Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Cái tôi thế hệ trong thơ trẻ thời kì chống mỹ cứu nước...

Tài liệu Cái tôi thế hệ trong thơ trẻ thời kì chống mỹ cứu nước

.PDF
81
391
63

Mô tả:

Kho¸ luËn tèt nghiÖp Vò ThÞ Th¾m – K31D Ng÷ v¨n MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài 1.1. Ngày mùng 5 tháng 8 năm 1964 đế quốc Mỹ chính thức nổ súng bắn phá miền Bắc, mở màn cho một cuộc chiến không cân sức giữa một đất nước nhỏ bé vừa trải qua cuộc kháng chiến chống Pháp với một cường quốc về kinh tế và quân sự. Một lần nữa lịch sử lại chọn Việt Nam làm người lính đi đầu, lại đặt lên đôi vai của dân tộc ta một sứ mạng trọng đại. Cả đất nước một lần nữa lại ra trận với hào khí của cả nghìn năm dựng nước và giữ nước. Trước tình hình đó buộc chúng ta phải phát huy cao độ không chí sức mạnh của hiện tại của thời đại mà còn phải khơi dậy sức mạnh truyền thống tinh thần hàng ngàn đời của dân tộc để tiếp sức cho cuộc chiến đấu hôm nay. Vì thế cuộc kháng chiến chống Mỹ đã trở thành cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại của dân tộc. Trong thời kì này cả đất nước như bước vào một ngày hội lớn. Mỗi người đều ý thức được vai trò và trách nhiệm của mình đối với đất nước với dân tộc. 1.2 Trước khí thế hào hùng, sục sôi của cả dân tộc, các thế hệ văn nghệ sĩ thời kì này đã phát huy hết khả năng của mình để mỗi văn nghệ sĩ thực sự là một chiến sĩ, thơ ca vì thế cũng mà trở thành vũ khí sắc bén tấn công kẻ thù. Nền thơ hiện đại nóng bỏng tính thời đại, hừng hực tinh thần chiến đấu của chúng ta đã nhập cuộc tham gia vào cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại của toàn dân tộc. Các thế hệ nhà thơ đã dàn quân bên các mặt trận với cảm hứng chủ đạo là thể hiện khát vọng độc lập tự do và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam trong thời đại chống Mỹ. Đáp ứng yêu cầu của thời đại, văn học đã làm tròn sứ mạng của mình là phản ánh lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc và đã dành được nhiều thắng lợi to lớn đặc biệt là ở lĩnh vực thơ ca. Thời kì này thơ được coi là binh 1 Kho¸ luËn tèt nghiÖp Vò ThÞ Th¾m – K31D Ng÷ v¨n chủng mũi nhọn có tính xung kích, lên tiếng kịp thời trước mọi biến cố của lịch sử. Dân tộc ta vốn có truyền thống yêu thơ nhưng có thể nói “lịch sử thơ ca chưa bao giờ biết đến một thời kì nào mà thơ lại có một đời sống phong phú và sôi nổi đến thế”. Thơ có mặt ở khắp nơi: trên chiến hào đánh giặc, trên ba lô hành quân ra trận. Thơ ca đã bám sát hiện thực và phản ánh kịp thời những bước đi lớn của đất nước, phản ánh tinh thần chiến đấu dũng cảm và sự hy sinh quên mình vì sự nghiệp giải phóng dân tộc của quân và dân Việt Nam anh hùng. Thơ đã ghi lại được nhiều hình ảnh về đất nước và con người trong những năm tháng không thể nào quên. Thơ đã làm sống lại lịch sử bốn nghìn năm oai hùng của dân tộc, làm cho truyền thống dựng nước và giữ nước của cha ông đồng hiện cùng với những chiến công thời hiện tại, cổ vũ và tham gia tích cực vào cuộc chiến đấu chống bọn xâm lược Mỹ. Có thể nói chưa bao giờ sức mạnh truyền thống lại được khơi dậy và phát huy mạnh mẽ như trong giai đoạn này. Tuy nhiên, cách nhìn, cách nghĩ cách cảm nhận về cuộc chiến tranh vẫn chưa đáp ứng yêu cầu của thời đại, bức tranh toàn cảnh về cuộc kháng chiến chống Mỹ trong thơ vẫn thiếu đi một mảng quan trọng. Và chính sự xuất hiện của các nhà thơ trẻ thời kì này đã bổ sung cho những thiếu hụt ấy. Vậy sự thiếu hụt ấy là gì? Để trả lời cho câu hỏi này chúng tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Cái tôi thế hệ” trong thơ trẻ thời kì chống Mỹ cứu nước. 2. Lịch sử vấn đề 2.1. Lịch sử vấn đề nghiên cứu thơ trẻ chống Mỹ cứu nước Thơ trẻ thời kì chống Mỹ cứu nước là một hiện tượng rất đáng chú ý của Văn học hiện đại Việt Nam, đánh dấu sự xuất hiện trưởng thành của một thế hệ nhà thơ và bước phát triển mới của cả nền thơ chống Mỹ. Khi đánh giá về thơ trong cao trào thơ chống Mỹ cứu nước, báo cáo của Ban chấp hành hội liên hiệp Văn học nghệ thuật tại Đại hội văn nghệ lần IV đã 2 Kho¸ luËn tèt nghiÖp Vò ThÞ Th¾m – K31D Ng÷ v¨n khẳng định: “Sáng tác thơ vẫn rất phong phú, thơ trữ tình ngày càng đa dạng. Có những bài phần lớn là của anh chị trẻ nói lên cụ thể sinh động và tình tứ cuộc chiến đấu và sản xuất muôn vẻ” [20, 65]. Các sáng tác của họ đã góp phần khẳng định thành công của cả nền thơ. Từ những năm 70 của thế kỉ XX, thơ trẻ đã thu hút được sự quan tâm của độc giả và các nhà nghiên cứu trong cả nước. Các công trình nghiên cứu ấy đã chứng tỏ vai trò quan trọng của thơ trẻ đối với tiến trình phát triển của thơ ca hiện đại Việt Nam. Trong “Văn học Việt Nam chống Mỹ cứu nước”, tác giả Vũ Tuấn Anh đã nhận định: “Thơ trẻ chống Mỹ cứu nước đã ghi nhận một chặng đường phát triển quan trọng của thơ ca”[60]. Thơ đã tự vượt mình, gắng vươn lên xứng đáng với tầm vóc của dân tộc và thời đại, cố gắng đi song song với những bước đi kì vĩ của lịch sử. Thơ chống Mỹ đã sáng tạo nên những vẻ đẹp mới cho thơ ca dân tộc về cả nội dung lẫn hình thức nghệ thuật. Thơ chống Mỹ đã hoàn thành sứ mệnh vẻ vang của một nền thơ chiến đấu, là tiếng nói tâm tình, thơ đồng thời là công cụ nhận thức là tiếng kèn xung trận và người cổ vũ dẫn đường. Bàn về những đóng góp của thơ trẻ đối với nền thơ hiện đại Việt Nam, nhà nghiên cứu Hoàng Kim Ngọc đã cho rằng: “Thơ trẻ thời kì chống Mỹ mặc dù còn có nhiều hạn chế, non nớt nhưng với nhứng đóng góp to lớn của nó xứng đáng là một hiện tượng độc đáo một đi không trở lại trong lịch sử văn học dân tộc” [14, 122]. Còn theo tiến sĩ Mai Hương thì: “Thực tế các nhà thơ trẻ đã mang đến cho thơ chống Mỹ tiếng nói đặc sắc của lứa tuổi trẻ mà nhiều thế hệ nhà thơ trước không thể nói thay được” [8, 92]. Với sức trẻ và sự nhạy cảm tinh tế trong cách nhìn nhận, khám phá hiện thực, các nhà thơ trẻ dễ dàng phát hiện ra chất thơ ngay trong sự bộn bề của cuộc chiến đấu để thấy được “Giữa chiến trường nghe tiếng bom rất nhỏ”. Ở đây thơ đúng là tiếng vọng 3 Kho¸ luËn tèt nghiÖp Vò ThÞ Th¾m – K31D Ng÷ v¨n tâm tình của tuổi trẻ cầm súng. Qua cách cảm nhận của các nhà thơ trẻ cuộc sống chiến trận hiện lên trong tất cả dáng vẻ sinh động và thật nhất, với những chi tiết đắt giá nhất mà chỉ trải qua đời lính mới có được. Mặc dù nằm trong dòng chảy chung của cả nền thơ chống Mỹ nhưng thế hệ trẻ đã vươn mình và khẳng định vị trí, vai trò của riêng thế hệ mình. Trong bài viết của mình nhà nghiên cứu Mã Giang Lân cũng đã nhận xét: “Thơ chống Mỹ cứu nước cũng chỉ là một mảng trong nền thơ chung nhưng lại là mảng tiêu biểu nhất, quan trọng nhất” [10, 35] Hay trong bài viết: “Thế hệ những nhà thơ trẻ thời kì chống Mỹ cứu nước”, Phó giáo sư, tiến sĩ Trần Đăng Xuyền cho rằng: “Thơ trẻ thời kì chống Mỹ cứu nước đã đóng góp cho nền thơ hiện đại Việt Nam những cây bút tiêu biểu có bản sắc và giọng điệu riêng” [16, 387]. Người đọc có thể nhận ra giọng thơ giàu chất suy tư với những cảm xúc sâu lắng, dồn nén, kết hợp hài hòa giữa vốn sống trực tiếp và vốn văn hóa của Nguyễn Khoa Điềm. Cái giọng thơ của lời nói thường, tài hoa, thông minh, tinh nghịch pha chút ngất ngưởng, ngang tàn của Phạm Tiến Duật. Có thể nhận ra một Thanh Thảo phóng khoáng, tài hoa mà giàu suy tư; một Hữu Thỉnh tinh tế, tài hoa trong cảm xúc mà giàu suy ngẫm trăn trở; một Nguyễn Duy với giọng điệu gần với ca dao, chân chất dân giã tình tứ, đôn hậu mà đằm thắm thâm trầm… Như vậy, có thể nói thơ trẻ thời kì chống Mỹ cứu nước đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng độc giả và các nhà nghiên cứu. Thành công của thơ trẻ đã góp phần quan trọng vào tiến trình phát triển của thơ hiện đại Việt Nam. 2.2 Lịch sử vấn đề nghiên cứu “Cái tôi thế hệ” trong thơ trẻ chống Mỹ cứu nước Chủ quan là đặc trưng nội dung của thơ trữ tình. Cái tôi là đơn vị biểu hiện của nội dung đó. Nó tồn tại như một yếu tố trung tâm, có thể liên kết 4 Kho¸ luËn tèt nghiÖp Vò ThÞ Th¾m – K31D Ng÷ v¨n thống nhất các yếu tố khác của thể loại như đề tài, cảm hứng tư tưởng, hình ảnh, giọng điệu… Trên thế giới đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về cái tôi trong thơ trữ tình. Theo Claude Pichois ( Văn học Pháp thế kỉ XX, Paris, 1987) thì “Cái tôi trong mọi thời đại được coi như nguồn gốc của mọi hoạt động thơ ca. Cái tôi thể hiện tính cá biệt làm nên nét độc đáo dị biệt của tác giả trữ tình”. Ở Việt Nam, từ phong trào thơ Mới đến nay, khái niệm cái tôi và cái tôi trữ tình được nhắc nhiều trong các công trình khảo cứu về thơ trữ tình. Cái tôi được nghiên cứu chủ yếu như một phạm trù mang tính lịch sử với ý nghĩa: ý thức về cá nhân. Trong “Thi nhân Việt Nam” Hoài Thanh đã cho rằng “Ngày thứ nhất chữ tôi xuất hiện trên thi đàn Việt Nam, nó thực bỡ ngỡ. Nó mang theo một quan niệm chưa thừng thấy ở xứ này: quan niệm cá nhân” [26, 8]. Chính quan niệm này đã chi phối một số yếu tố hình thức trong thơ. Giáo sư Hà Minh Đức trong Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại thì tác giả đã đi vào khai thác mối quan hệ thống nhất nhưng không đồng nhất của với cái tôi trữ tình với bản thân nhà thơ và khẳng định: cái tôi trữ tình chính là cái tôi tác giả đã được nghệ thuật hóa, lý tưởng hóa, điển hình hóa. Trần Đình Sử trong một số công trình: Thi pháp thơ Tố Hữu ( Hà Nội, 1987), Phẩm chất cái tôi trữ tình ( Tạp chí Văn học số 1/1983), chuyên đề Thi pháp học ( ĐHSPHN, 1991), Cái tôi và hình tượng thơ trữ tình (Báo văn nghệ số 9/1993), đã tiếp cận cái tôi trữ tình như một hiện tượng nghệ thuật. Coi cái tôi như bản chất tự ý thức của thể loại, vừa là hạt nhân cấu trúc của hình tượng tác giả, hình tượng nhân vật. Trong chuyên luận về Thơ trữ tình Việt Nam ( 1975- 1990) của Lê Lưu Oanh ( Đai học quốc gia Hà Nội, 1998) thì “Cái tôi là một giá trị xã hội, bởi 5 Kho¸ luËn tèt nghiÖp Vò ThÞ Th¾m – K31D Ng÷ v¨n con người phải khẳng định mình bằng tư cách kẻ sáng tạo những quan hệ xã hội và các tiêu chuẩn trong đời sống như một chủ thể hoạt động tích cực” [6]. Tính tích cực này của cái tôi từng cá thể sẽ góp phần làm biến đổi các yếu tố khác của cấu trúc xã hội. Còn khi bàn về “Cái tôi thế hệ” trong thơ trẻ chống Mỹ cứu nước, tác giả Vũ Tuấn Anh trong luận án tiến sĩ về Sự vận động của cái tôi trữ tình trong thơ Việt Nam từ 1945 đến nay ( 1995) đã cho rằng “Cái tôi sử thi dấu mình đi để nói cái ta, còn cái tôi thế hệ hiện diện như một chủ thể nhìn vào bản thân mình, và đồng thời nhận ra mình như một người trong thế hệ. Cái tôi thế hệ tự phân tích, tự biểu hiện ráo riết trong thơ: chân dung và tính cách, gian lao và hy sinh, tình yêu, tình đồng đội” [55]. “Cái tôi thế hệ” chủ yếu thuộc lớp nhà thơ trẻ vì thế hệ thích tranh luận, thích tự nói về thế hệ mìnhnhững người lính tực tiếp cầm súng nơi chiến trường với tất cả niềm tự hào và kiêu hãnh về thế hệ mình. Theo tiến sĩ Trần Đăng Xuyền thì: “Thơ trẻ thời kì chống Mỹ mang đậm sắc thái riêng của cái tôi thế hệ” [16, 370]. Đó là cái tôi tự bộc lộ mình, đại diện cho thế hệ mình- thế hệ những người trẻ tuổi ( chủ yếu là những người lính) đang tôi luyện trong ngọn lửa của chiến tranh, thực sự nếm trải những gian lao thử thách, tự nguyện đem xương máu của mình để bảo vệ quê hương đất nước. Trong bài nghiên cứu Thơ 1945 - 1975 Phó giáo sư Nguyễn Văn Long cho rằng: “Cái tôi thế hệ được thể hiện trong hình ảnh những con người cụ thể, tiêu biểu cho thế hệ ấy” [16, 132]. Có thể nói đây là đóng góp xuất sắc của thơ trẻ vào việc xây dựng hình tượng nghệ thuật về con người Việt Nam của thời đại chống Mỹ. Người đọc không thể quên chân dung của những người lính lái xe, cô gái thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn trong thơ Phạm Tiến Duật, người lính bộ binh trong thơ Nguyễn Đức Mậu Ngủ rừng 6 Kho¸ luËn tèt nghiÖp Vò ThÞ Th¾m – K31D Ng÷ v¨n theo đội hình đánh giặc cùng với sự hy sinh và tình đồng đội của họ trong Nấm mộ và cây trầm, người chiến sĩ giải phóng hy sinh tư thế nổ súng tiến công trong thơ Lê Anh Xuân, chân dung những người lính lái xe tăng, xạ thủ trung liên trong thơ Hữu Thỉnh, và còn bao nhiêu hình ảnh khác vẫn còn lưu lại trong thơ và trong lòng người đọc. Có thể coi ý kiến của các nhà nghiên cứu về vấn đề thơ trẻ chống Mỹ và cái tôi cũng như “cái tôi thế hệ” trong thơ như một định hướng quan trọng để chúng tôi đi vào khai thác, tìm hiểu đề tài “Cái tôi thế hệ” trong thơ trẻ thời kì chống Mỹ cứu nước . 3. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu, tìm hiểu “Cái tôi thế hệ” trong thơ trẻ thời kì chống Mỹ cứu nước” sẽ giúp cho việc khẳng định những đóng góp của thơ trẻ đối với tiến trình phát triển của thơ hiện đại Việt Nam. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đề tài khóa luận đặt ra vấn đề nghiên cứu về “Cái tôi thế hệ” trong thơ trẻ chống Mỹ, nên chúng tôi chọn điểm xuất phát từ những vấn đề có ý nghĩa khái quát về: “Cái tôi”, “Cái tôi trữ tình”và “Cái tôi thế hệ” để từ đó đi sâu tìm hiểu sự thể hiện của Cái tôi thế hệ ở cả phương diện nội dung và hình thức trong thơ của một số nhà thơ trẻ tiêu biểu Phạm Tiến Duật, Nguyễn Khoa Điềm, Hữu Thỉnh, Thanh Thảo. Song khi cần thiết có thể mở rộng tìm hiểu thêm một số nhà thơ khác. 5. Phương pháp nghiên cứu Để nghiên cứu và tìm hiểu đề tài: “Cái tôi thế hệ” trong thơ trẻ thời kì chống Mỹ cứu nước, chúng tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau: Phương pháp hệ thống Phương pháp phân tích, bình giảng Phương pháp so sánh đối chiếu 7 Kho¸ luËn tèt nghiÖp Vò ThÞ Th¾m – K31D Ng÷ v¨n Phương pháp thống kê 6. Đóng góp của khóa luận Khóa luận giúp cho việc tìm hiểu những đặc điểm cơ bản của “Cái tôi thế hệ” trong thơ trẻ thời kì chống Mỹ cứu nước đồng thời góp phần định hướng trong việc giảng dạy một số tác phẩm của các nhà thơ trẻ thời kì này ở trường Phổ thông. 7. Cấu trúc khóa luận Ngoài phần mở đầu kết luận và tài liệu tham khảo, khóa luận gồm ba chương: Chương 1: Những vấn đề chung. Chương 2: Sự thể hiện của “Cái tôi thế hệ” trong thơ trẻ thời kì chống Mỹ cứu nước. Chương 3: Hình thức nghệ thuật biểu hiện của “Cái tôi thế hệ” trong thơ trẻ thời kì chống Mỹ cứu nước. 8 Kho¸ luËn tèt nghiÖp Vò ThÞ Th¾m – K31D Ng÷ v¨n NỘI DUNG CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG 1.1 Cơ sở lý luận 1.1.1. Khái niệm về “cái tôi” và “ cái tôi trữ tình” 1.1.1.1. Khái niệm về “cái tôi” Về thực chất cái tôi là một khái niệm triết học. Nó đánh dấu ý thức đầu tiên của con người về bản thể tồn tại để nhận ra mình là một con người khác với tự nhiên, là một cá thể khác với người khác. Các nhà triết học đều giải thích cái tôi như là căn nguyên có tính quan niệm, là khởi điểm để xây dựng các hệ thống triết học duy tâm của mình. Theo Đêcac ( 1596 – 1650 ) “Cái tôi hiện ra như một cái thuộc về thực tế biết tư duy, như căn nguyên của nhận thức duy lí”, và do đó cái tôi khẳng định tính độc lập của mình với định nghĩa nổi tiếng: “ Tôi tư duy tức là tôi tồn tại” (dẫn theo Lê Lưu Oanh). Chủ nghĩa duy ngã của Phichtê ( 1762- 1814 ) cho rằng “Cái tôi là thực thể là căn nguyên sáng tạo tuyệt đối, là thực tại duy nhất” ( dẫn theo Lê Lưu Oanh). Theo Becxông (1859- 1914 ) khi nhấn mạnh đời sống bên trong của cá nhân đã chú ý cái tôi thuần túy ý thức. Theo ông con người có hai cái tôi “Cái tôi bề mặt và cái tôi bề sâu. Cái tôi bề mặt là các quan hệ của con người đối với xã hội. Còn cái tôi bề sâu là phần sâu thẳm của ý thức. Đó mới chính là đối tượng của nghệ thuật” (dẫn theo Vũ Tuấn Anh). Các quan điểm duy tâm về cái tôi đã khẳng định “Cái tôi là phương diện trung tâm của tinh thần con người là cốt lõi của ý thức có khả năng chi phối hoạt động và là sự khẳng định nhân cách con người trong thế giới” ( dẫn theo Vũ Tuấn Anh). 9 Kho¸ luËn tèt nghiÖp Vò ThÞ Th¾m – K31D Ng÷ v¨n Còn theo triết học Mác - Lênin thì “Cái tôi là trung tâm tinh thần của con người có quan hệ tích cực đối với thế giới và với chính bản thân mình. Chỉ có con người độc lập kiểm soát những hành vi của mình và có khả năng thể hiện tính chủ động toàn diện mới có cái tôi của mình” [ 21, 233]. Như vậy, các quan niệm về cái tôi gắn liền với các hình thái và phát triển xã hội nhất định, thể hiện các bước tiến hóa của nhận thức về con người và sự phong phú đa dạng của tư duy con người về chính bản thân mình. 1.1.1.2. Khái niệm về “cái tôi trữ tình” Nếu như trong đời sống mọi hành vi của con người đều là kết quả của sự định hướng và chi phối của cái tôi, thì trong nghệ thuật, tác phẩm nghệ thuật với tư cách là sản phẩm của hoạt động nghệ thuật cũng là kết quả của cái tôi nghệ thuật, một chất lượng khác của cái tôi đời sống. Do đặc thù của từng loại hình nghệ thuật mà cái tôi nghệ thuật này bộc lộ trực tiếp hoặc gián tiếp. Trong tác phẩm tự sự cái tôi nghệ thuật bộc lộ gián tiếp qua những hình tượng khách quan. Còn trong tác phẩm trữ tình nó bộc lộ một cách trực tiếp đó chính là cái tôi trữ tình. Cái tôi trữ tình là một giá trị cụ thể của cái tôi nghệ thuật, nó là sự tự ý thức của cái tôi trong nghệ thuật, cái tôi của hành vi sáng tạo, là quan niệm về cái tôi được thể hiện thông qua phương tiện trữ tình. Cái tôi trữ tình được biểu hiện tập trung nhất trong các tác phẩm thơ trữ tình. Thường cái tôi trữ tình được người đọc hiểu là tác giả. Khi ấy người đọc đã đồng nhất cái hình ảnh mà tác giả hiện lên trong tác phẩm trữ tình với tác giả là con người trong đời sống xã hội. Thực chất giữa cái tôi trữ tình và cái tôi tác giả có sự thống nhất nhưng không đồng nhất. Cái tôi trữ tình bao giờ cũng mang dấu ấn tâm hồn nhân cách, tính cách của người nghệ sĩ mang lập trường sự nhìn nhận và đánh giá của tác giả. Nó là một cái tôi được sáng tạo vừa để thể hiện con người tác giả vừa để thể hiện những vấn đề khái quát không nằm trong phạm vi nhỏ hẹp của cái tôi tác giả. Nó là quá trình tổng hợp 10 Kho¸ luËn tèt nghiÖp Vò ThÞ Th¾m – K31D Ng÷ v¨n các trải nghiệm và sự điển hình hóa nghệ thuật của nhà thơ. Nhờ đó cái tôi trữ tình hiện lên trong thơ như một con người có đường nét, có cuộc đời mang số phận cá nhân xác định hay có cả thế giới nội tâm cụ thể đôi khi chỉ là nét vẽ chân dung. Như vậy có thể nói cái tôi trữ tình như là một nhân tố khởi sự và hoàn tất của sáng tạo trữ tình. Đó vừa là một cách nhìn và cảm nhận thế giới của chủ thể lại vừa là một điểm nhìn nghệ thuật của chủ thể, đồng thời đóng vai trò sáng tạo, tổ chức các phương tiện nghệ thuật trữ tình. Bởi thế có thể xác định cái tôi trữ tình như sau: “Cái tôi trữ tình là sự thể hiện một cách nhận thức và cảm xúc đối với thế giới và con người thông qua lăng kính cá nhân của chủ thể và thông qua việc tổ chức các phương tiện của thơ trữ tình, tạo ra một thế giới tinh thần riêng biệt độc đáo, mang tính thẩm mỹ, nhằm truyền đạt năng lượng tinh thần ấy đến cho người đọc” [1, 20]. Cái tôi trữ tình là một tập hợp của rất nhiều quan hệ trong mối quan hệ với chính nó, với cấu trúc tác phẩm. Mỗi cái tôi là một giới hạn tiếp xúc với đời sống. Vì vậy căn cứ vào các tiêu chí khác nhau có thể phân loại cái tôi trữ tình như sau: Theo phương pháp sáng tác: Cái tôi trữ tình cổ điển, cái tôi lãng mạn, cái tôi hiện thực… Theo cấu trúc nhân cách: Cái tôi cá nhân, cái tôi xã hội, cái tôi tâm lí, cái tôi hành động… Theo phạm trù tinh thần: Cái tôi đạo đức, cái tôi chính trị, cái tôi nghệ sĩ… Theo loại hình nội dung: Cái tôi sử thi, cái tôi thế sự, cái tôi đời tư...[22, 57]. 1.1.2. Cái tôi trữ tình trong thơ trẻ thời kì chống Mỹ cứu nước Cái tôi trữ tình trong thơ chống Mỹ là sự tiếp nối phẩm chất trữ tình giai đoạn trước và phát triển trong hoàn cảnh mới. Sự bộn bề căng mở của dung 11 Kho¸ luËn tèt nghiÖp Vò ThÞ Th¾m – K31D Ng÷ v¨n lượng hiện thực trong thơ trẻ thời kì chống Mỹ dù nó chứa đựng nhiều phẩm chất mới mẻ của thơ hiện đại trong xu thế tiếp cận đời sống, song xét đến cùng nó chỉ là bệ phóng của cảm xúc. Không chiếm lĩnh được cảm xúc, nói rõ hơn là không chiếm lĩnh được những đặc điểm của cái tôi trữ tình trong thơ trẻ thời kì này thì người nghiên cứu rất khó đột phá vào thế giới sáng tạo của thơ ca hoặc chỉ như một vị khách xa lạ chỉ biết dừng chân nơi ngưỡng cửa. Song cái tôi trữ tình trong thơ trẻ thời kì chống Mỹ là một đối tượng phong phú, phức tạp, không tĩnh tại mà luôn vận động. Nó là một chặng phát triển của thơ ca Việt Nam hiện đại, vừa tiếp nối vừa có những đứt gãy so với giai đoạn trước nó, đúng với quy luật tiếp biến văn hóa không dễ nắm bắt. Tuy nhiên trong giới hạn và phạm vi của đề tài, chúng tôi chỉ đi vào một số đặc điểm nổi bật làm cơ sở cho việc nhận diện và khai thác vấn đề “Cái tôi thế hệ” trong thơ trẻ thời kì chống Mỹ cứu nước. 1.1.2.1. Khái niệm “thơ trẻ thời kì chống Mỹ cứu nước” Trong tiến trình phát triển của thơ ca Việt Nam hiện đại, thơ ca thời kì chống Mỹ cứu nước đã có một vị trí quan trọng, nó góp phần hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình trong việc ghi lại hiện thực cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại của dân tộc. Người ta sẽ không thể hình dung một cách đầy đủ diện mạo và đóng góp to lớn của nền thơ chống Mỹ nếu thiếu vắng mảng thơ của các cây bút trẻ xuất hiện ở thời kì này. Khái niệm “Thơ trẻ thời kì chống Mỹ cứu nước được dùng để chỉ thơ của các cây bút có tuổi đời và đặc biệt tuổi nghề còn rất trẻ, xuất hiện trong thời kì chống Mỹ. Đây là thời kì mà họ có những tác phẩm đã gây được sự chú ý khẳng định tài năng và dấu ấn của mình trên thi đàn” [16, 345]. Những năm kháng chiến chống Mỹ, thế hệ trẻ đã bước vào cuộc chiến tranh ái quốc của dân tộc trong khí thế hào hùng của cả nước. Họ lại hát tiếp bài ca ra trận của thế hệ đàn anh với niềm tự hào “Đường ra trận mùa này đẹp 12 Kho¸ luËn tèt nghiÖp Vò ThÞ Th¾m – K31D Ng÷ v¨n lắm” (Phạm Tiến Duật). Có thể nói chất trữ tình – sử thi vẫn là âm điệu chủ đạo trong những vần thơ vào trận này. Song không thể phủ nhận một thực tế là trong quá trình sáp mặt với kẻ thù, trực tiếp cầm súng, trực tiếp xông vào nơi mưa bom bão đạn, những nhà thơ chiến sĩ trẻ thuộc thế hệ chống Mỹ đã cảm nhận hiện thực chiến tranh bằng kinh nghiệm của người trong cuộc. Thơ phần nào tách khỏi âm vực cao vút của giọng sử thi, cái tôi trữ tình lúc này tìm một giọng nói khác, một cách thể hiện khác trong thơ của thế hệ mình. Vì vậy, bên cạnh tiếng nói của cái tôi sử thi, thơ chống Mỹ xuất hiện tiếng nói của thế hệ trẻ - của “cái tôi thế hệ”. 1.1.3.2. Khái niệm “cái tôi sử thi” Khi bàn về khái niệm sử thi M.M Bakhtin rất chú ý đến nội dung sử thi và khoảng cách sử thi. Tác phẩm sử thi ít quan tâm đến đời thường, đời tư. Nó thường hướng tới quá khứ hào hùng của cộng đồng với một khoảng cách xa để mê say, chiêm ngưỡng, bái vọng. Nó không kể về câu chuyện cùng thời mà kể về câu chuyện đã hoàn tất, đã xong xuôi. Văn học Việt Nam thời kì chống Mỹ mang đậm tính sử thi, song không phải là sử thi cổ đại mà là sử thi hiện đại với nhiều tố chất riêng độc đáo: nó tuyệt đối hóa, lí tưởng hóa một câu chuyện cùng thời, kể câu chuyện cùng thời bằng thái độ chiêm ngưỡng từ xa. Cuộc kháng chiến chống Mỹ là cuộc kháng chiến mang tính nhân loại sâu sắc trong lịch sử dân tộc. Chính vì thế cái tôi sử thi mang một tư thế mới, một tầm vóc mới. Cái tôi sử thi thời kì này đại diện cho tiếng nói của dân tộc, của lương tri, của nhân loại để vạch mặt, để lên án, chất vấn, truy kích kẻ thù trước những âm mưu và tội ác của chúng. Tư thế của cái tôi sử thi cho nhà thơ có thế đứng ở đỉnh cao để phát ngôn cho cả dân tộc, đất nước, nhân dân, để bao quát cả không gian và thời gian, lịch sử và hiện tại, dân tộc và nhân loại, 13 Kho¸ luËn tèt nghiÖp Vò ThÞ Th¾m – K31D Ng÷ v¨n quá khứ và tương lai để mà phát hiện, suy ngẫm, hình dung, dự đoán về mọi vấn đề hệ trọng lớn lao của vận mệnh đất nước, lịch sử dân tộc. Bàn về thơ trẻ thời kì chống Mỹ cứu nước không thể phủ nhận công lao đóng góp mở hướng của các thi sĩ đàn anh như Tố Hữu, Chế Lan Viên, Xuân Diệu, Huy Cận… nổi tiếng một thời, đến thời kì này vẫn là những lão tướng sung sức và ngày càng tỏ ra dồi dào năng lực sáng tạo. Thế hệ thi sĩ đàn anh đã từng đạt tới một nhãn quan lịch sử sâu sắc, một chiêm nghiệm triết học thâm trầm, đẩy cái tôi trữ tình công dân thời chống Pháp lên cái tôi nhân danh dân tộc và thời đại. Thế hệ thơ trẻ lại có lợi thế sức trẻ nhiều người là đứa con sinh ra ngay trong lòng chế độ mới, đến với chiến trường từ sân trường. Họ không chỉ mang tấm lòng yêu nước và truyền thống anh hùng vào trận mà còn mang luôn cả tri thức sách vở dồi dào và một tâm hồn trẻ trung nhạy cảm, dạt dào cảm xúc. 1.1.3.3.Cái tôi thế hệ Có thể nói, mỗi thế hệ các nhà thơ đều có cách thể hiện riêng về thế hệ mình. Hiểu như vậy thì khái niệm “Cái tôi thế hệ” được nói ở đây được nhìn nhận ở quan niệm rộng. Theo quan niệm hẹp, “Cái tôi thế hệ” là một dạng thức, một biến thể độc đáo của cái tôi sử thi “Cái tôi thế hệ là sự tổng hợp ở cấp độ quan niệm cái tôi sử thi - cái tôi tuổi trẻ - cái tôi người lính” [1, 60]. Nhìn ở phương diện đội ngũ, cái tôi thế hệ chủ yếu thuộc về lớp nhà thơ trẻ. “Cái tôi thế hệ” thể hiện một cách nhìn, cách cảm của một thế hệ mới. Với vốn tri thức dồi dào lại được nhào luyện trong thực tế nóng bỏng của cuộc chiến đấu, được bồi dưỡng sâu sắc về lí tưởng. Vì thế thơ của các nhà thơ trẻ là tiếng nói tự ý thức, tự biểu hiện của thế hệ trẻ tự nguyện nhập cuộc và được trải nghiệm qua thử thách của chiến tranh. Mỗi nhà thơ trong số họ đều ý thức rõ ràng về thế hệ mình và về tính chất đại diện cho tiếng nói thế hệ của thơ mình. Bởi thế cái tôi 14 Kho¸ luËn tèt nghiÖp Vò ThÞ Th¾m – K31D Ng÷ v¨n trữ tình trong thơ họ là “cái tôi thế hệ”. Họ thấu hiểu trách nhiệm và sứ mệnh của thế hệ mình: Cả thế hệ dàn hàng gánh đất nước trên vai. ( Bằng Việt ) Họ cũng ý thức về việc tự ghi lấy hình ảnh của thế hệ mình bằng văn chương: Không có sách chúng tôi làm ra sách Chúng tôi làm thơ ghi lấy cuộc đời mình. ( Hữu Thỉnh ) Như vậy, có thể thấy “cái tôi thế hệ” là sự gần gũi và tiếp nối cái tôi hành động, cái tôi hiện thực và dòng thơ đội viên thời kì chống Pháp. Tầm vóc mới của nó là sự trưởng thành ý thức của cả một thế hệ trước những vấn đề sinh tồn của dân tộc. 1. 2. Cơ sở hình thành “Cái tôi thế hệ” 1.2.1. Bối cảnh chung của đất nước Thua đau ở miền Nam, đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh ra toàn miền Bắc. Cả nước đứng lên trực tiếp đánh giặc với tinh thần; “Không có gì quý hơn độc lập tự do. Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta thì ta phải tiếp tục chiến đấu quét sạch nó đi” ( Hồ Chí Minh ). Cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại bước vào một thời kì khốc liệt, dữ dội nhất. Những năm này cả nước ngập chìm trong đạn bom, khói lửa. Miền Bắc đang tiến hành công cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh và khôi phục phát triển kinh tế với muôn vàn khó khăn tưởng chừng không thể ngẩng đầu lên được dưới hàng chục triệu tấn bom đạn của kẻ thù. Thế nhưng, nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, với truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc có từ ngàn đời vẫn vững vàng và từng bước đi lên. Nhân dân ta tiếp tục thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. 15 Kho¸ luËn tèt nghiÖp Vò ThÞ Th¾m – K31D Ng÷ v¨n Trong những ngày này, lịch sử được chứng kiến một cuộc ra quân đồng loạt chưa từng có của giới văn nghệ sĩ. Một cuộc ứng chiến kịp thời dường như cũng nổ súng cùng một lúc với pháo binh, không quân, hải quân, mà không phải bằng hình thức văn nghệ quần chúng thô sơ như hồi đầu kháng chiến chống Pháp. Đây là đội quân văn nghệ tinh nhuệ đã được rèn luyện qua hai thập kỉ. Còn nguồn cảm hứng thì đã được hun đúc từ hàng nghìn năm lịch sử chống giặc ngoại xâm. Chưa bao giờ truyền thống yêu nước, tinh thần dân tộc lại được khai thác một cách sâu sắc và đầy ý nghĩa như thế. Vì thế, mà văn học thời kì này đạt được nhiều thành tựu to lớn trong đó phải kể đến là lĩnh vực thơ ca. Thơ ca thời kì này đã thực sự trở thành vũ khí sắc bén tấn công kẻ thù, đáng chú ý là thơ của các nhà thơ trẻ. Họ đã đưa vào thơ tất cả sự bộn bề của cuộc chiến đấu bằng một giọng điệu riêng, một tiếng nói riêng đại diện cho thế hệ mình, thế hệ những người lính trực tiếp cầm súng trên chiến trường. Có thể nói bối cảnh chung của đất nước thời kì này đã tạo cho thơ có được một diện mạo phong phú và đa dạng cả về số lượng và chất lượng. Thơ trẻ cũng vì thế mà có những đóng góp quan trọng trong nền thơ hiện đại Việt Nam. 1.2.2. Sự xuất hiện của các nhà thơ trẻ Như một lẽ tất yếu trong truyền thống văn học của dân tộc, thơ cũng như mọi thể loại khác đã trở thành vũ khí tinh thần, thành sức mạnh tham gia vào cuộc chiến đấu, gắn bó với vận mệnh của dân tộc của nhân dân. Bắt nhịp với đời sống thời đại, thơ ca cách mạng chuyển từ chủ đề xây dựng sang chủ đề kháng chiến dường như là một sự vận động liên tục, tự nhiên của nền thơ. Giặc Mỹ tấn công Miền Bắc đã chạm đến tình cảm sâu xa, thiêng liêng của mỗi người Việt Nam, làm bừng dậy sức mạnh lớn lao của lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, ý chí độc lập tự do. Những tình cảm lớn lao ấy đã trở thành nguồn mạch dồi dào cho cảm hứng thơ ca. Tạm rời bỏ một số đề tài và cảm 16 Kho¸ luËn tèt nghiÖp Vò ThÞ Th¾m – K31D Ng÷ v¨n hứng về đời sống thường ngày trong hòa bình, hay những vấn đề riêng tư, thơ tập trung vào vào một hướng lớn của đề tài và chủ đề là cuộc chiến đấu chống Mỹ của cả dân tộc ở cả hai miền Nam, Bắc. Đó không chỉ là đòi hỏi của thời đại mà còn là sự thôi thúc bên trong của chính các nhà thơ. Thuộc thế hệ nhà thơ trước cách mạng và thời kì chống Pháp, Tố Hữu, Chế Lan Viên, Huy Cận… đã tập trung khám phá, phát hiện Tổ quốc trong bề rộng của không gian, trong chiều dài của thời gian, trong mối quan hệ mật thiết với lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc. Thơ của họ còn luận bàn về thời cuộc chính trị và thế bại tất yếu của kẻ thù. Thơ xông thẳng vào các sự kiện, các vấn đề nóng bỏng của cuộc chiến đấu để phân tích tìm ra câu trả lời, đem đến cho người đọc một cách nhìn, một cách hiểu. Với một cái nhìn mang tính chất vĩ mô, thơ của họ đã phản ánh được số phận, vận mệnh chung của đất nước, dân tộc, cộng đồng. Có nhà thơ còn bình luận rất thông minh, sắc sảo về sức mạnh thần kì của cuộc chiến tranh, nói tới tầm vóc thời đại và ý nghĩa nhân loại của nó. Có nhà thơ lại phản ánh cuộc ra trận hào hùng của dân tộc như những ngày “vui như trẩy hội”, “ cả nước lên đường”… Song có lẽ dường như người đọc cảm thấy nền thơ chống Mỹ vẫn thiếu hụt đi một mảng quan trọng rất cần được bổ sung đó là hiện thực đời sống chiến trường và chân dung của một thế hệ cầm súng đánh Mỹ. Người đọc vẫn khao khát mong đợi sự xuất hiện của những nhà thơ không chỉ bộc lộ cái tình đối với những người đang đổ máu ngoài tiền tuyến, làm người chứng kiến cuộc tiễn đưa hay cắm thêm những cành ngụy trang cho những đoàn quân trùng trùng ra trận mà là những nhà thơ trực tiếp cầm súng thực sự xông pha nơi hòn tên mũi đạn, từng giờ từng phút đối mặt với cái chết để nói về chiến tranh để nói về mình và đồng đội mình. Qua đó có thể thấy được gương mặt tinh thần chung của cả thế hệ trẻ cầm súng thời kì chống Mỹ. 17 Kho¸ luËn tèt nghiÖp Vò ThÞ Th¾m – K31D Ng÷ v¨n Hoàn cảnh lịch sử cụ thể đó đã dẫn tới sự hình thành xuất hiện của một lớp nhà thơ trẻ như một đòi hỏi không chỉ của dân tộc và thời đại mà còn là nhu cầu phát triển tất yếu của chính nền thơ chống Mỹ. Trong vòng mười năm (1965 – 1975) nền thơ chống Mỹ liên tiếp xuất hiện những gương mặt thơ trẻ như Phạm Tiến Duật, Xuân Quỳnh, Nguyễn Duy, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh, Nguyễn Khoa Điềm, Hoàng Nhuận Cầm… Đó là những gương mặt tiêu biểu mang đến vinh quang cho cả thế hệ thơ trẻ thời kì chống Mỹ. 1.2.3. Sự xuất hiện của “ Cái tôi thế hệ” trong thơ trẻ thời kì chống Mỹ cứu nước Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vĩ đại quả thật đã khơi dậy cảm hứng lớn cho các nhà thơ.Thuộc lớp người phần lớn sinh ra từ sau cách mạng, được trau dồi tri thức văn hóa trong nhà trường của chế độ mới, hầu hết các nhà thơ trẻ thời kì kháng chiến chống Mỹ đều từ cánh cửa nhà trường đi thẳng đến chiến trường cầm súng chiến đấu. Ngọn lửa chiến tranh cách mạng đã tôi luyện họ thành những con người vững vàng hơn trong cuộc sống và có bản lĩnh trong nghệ thuật. Lớp các nhà thơ trẻ đã đem đến sự đông vui, ồ ạt cho cả nền thơ bằng tiếng nói sôi nổi, mới mẻ và duyên dáng của riêng lứa tuổi họ, lứa tuổi lớn lên trong cái nôi của Chủ nghĩa xã hội, thiết tha tin yêu cách mạng và đang có mặt trên khắp các mặt trận sản xuất chiến đấu. Thơ đối với họ là một cách tự biểu hiện, tự ca hát. Chính từ cuộc sống từ niềm thôi thúc muốn ca hát về thực tế kì vĩ của cuộc kháng chiến cách mạng mà họ đến với thơ. Vì thế, hơn ai hết các nhà thơ trẻ thời kì này đã ý thức được vị trí vai trò của thế hệ mình và sự xuất hiện đúng lúc, kịp thời của thế hệ mình: Ta đi hôm nay đã không là sớm Đất nước hành quân mấy chục năm rồi Ta đi hôm nay cũng chưa là muộn Đất nước còn đánh giặc chưa thôi ( Phạm Tiến Duật ) 18 Kho¸ luËn tèt nghiÖp Vò ThÞ Th¾m – K31D Ng÷ v¨n Hữu Thỉnh cũng đã nhân danh thế hệ mình mà bộc bạch: Đừng viết chúng tôi như cốc chén trên bàn Xin hãy viết như dòng sông chảy xiết Và chúng tôi với chiếc bi đông bẹp dúm kia là một Cả những hòn đá kê nồi cũng có bao điều ấm lạnh liên quan. Bởi thế đây là lúc thế hệ trẻ tự bộc lộ cái tôi của mình bằng một giọng điệu riêng, một tiếng nói riêng không dễ lẫn – tiếng nói của “cái tôi thế hệ”. 19 Kho¸ luËn tèt nghiÖp Vò ThÞ Th¾m – K31D Ng÷ v¨n CHƯƠNG 2: SỰ THỂ HIỆN CỦA “CÁI TÔI THẾ HỆ” TRONG THƠ TRẺ CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC Cùng với cái tôi sử thi, cái tôi thế hệ là một dạng thức biểu hiện của cái tôi trữ tình trong thơ trẻ thời kì chống Mỹ. Đó là cái tôi đại diện cho thế hệ mình – thế hệ những người trẻ tuổi (chủ yếu là những người lính) đang tôi luyện trong ngọn lửa chiến tranh, tự nguyện đem xương máu của mình bảo vệ quê hương đất nước. 2.1. “Cái tôi thế hệ” tự ý thức 2.1.1. Khái niệm Tự ý thức là quá trình con người tự nhận thức về bản thân mình. Trong các mối quan hệ xã hội, con người phải tự ý thức về mình để từ đó có những biện pháp điều chỉnh bản thân cho phù hợp với những quy tắc và tiêu chuẩn xã hội. “Tự ý thức không chỉ là tự ý thức của cá nhân mà còn là tự ý thức của cả xã hội, của một giai cấp, một tầng lớp về địa vị của mình trong hệ thống những quan hệ sản xuất xác định, về lý tưởng lợi ích chung của xã hội mình, của giai cấp mình hay tầng lớp mình” [21, 102]. Trong thơ quá trình tự ý thức được thể hiện ở từng thời kì và từng thế hệ cụ thể. Trong thơ Mới, sự tự ý thức của cái tôi xuất phát từ việc các nhà thơ muốn tách mình ra khỏi thế giới để nhìn thế giới bằng con mắt của riêng mình. Cái tôi cá thể ấy đã tự xác nhận cho mình tư cách để quan sát, đánh giá thế giới đồng thời cũng quan sát chính bản thân mình và tự xem mình là đối tượng để nhìn ngắm, miêu tả. Do đó cái tôi Thơ mới không tránh khỏi cảm giác cô đơn, buồn chán, bi quan và tự than thở cho số phận của mình. Hành 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan