 3033,0 2293,7 2177,6 34447,2 16719,6 9488,7 8538,9 4,59 2003 7452,2 3022,9 2320,0 2109,3 34568,8 16822,7 9400,8 8345,3 4,64 2004 7445,3 2978,5 2366,2 2100,6 36148,9 17078,0 10430,9 8640,0 4,86 2005 7329,2 2942,1 2349,3 2037,8 35832,9 17331,6 10436,2 8065,1 4,89 2006 7324,8 2995,5 2317,4 2011,9 35849,5 17588,2 9693,9 8567,4 4,89 2007 7207,4 2988,4 2203,5 2015,5 35942,7 17024,1 10140,8 8777,8 4,99 2008 7414,3 3013,1 2368,8 2032,4 38725,1 18325,5 11414,2 8985,4 5,22 2009 7429,4 3058,3 2355,8 2015,3 38983,5 18695,8 11212,3 9042,2 5,25 2010 7513,7 3086,1 2436,0 1991,6 39988,9 19218,1 11595,7 9175,1 5,32 2011 7700,0 3164,1 2496,6 2039,3 42000,0 20182,9 12179,4 9635,7 5,50 (Nguồn: Tổng cục thống kê) SVTH: Nguyễn Thị Nhung - Lớp: K42A Kinh tế nông nghiệp 15 Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Hồ Tú Linh Mặc dù vậy, sản lượng lúa qua các năm (2001-2011) lại có sự gia tăng mạnh mẽ. Cụ thể, sản lượng lúa vào năm 2001 chỉ đạt 32108,4 nghìn tấn, đến năm 2011 đạt con số kỷ lục là 42000,0 nghìn tấn. Và sản lượng lúa của các vụ cũng có sự khác nhau rõ rệt, điều này được thể hiện ở Biểu đồ 1. Biểu đồ 1 cho thấy vụ Đông xuân năm nào cũng có sản lượng lớn nhất, có thể nói là gần gấp đôi sản lượng hai vụ còn lại. Năm 2001 sản lượng vụ Đông xuân là 15475,4 nghìn tấn, vụ Hè thu là 8328,4 nghìn tấn, vụ Mùa là 8305,6 nghìn tấn. Năm 2011 sản lượng vụ Đông Xuân là 20182,9 nghìn tấn, vụ Hè thu là 12179,4 nghìn tấn, vụ Mùa là 9635,7 nghìn tấn. Sản lượng (nghìn tấn) 25000 20000 Lúa Đông Xuân Lúa Hè Thu Lúa Mùa 15000 10000 5000 0 Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010 Năm 2011 Biểu đồ 1: Sản lượng lúa gạo Việt Nam từ 2001-2011 Cùng với sự gia tăng về diện tích và sản lượng làm cho năng suất lúa của nước ta cũng có sự gia tăng. Năm 2001 năng suất đạt 4,29 tấn/ha, tới năm 2011 năng suất tăng lên đến 5,50 tấn/ha. 1.2.2. Tình hình sản xuất lúa ở tỉnh Nghệ An Nghệ An là một tỉnh thuộc khu vực Bắc Trung Bộ, do nằm ở phía Đông Bắc dãy Trường Sơn nên có địa hình đa dạng và phức tạp, bị chia cắt bởi các hệ thống đồi núi và sông suối. Vùng miền núi chiếm 3/4 diện tích toàn tỉnh, còn lại là vùng đồng bằng trung du. Diện tích đất tự nhiên toàn tỉnh là 1.648.728 ha, chiếm 5,01% diện tích tự nhiên cả nước, trong đó diện tích đất nông nghiệp là 195.944 ha chiếm 11,88%. Chủ yếu là loại đất phù sa, đất pha cát, đất thịt, đất feralit rất phù hợp với các loại cây trồng như lúa, màu, cây công nghiệp, cây ăn quả (cam, nhãn…). Nói chung Nghệ An là một tỉnh có nhiều điều kiện thuận lợi thích hợp cho các loại cây trồng phát triển. Để nắm được tình hình sản xuất lúa ở tỉnh Nghệ An qua 3 năm 2009-2011 ta xét Bảng 2 dưới đây. SVTH: Nguyễn Thị Nhung - Lớp: K42A Kinh tế nông nghiệp 16 Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Hồ Tú Linh Bảng 2: Diện tích, năng suất, sản lượng lúa của tỉnh Nghệ An năm 2009-2011 Chỉ tiêu ĐVT 2009 2010 2011 2010/2009 +/% 2011/2010 +/% Diện tích Nghìn ha 184,4 183,4 185,2 -1,0 -0,5 1,8 0,9 Năng suất Ta/ha 48,7 46,2 48,6 -2,5 -5,1 2,4 5,2 Sản lượng Nghìn tấn 898,8 846,4 900,0 -52,4 -5,8 53,6 6,3 (Nguồn niên giám thống kê tỉnh nghệ An, 2011) Nhìn vào Bảng 2 chúng ta thấy được: Diện tích trồng lúa năm 2009 là 184,4 nghìn ha, năm 2010 là 183,4 nghìn ha giảm 1,0 nghìn ha tương ứng giảm 0,5% so với năm 2009. Năm 2011 là 185,2 nghìn ha tăng 1,8 nghìn ha tương ứng tăng 0,9% so với năm 2010. Điều này được thể hiện rõ tại Biểu đồ 2. Diện tích (Nghìn ha) 185,5 185,2 185 184,5 184,4 184 183,4 183,5 183 182,5 Năm 2009 Năm 2010 Năm 2011 Biểu đồ 2: Diện tích lúa của tỉnh Nghệ An năm 2009 - 2011 Sản lượng lúa của tỉnh qua 3 năm (2009-2011) có nhiều thay đổi. Sản lượng lúa năm 2009 là 898,8 nghìn tấn, năm 2010 là 846,4 nghìn tấn, giảm 52,4 nghìn tấn tương ứng giảm 5,8% so với năm 2009. Đến năm 2011, sản lượng lúa là 900,0 nghìn tấn tăng 53,6 nghìn tấn tương ứng tăng 6,3% so với năm trước. Diện tích, sản lượng thay đổi làm cho năng suất lúa qua 3 năm (2009-2011) cũng có nhiều biến động. Năm 2009 năng suất lúa là 48,7 tạ/ha, năm 2010 là 46.2 tạ/ha giảm 2,5 tạ/ha tương ứng giảm 5,1% so với năm. Năm 2011, năng suất lúa là 48,6 ta/ha tăng 2,4 tạ/ha tương ứng tăng 5,2% so với năm 2010. Đây là một điều đáng mừng cho người dân trồng lúa ở tỉnh Nghệ An. Nói tóm lại tình hình sản xuất lúa của tỉnh Nghệ An trong những năm gần đây đã có nhiều tiến bộ vượt bậc trong cách quản lý của chính quyền cũng như trong cách thức sản xuất của người dân. Cho nên đã đem lại nhiều kết quả bất ngờ, giúp đời sống người dân trồng lúa nói riêng và người dân của tỉnh nói chung ngày một đi lên. SVTH: Nguyễn Thị Nhung - Lớp: K42A Kinh tế nông nghiệp 17 Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Hồ Tú Linh 1.2.3. Tình hình sản xuất lúa ở huyện Tân Kỳ Tân Kỳ một huyện miền núi thấp thuộc vùng Tây Bắc tỉnh Nghệ An, là huyện có nhiều điều kiện tự nhiên thuận lợi cho cây trồng phát triển đặc biệt là cây lúa. Người dân ở đây đều là những người có nguồn gốc thuần nông, có truyền thống trồng lúa từ lâu đời. Tân Kỳ có diện tích tự nhiên là 72.821 ha đứng thứ 9 trong 19 huyện của tỉnh Nghệ An, nằm trên trục đường chiến lược đường Hồ Chí Minh, giao điểm của các tuyến giao thông Bắc-Nam, Đông-Tây, đầu mối của quốc lộ 48 nối đường Hồ Chí Minh, 15A, 15B, 545, đường trại Lạt-Cây Chanh. Với những tiềm năng về vị trí như vậy đã kéo theo không những hoạt động sản xuất lúa phát triển mà các hoạt động kinh tế khác của huyện như Hợp tác xã gạch ngói Cừa, các khu khai thác đá… cũng phát triển mạnh. Nhìn vào số liệu ở Bảng 4 ta thấy: Diện tích, năng suất, sản lượng của huyện không có nhiều biến động. So với những năm trước thì diện tích tính đến năm 2011 có xu hướng gia tăng. Cụ thể là 7228 ha trong đó thì diện tích đất vụ Đông Xuân là: 3683ha, vụ Mùa là 3545ha. Bảng 3: Diện tích, năng suất, sản lượng lúa của huyện Tân Kỳ Năm 2009-2011 Chỉ tiêu 2010/2009 2011/2010 +/- % +/- % 7228 350 5,5 554 8,3 95 8,3 10,3 6,5 7,3 ĐVT 2009 2010 2011 Diện tích Ha 6324 6674 Năng suất Tạ/ha 80,2 88,5 Sản lượng Tấn 26038 30181,6 34535 4143,6 15,9 4353,4 14,4 Diện tích Ha 3304 3554 3683 250 7,6 129 3,6 Năng suất Tạ/ha 55,8 59,2 61,2 3,4 6,1 2 3,4 Sản lượng Tấn 18436 21040 22540 2604 14,1 1500 7,1 Diện tích Ha 3020 3120 3545 100 3,3 425 13,6 Năng suất Tạ/ha 25 29,3 33,8 4,3 17,2 4,5 15,4 Sản lượng Tấn 7602 9141,6 Lúa cả năm Vụ Đông Xuân Vụ mùa 11995 1539,6 20,3 2853,4 31,2 (Nguồn: Phòng NN & PTNT huyện Tân Kỳ) SVTH: Nguyễn Thị Nhung - Lớp: K42A Kinh tế nông nghiệp 18 Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Hồ Tú Linh Cùng với việc diện tích có chiều hướng tăng lên thì sản lượng cũng gia tăng, năm 2010 sản lượng là 30181,6 tấn tăng 4143,6 ha tương ứng tăng 15,9% so với năm 2009. Năm 2011 sản lượng là 34535 tấn tăng 4353,4 tương ứng tăng 14,4 % so với năm 2010. 70 Năng suất (tạ/ha) 60 55,8 59,2 61,2 50 40 29,3 30 33,8 25 Vụ Đông Xuân Vụ mùa 20 10 0 Năm 2009 Năm 2010 Năm 2011 Biểu đồ 3: Năng suất lúa vụ Đông Xuân và vụ Mùa trong giai đoạn 2009-2011 Do diện tích cùng sản lượng tăng nên năng suất lúa của huyện 3 năm trở lại đây cũng tăng lên đáng kể. Điều này được thể hiện rõ tại biêu đồ 2: Năm 2010 năng suất là 88,5 tạ/ha tăng 8,3 tạ/ha tương ứng tăng 10,3% so với năm 2009. Năm 2011 năng suất là 95 tạ/ha tăng 6,5 tạ/ha tương ứng tăng 7,3 % so với năm 2010. Năng suất lúa không những thay đổi qua các năm mà còn khác nhau giữa hai vụ. Nhìn vào biểu đồ thì ta thấy được là vụ Đông xuân thì năng suất lúa cao hơn vụ Mùa, cao hơn gấp đôi. Cụ thể, năm 2009 năng suất vụ Đông Xuân là 55,8 tạ/ha, vụ mùa là 25 tạ/ha. Năm 2011 năng suất lúa vụ Đông Xuân là 61,2 tạ/ha còn vụ Mùa chỉ có 33,8 tạ/ha. SVTH: Nguyễn Thị Nhung - Lớp: K42A Kinh tế nông nghiệp 19 Khóa luận tốt nghiệp GVHD: ThS. Hồ Tú Linh CHƯƠNG II ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ KINH TẾ CỦA HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT LÚA TẠI XÃ NGHĨA ĐỒNG, HUYỆN TÂN KỲ, TỈNH NGHỆ AN 2.1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN-KINH TẾ-XÃ HỘI CỦA XÃ NGHĨA ĐỒNG 2.1.1. Điều kiện tự nhiên 2.1.1.1. Vị trí địa lý và địa hình * Vị trí địa lý: Xã Nghĩa Đồng, huyện Tân Kỳ, tỉnh Nghệ An là một xã trung du miền núi, người dân ở đây chủ yếu là sản xuất nông nghiệp. Với vị trí cách thành phố Vinh là 90 km bằng đường bộ về phía Bắc, cách trung tâm thị trấn Lạt là 30 km về phía Bắc. Giáp các xã khác của huyện Tân Kỳ:  Phía Đông giáp xã Ninh Bình  Phía Nam giáp xã Nghĩa Hợp  Phía Tây giáp xã Nghĩa Khánh Ngoài ra phía Bắc còn giáp xã Nghĩa Khánh của huyện Nghĩa Đàn. Xã Nghĩa Đồng tuy không phải là một xã trung tâm của huyện Tân Kỳ nhưng có vị trí thuận lợi là có tuyến đường liên tỉnh nối xã với các xã khác và nối với trung tâm của tỉnh Nghệ An là thành phố Vinh, có các cây cầu nối liền các vùng kinh tế, văn hoá, xã hội của các xã khác như là cầu Phà Sen nối với xã Nghĩa Hợp, cầu Treo nối với xã Nghĩa Bình do đó thuận lợi cho viêc phát triển giao thông đường bộ, các phương tiện giao thông có thể đi lại dễ dàng, nhất là các phương tiện phục vụ cho việc vận chuyển hàng hoá nông sản, di chuyển giữa các vùng cũng thuận tiện hơn. Cho nên rất thuận lợi cho việc phát triển kinh tế, giao lưu văn hoá xã hội giữa các vùng trong huyện cũng như các huyện khác và với trung tâm tỉnh là thành phố Vinh. * Địa hình: Xã Nghĩa Đồng là xã trung du miền núi, với hầu hết diện tích đất địa hình tương đối bằng phẳng rất thuận lợi cho phát triển nông nghiệp. Là vùng đất cao, đất SVTH: Nguyễn Thị Nhung - Lớp: K42A Kinh tế nông nghiệp 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan