Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Chế độ thai sản theo pháp luật lao động việt nam hiện nay...

Tài liệu Chế độ thai sản theo pháp luật lao động việt nam hiện nay

.PDF
74
370
112

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGÔ PHƯƠNG ANH CHẾ ĐỘ THAI SẢN THEO PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM HIỆN NAY Chuyên ngành: Luật kinh tế Mã số : 60 38 01 07 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. TRẦN THỊ THÚY LÂM HÀ NỘI – 2017 LỜI CÁM ƠN  Để hoàn thành luận văn này, tôi chân thành gửi lời cám ơn đến: Thầy/Cô Việt Hàn Lâm Khoa Học Xã Hội Việt Nam – Học Viện Khoa Học Xã hội đã giảng dạy và truyền đạt cho tôi những kiến thức làm nền tảng cho việc thực hiện luận văn chuyên ngành luật kinh doanh này. Đặc biệt, tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS. TRẦN THỊ THÚY LÂM đã tận tình hướng dẫn, góp ý từ khâu chọn đề tài, viết đề cương sơ bộ, đến đề cương chi tiết và hoàn chỉnh luận văn giúp tôi có thể hoàn thành luận văn tốt nghiệp một cách tốt nhất. Xin chân thành cảm ơn MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỘ THAI SẢN .... 6 1.1. Khái niệm và vai trò, ý nghĩa của chế độ thai sản................................... 6 1.2. Nguyên tắc cơ bản của chế độ bảo hiểm thai sản.................................. 10 1.3. Chế độ thai sản theo quy định của tổ chức lao động quốc tế và một số quốc gia trên thế giới....................................................................................... 14 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ CHẾ ĐỘ THAI SẢN .............................................................................. 22 2.1. Đối tượng và điều kiện hưởng chế độ thai sản ........................................ 22 2.4 Thủ tục hưởng chế độ BHXH thai sản...................................................... 40 CHƯƠNG 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN CHẾ ĐỘ THAI SẢN VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHĂM NÂNG CAO HIỆU QUẢ THI HÀNH CHẾ ĐỘ THAI SẢN...................................................................................................... 49 3.1. Thực tiễn thực hiện CĐTS ....................................................................... 49 KẾT LUẬN .................................................................................................... 66 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................... 68 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT STT Nội dung từ viết tắt Ký hiệu 1. An sinh xã hội ASXH 2. Bảo hiểm thất nghiệp BHTN 3. Bảo hiểm xã hội BHXH 4. Bảo hiểm y tế BHYT 5. Bộ lao động Thương binh Xã hội 6. Chính phủ 7. Chế độ thai sản 8. Chế độ bảo hiểm xã hội thai sản 9. Nghị định 10. Người lao động 11. Người sử dụng lao động 12. Thông tư 13. Tổ chức lao động quốc tế BLĐTBXH CP CĐTS CĐBHXHTS NĐ NLĐ NSDLĐ THÔNG TƯ ILO MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Việt Nam là một trong những nước có tỷ lệ nữ tham gia lực lượng lao động cao nhất trên thế giới (khoảng 48,6%). Tất cả các lĩnh vực từ đời sống, kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, nghệ thuật… đều có sự tham gia của lực lượng lao động nữ, với tỷ trọng chiếm khá lớn trong lực lượng lao động như thế việc họ đóng góp tham gia vào quá trình sản xuất, tạo ra các sản phẩm về vật chất, tinh thần phục vụ cho lợi ích của xã hội, thì ngược lại những quyền lợi của học phải được hưởng phải xứng đáng theo đúng quy định của pháp luật hiện hành. Hiện nay trong các doanh nghiệp ở Việt Nam, tầm quan trọng của các lao động nữ là rất lớn, nhất là trong những ngành đòi hỏi sự khéo léo và linh hoạt trong lao động. Nhóm các ngành nghề như may mặc, giày da hay lắp ráp linh kiện điện tử thì gần như toàn bộ các lao động là nữ. Ngoài đóng góp lớn vào cho xã hội, người phụ nữ với thiên chức làm vợ, làm mẹ cũng đồng thời phải gánh vác phần lớn công việc gia đình. Chính bởi lý do đó, các chính sách bảo đảm ưu tiên lao động nữ, trong đó quan trọng nhất là quyền lợi BHXH, đặc biệt là chế độ trợ cấp thai sản cho phụ nữ khi có thai, sinh con và nuôi con luôn được chú trọng khi xây dựng hệ thống pháp luật ASXH tại Việt Nam. Chế độ trợ cấp thai sản là một trong những nội dung quan trọng hàng đầu trong Công ước số 102 của ILO về quy phạm tối thiểu về an toàn xã hội năm 1952 khẳng định lao động nữ được quyền hưởng trợ cấp thai sản và chăm sóc trong giai đoạn trước khi sinh, trong khi sinh và sau khi sinh. Ở Việt Nam, việc trợ cấp cho lao động nữ khi sinh cũng được ghi nhận trong Hiến pháp 1980 và 1992, theo đó: “Lao động nữ có quyền hưởng chế độ 1 thai sản”. Thêm vào đó, các quy định về BHXH cũng được ra đời ngay sau khi nước ta giành độc lập hướng tới đối tượng là NLĐ, người tạo ra của cải vật chất cho xã hội với mục đích giúp họ vượt qua khó khăn, rủi ro phát sinh trong cuộc sống, trong quá trình lao động. CĐTS không chỉ là chính sách nhằm đảm bảo thu nhập cho NLĐ, đặc biệt ở đây là lao động nữ khi họ mang thai, sinh đẻ, nuôi con mà còn mang ý nghĩa xã hội, nó còn mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc, có một vị trí quan trọng đối với lao động nữ khi họ mang thai, sinh đẻ, nuôi con hay nhận nuôi con nuôi… Trong những năm gần đây rất nhiều cải cách CĐTS đã được bổ sung tăng cường nhằm mục tiêu bảo vệ quyền lợi và sức khỏe cho lao động nữ. Tuy nhiên, với sự phát triển và tiến bộ không ngừng của xã hội, CĐTS theo quy định của pháp luật hiện hành vẫn còn tồn tại một số bất cập nhất định. Trước đây, đã từng có một số đề tài nghiên cứu về CĐTS nhưng lại được lồng ghép cùng với các chế độ BHXH khác như chế độ bảo hiểm ốm đau, tai nạn… mà thiếu đi một nghiên cứu hoàn chỉnh về CĐTS Chính vì thế, tác giả chọn đề tài “Chế độ thai sản theo pháp luật lao động Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu. Trong phạm vi của một luận văn, hy vọng rằng nghiên cứu của tác giá sẽ góp phần nào vào việc hoàn thiện chính sách, CĐTS nhằm đáp ứng nhu cầu cũng như bảo vệ quyền lợi của lao động nữ. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong quá trình nghiên cứu tác giả có tham khảo các tạp chí khoa học pháp lý: Nhà nước pháp luật, thông tin khoa học pháp lý, tạp chí Bảo hiểm xã hội, tạp chí Nghiên cứu lập pháp, các công trình nghiên cứu khoa học của người đi trước thông qua mạng, báo chí … … Như Lê Thị Quế (chủ biên), “Thực trạng và giải pháp hoàn thiện chính sách, chế độ thai sản ở Việt Nam”, Chuyên đề nghiên cứu khoa học, 2003; Đỗ Thị Dung, “Chế độ bảo hiểm thai sản và hướng hoàn thiện nhằm đảm bảo quyền lợi của lao động nữ”, Tạp chí 2 Luật học số 3/2006; Nguyễn Thị Kim Phụng, “Nội luật hoá CEDAW về bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ khi dự thảo Luật bảo hiểm xã hội”, Tạp chí Luật học số 3/2006; Đặng Thị Thơm, “Chế độ bảo hiểm thai sản ở Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ luật học, 2007; Nguyễn Thị Thanh Uyên, “Thực trạng triển khai chế độ trợ cấp thai sản trong bảo hiểm xã hội ở Việt Nam hiện nay”, Đề án thực tập, 2006; Nguyễn Thị Huyền, “Bảo hiểm thai sản đối với lao động nữ và thực tế áp dụng tại Đại học Nguyễn Tất Thành”, Khoá luận tốt nghiệp, 2014; Lục Việt Dũng, “Chế độ bảo hiểm thai sản: Thực trạng và giải pháp hoàn thiện”, Khoá luận tốt nghiệp 2012; Phạm Thị Quỳnh, “Chế độ bảo hiểm thai sản”, Khoá luận tốt nghiệp 2010.… Tuy nhiên, các công trình của các tác giả mới chỉ đưa ra một số vấn đề chung về CĐTS hoặc được nghiên cứu vào thời điểm trước khi có các quy định mới về CĐTS theo Luật BHXH 2014. Do đó, hiện nay vẫn chưa có một công trình nghiên cứu toàn diện về CĐTS theo pháp luật hiện hành. Thấy được vai trò của CĐTS, cũng như tính cấp thiết của vấn đề, đề tài “Chế độ thai sản theo pháp luật lao động Việt Nam hiện nay” đưa ra một phương hướng nghiên cứu chuyên sâu và toàn diện về các của pháp luật hiện hành về CĐTS. Qua việc nghiên cứu này, đề tài đưa ra một số kiến nghị nhằm triển khai việc thực hiện chế độ hiểm thai sản theo quy định của pháp luật Việt Nam. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Việc nghiên cứu đề tài: “Chế độ thai sản theo pháp luật lao động Việt Nam hiện nay” có mục đích và nhiệm vụ như sau:  Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận chung về CĐTS. Tìm hiểu, phân tích những quy định trong pháp luật hiện hành về CĐTS hiện nay;  Nghiên cứu thực trạng áp dụng pháp luật về CĐTS hiện nay 3  Nhận xét, đánh giá và đưa ra một số giải pháp để hoàn thiện việc áp dụng các quy định về CĐTS hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu là các nhóm quan hệ hình thành trong lĩnh vực thai sản. Đối tượng của CĐTS có tính chất đặc thù chủ yếu là lao động nữ trong độ tuổi sinh đẻ khi khám thai, bị sẩy thai, nạo, hút thai hoặc thai chết lưu, sinh con, nuôi con nuôi sơ sinh hoặc thực hiện các biện pháp tránh thai. Thông qua việc bù đắp một phần chi phí tăng lên trong quá trình thai nghén, sinh con, nuôi con nuôi sơ sinh, thực hiện các biện pháp tránh thai, CĐTS nhằm mục đích giúp cân bằng về thu nhập, góp phần tạo sự bình ổn về mặt vật chất, bảo vệ sức khoẻ cho lao động nữ nói riêng, NLĐ nói chung. Chế độ thai sản là một chế độ gồm nhiều chế độ khác nhau được thực hiện từ nhiều chủ thể như cơ quan BHXH, người sử dụng lao động .. . Tuy nhiên trong luận văn này, tác giả chủ yếu chỉ nghiên cứu chế độ thai sản trong luật BHXH hay nói cách khác là nghiên cứu chế độ thai sản với tư cách là một chế độ BHXH bắt buộc ở các nội dung như đối tượng và điều kiện hưởng, chế độ hưởng, thủ tục hưởng BHXH thai sản…theo pháp luật lao động Việt Nam. Bên cạnh đó luận văn cũng nghiên cứu một số quy định của ILO và pháp luật của một số nước ở những góc độ nhất định. Các nội dung khác như xử lý vi phạm, giải quyết tranh chấp về chế độ thai sản…. không thuộc phạm vi nghiên cứu của luận văn. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cùng chủ trương đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước làm kim chỉ nam cho quá trình nghiên cứu, tác giả đã lao động và xây dựng luận văn một cách nghiêm túc. 4 Để làm sáng tỏ nội dung đề tài nghiên cứu, trong luận văn này tác giả đã sử dụng các phương pháp khoa học cụ thể như phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp tiếp cận thực tế, phương pháp thu thập thông tin và phương pháp logic. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn  Ý nghĩa lý luận: Đề tài phân tích những quy định về CĐTS theo pháp luật lao động và BHXH hiện hành, trên cơ sở đó đưa ra một số kiến nghị nhằm triển khai việc thực hiện CĐTS.  Ý nghĩa thực tiễn: - Đối với bản thân tác giả của luận văn: học viên có cơ hội tìm hiểu sâu vào CĐTS, qua đó nâng cao khả năng nghiên cứu khoa học của bản thân và tăng cường hiểu biết thực tế. - Luận văn cũng có thể được sử dụng như một tài liệu tham khảo trong công tác giảng dạy và nghiên cứu pháp luật, cũng như cho bất kỳ ai có quan tâm đến pháp luật BHXH nói chung, pháp luật về CĐTS nói riêng. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu Luận văn gồm 3 chương như sau: Chương 1: Một số vấn đề lý luận về chế độ thai sản Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam hiện hành về chế độ thai sản Chương 3: Thực tiễn thực hiện Chế độ thai sản và một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả thi hành Chế độ thai sản 5 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỘ THAI SẢN 1.1. Khái niệm và vai trò, ý nghĩa của chế độ thai sản. 1.1.1. Khái niệm chế độ thai sản BHXH có nguồn gốc từ rất xa xưa trong lịch sử văn minh nhân loại và cũng không có câu trả lời chính xác về thời điểm ra đời của BHXH. Trong xã hội công xã nguyên thủy, do chưa có tư hữu về tư liệu sản xuất, mọi người cùng nhau hái lượm, săn bắt và sản phẩm được phân chia bình quân nên khó khăn của mỗi cá nhân được hỗ trợ bởi tất cả mọi người. Qua giai đoạn chế độ phong kiến, ý niệm về BHXH dần hình thành một cách rõ nét hơn đối với những chính sách hỗ trợ người dân khi xảy ra thiên tai, lũ lụt. Từ thế kỷ XVI đến thế kỷ XVII, một số nghiệp đoàn thợ thủ công ra đời, để bảo vệ nhau trong hoạt động nghề nghiệp họ đã thành lập lên các loại quỹ tương trợ như ở Anh, năm 1473 đã thành lập hội “Bằng hữu” để giúp các hội viên khi bị ốm đau, tai nạn. Tuy nhiên, ý tưởng về BHXH chỉ thực sự hình thành và phát triển rõ nét khi xảy ra cuộc cách mạng công nghiệp tại Châu Âu. Từ khi kinh tế hàng hóa phát triển, việc thuê mướn nhân công ngày càng trở nên phổ biến. Ban đầu giới chủ chỉ cam kết trả công lao động. Dần dần, NLĐ muốn NSDLĐ phải cam kết trả thêm những khoản thu nhập cho NLĐ để họ trang trải những nhu cầu thiết yếu khi ốm đau, tai nạn, thai sản hay tuổi già… Vấn đề mâu thuẫn lợi ích giữa hai bên dẫn tới việc nhà nước phải can thiệp điều chỉnh. BHXH chính thức xuất hiện tại Châu Âu từ đầu thế kỉ XIX khi nền công nghiệp và kinh tế hàng hóa đã phát triển mạnh mẽ. Bộ luật đầu tiên đề cập tới chế độ bảo hiểm ra đời ở Anh năm 1819 là Luật nhà máy. Tới năm 1838, chế độ bảo hiểm tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp được ra đời tại 6 nước Phổ. Tới năm 1883, nước Phổ dưới thời Thủ tướng Bismark đã ban hành Đạo luật BHXH, đây là văn bản về BHXH đầu tiên trên thế giới. Theo đạo luật này, hệ thống BHXH ra đời với sự tham gia bắt buộc của cả người làm công ăn lương và cả giới chủ. Nhà nước giữ vai trò quản lý, định hướng hoạt động của BHXH. Sau đó nhiều nước Châu Âu cũng cho ra đời các Đạo luật của mình như Bỉ (1905), Ý, Áo, Pháp,... Đến đầu thế kỷ XX, BHXH đã mở rộng ra nhiều nước trên Thế giới, đặc biệt là các nước Mỹ La Tinh, Hoa Kỳ, Canađa và một số nước khác. Sau chiến tranh thế giới thứ II, tổ chức liên hợp quốc được thành lập. Ngày 10/12/1949, Liên Hợp Quốc thông qua bản tuyên ngôn nhân quyền mà trong đó đã khẳng định mọi thành viên trong xã hội đều có quyền hưởng ASXH. Không lâu sau đó, đến ngày 25/6/1952 tổ chức lao động quốc tế (ILO) thuộc liên hợp quốc lần đầu tiên thông qua công ước 102 về ASXH. Đây là mốc son nổi bật đánh dấu sự phát triển của BHXH thế giới. Trong thời kỳ này BHXH đã được lan rộng ra nhiều nước ở Châu Âu,châu Á như Việt Nam,Trung Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Philippin… hiên nay có trên 180 nước có luật riêng về BHXH. Có thể nói, rất nhiều quan điểm khác nhau được đưa ra về khái niệm BHXH song có một điểm thống nhất chung giữa các khái niệm đó là đều khẳng định vai trò của BHXH nhằm hỗ trợ người tham gia bảo hiểu lúc khó khăn hiểm nghèo, ốm đau, tai nạn, thai sản …. Trên cơ sở đóng góp của người tham gia bảo hiểm có sự hỗ trợ của Nhà nước trước khi có biến cố xảy ra và khi NLĐ gặp phải thì quỹ BHXH sẽ giúp họ cân bằng phần thu nhập bị giảm sút hay bị mất, giúp họ trang trải phần chi tiêu bị tăng cao khi gặp các rủi ro khó khăn. Trên cơ sở này, Tổ chức lao động quốc tế (ILO) xác định BHXH là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập từ nghề nghiệp do bị mất 7 hoặc giảm khả năng lao động hoặc bị mất việc làm do những rủi ro xã hội thông qua việc hình thành, sử dụng một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia BHXH, nhằm đóng góp phần đảm bảo an toàn đời sống của NLĐ và gia đình họ, đồng thời góp phần đảm bảo an toàn xã hội. Ở Việt Nam, từ rất lâu đã xuất hiện các quỹ tương thân, tương ái, gắn liền với cộng đồng làng xã, nhằm cưu mang, giúp đỡ những người gặp phải rủi ro, bất hạnh trong cuộc sống. Hình thức hoạt động chủ yếu là lập các quỹ quản phụ điền, quỹ cô nhi điền… để giúp bà góa, con côi. Một số địa phương lập ra quỹ nghĩa điền, quỹ nghĩa thương… do những người hảo tâm đóng góp để dùng vào việc trợ giúp người khó khăn.  Luật BHXH năm 2014 ra đời (có hiệu lực ngày 01/01/2016) đã sửa đổi, bổ sung một số quy định của luật BHXH năm 2006 quy định chế độ, chính sách BHXH; quyền và trách nhiệm của NLĐ, NSDLĐ; cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến BHXH, tổ chức đại diện tập thể lao động, tổ chức đại diện NSDLĐ; cơ quan BHXH; Quỹ BHXH; thủ tục thực hiện BHXH và quản lý nhà nước về BHXH. Theo đó, Luật BHXH năm 2014 định nghĩa: “BHXH là sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của NLĐ khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ BHXH”. Chính sách BHXH ngày càng được mở rộng và nâng cao việc bảo đảm vật chất, chăm sóc sức khỏe, phục hồi sức khỏe, góp phần ổn định đời sống cho NLĐ và gia đình trong các trường hợp NLĐ ốm đau, thai sản, hết tuổi lao động, chết, bị tai nạn lao động, … Là một trong những chế độ đặc thù của bảo hiểm xã hội, chế độ bảo hiểm thai sản cũng như các chính sách xã hội đối với lao động nữ với mục đích ban đầu nhằm tạo điều kiện để lao động nữ thực hiện tốt chức năng làm mẹ, vừa tạo điều kiện để lao động nữ thực hiện tốt công tác xã hội. Cùng với 8 sự vận động và phát triển của xã hội, chế độ thai sản ngày càng được mở rộng phạm vi đối với cả lao động nam, trường hợp người lao động mang thai hộ hay nhận nuôi con nuôi Trên cơ sở các quan điểm, định nghĩa về BHXH như trên, có thể hiểu, có thể hiểu: “CĐTS là một trong các chế độ BHXH bắt buộc, bao gồm các quy định của Nhà nước nhằm đảm bảo thu nhập và đảm bảo sức khoẻ cho lao động nữ khi mang thai, sinh con hoặc có các sự kiện thai sản khác như mang thai hộ, nuôi con nuôi, lao động nam nghỉ khi vợ sinh con trên cơ sở sự đóng góp vào quỹ tài chính chung của người lao động, người sử dụng lao động và sự hỗ trợ của Nhà nước.” Về cơ bản, chế độ bảo hiểm thai sản được cấu thành bởi các nội dung: đối tượng và điều kiện hưởng CĐTS, thời gian nghỉ hưởng CĐTS, mức trợ cấp của CĐTS . 1.1.2. Vai trò, ý nghĩa của chế độ thai sản Thứ nhất, đối với NLĐ, chế độ bảo hiểm thai sản có vai trò bù đắp một phần thiếu hụt về thu nhập của NLĐ. Đó là quá trong quá trình thai sản NLĐ phải nghỉ việc, không có lương, vì thế thu nhập sẽ bị giảm. Chế độ bảo hiểm thai sản trợ cấp cho NLĐ một mặt đã bù đắp được thu nhập bị giảm, mặt khác hỗ trợ các khoản chi phí tăng thêm như: mua sắm dụng cụ tã lót, sữa…. Đồng thời góp phần thực hiện tốt chức năng và bảo vệ quyền làm mẹ, làm vợ của người phụ nữ. Quy định trong chế độ bảo hiểm thai sản đã góp phần ổn định tâm lý cho NLĐ, đặc biệt là lao động nữ khi họ có nhu cầu có con, xin con nuôi, giúp họ có thời gian chăm sóc con cái bảo vệ sức khỏe của cả mẹ và con, không lo lắng về chi phí sinh con khi không tham gia lao động. CĐTS đờng thời thể hiện sự quan tâm của Nhà nước, NSDLĐ và cả những NLĐ với nhau, đặc biệt là lao động nam đối với lao động nữ vì thường chế độ này chỉ thể hiện đối với lao động nữ. 9 Thứ hai, đối với NSDLĐ, thực hiện chính sách thai sản tốt góp phần thu hút lao động nữ vào các doanh nghiệp, mà hiện nay lực lượng nữ tham gia lao động ngày càng lớn, có tay nghề và trình độ ngày càng cao trong các lĩnh vực hoạt động sản xuất hàng hóa và dịch vụ. Thông qua chính sách này NSDLĐ thể hiện trách nhiệm và nghĩa vụ của mình đối với NLĐ và đối với toàn xã hội, nếu thực hiện tốt chính sách này sẽ thu hút được một lực lượng lớn lao động. Thứ ba, đối với Nhà nước và - xã hội, CĐBHTS là sự chia sẻ của những người tham gia bảo hiểm đối với NLĐ khi thực hiện thiên chức, sự chia sẻ này được thực hiện thông qua quá trình tổ chức và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung hình thành do sự đóng góp của các bên tham gia BHXH. Tính xã hội được thể hiện là do có sự chia sẻ rủi ro của bảo hiểm thai sản, NLĐ không phải đóng phí, phí đóng cho NLĐ hưởng được tính từ lợi nhuận sau thuế của NSDLĐ. Khoản tiền này, giúp đảm bảo cuộc sống đối với NLĐ khi thai sản, trên cơ sở nguyên tắc “lấy của số đông, bù cho số ít”. Vì thế chế độ bảo hiểm thai sản thể hiện trách nhiệm đặc biệt của NSDLĐ đối với NLĐ, tạo công bằng xã hội, tâm lý yên tâm cho NLĐ, góp phần dung hòa mối quan hệ NSDLĐ và NLĐ giúp cho việc sản xuất diễn ra liên tục giúp phát triển kinh tế gia đình và nền kinh tế chung của đất nước. Việc thực hiện tốt CĐTS sẽ góp phần tái tạo lực lượng lao động lớn cho nền kinh tế trong tương lai. 1.2. Nguyên tắc cơ bản của chế độ bảo hiểm thai sản Các nguyên tắc cơ bản của BHXH là những tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt và chi phối toàn bộ hệ thống các quy phạm pháp luật BHXH. BHXH luôn chứa đựng và đan xen hai yếu tố kinh tế và xã hội. Là một trong những chế độ BHXH, CĐTS mang bản chất chung của BHXH đồng thời cũng có những nguyên tắc đặc trưng riêng khác biệt với những chế độ BHXH khác. 10 1.2.1. Nguyên tắc 1: Mức hưởng trợ cấp CĐTS được tính trên cơ sở mức đóng, thời gian đóng BHXH BHXH là một trong những hình thức phân phối tổng sản phẩm quốc dân nên việc thực hiện BHXH phải dựa trên cơ sở kết hợp hài hòa giữa cống hiến và hưởng thụ. Nói cách khác, cần căn cứ vào mức đóng góp của NLĐ để từ đó quy định mức trợ cấp phù hợp với đóng góp của NLĐ đó cho xã hội. Cụ thể, nguyên tắc này được thể hiện trên các mặt sau: (a) Có đóng BHXH thì được hưởng CĐTS; (b) Mức đóng góp cao thì mức trợ cấp thai sản được hưởng với mức cao và ngược lại. Tuy nhiên, về nguyên tắc, mức trợ cấp CĐTS phải không được cao hơn tiền lương nhưng vẫn phải đảm bảo mức sống tối thiểu. Về bản chất, trợ cấp thai sản là loại trợ cấp thay thế tiền lương được chi trả cho NLĐ khi NLĐ có sức khỏe bình thường lao động bình thường. Nếu cố tìm cách trợ cấp bằng hoặc cao hơn tiền lương thì không một NLĐ nào phải cố gắng có việc làm và tích cực làm việc. Do đó, mức trợ cấp CĐTS phải không được cao hơn mức tiền lương lúc đang đi làm. Tuy nhiên, do mục đích, bản chất và của BHXH thì mức trợ cấp thấp nhất cũng không thể thấp hơn mức sống tối thiểu hằng ngày. Chỉ khi đó trợ cấp mới có ý nghĩa an sinh. Ngoài ra, với đặc tính của bảo hiểm thì chia sẻ giữa những người tham gia là không thể thiếu. Nguyên tắc “lấy số đông bù số ít” thể hiện tính nhân đạo xã hội. Tinh thần cơ bản của nguyên tắc “lấy số đông bù số ít” là ở chỗ, bằng sự đóng góp, trợ giúp của nhiều người sẽ hạn chế, giảm thiểu khó khăn, bất hạnh cho một thiểu số người. Đồng thời, mức trợ cấp, bù đắp và phương thức trợ cấp, bù đắp cho người lao động có sự kiện thai sản cũng được quy định trên cơ sở các xem xét các yếu tố chính trị, kinh tế, xã hội,… 11 1.2.2. Nguyên tắc 2: Mức đóng bảo hiểm thai sản được tính trên cơ sở tiền lương tháng của người lao động. Thu nhập được BHXH thực tế là phần thu nhập của NLĐ tham gia bảo hiểm mà nếu nó biến động giảm hoặc mất do bị giảm hoặc mất khả năng lao động thì tổ chức BHX phải chi trả trợ cấp để thay thế hoặc bù đắp. Theo đó, tại nước ta, mức đóng BHXH được tính trên cơ sở tiền công, tiền lương của người lao động và mức đóng BHXH tự nguyện dựa trên cơ sở mức thu nhập của họ nhưng không thấp hơn mức tối thiểu chung. Như vậy, mới có thể đảm bảo NLĐ khi xảy ra sự kiện thai sản, được cung cấp một nguồn tài chính ổn định, bằng với mức sống tối thiểu. 1.2.3. Nguyên tắc 3: Nhà nước thống nhất quản lý chính sách và quỹ BHXH nói chung và bảo hiểm CĐTS nói riêng theo nguyên tắc dân chủ, công khai, minh bạch Hệ thống BHXH của một nước thường gồm nhiều bộ phận cấu thành. Trong đó, bộ phận lớn nhất do Nhà nước tổ chức và bảo hộ bao trùm toàn bộ những người hưởng lương từ ngân sách Nhà nước và NLĐ thuộc khu vực kinh tế quan trọng của đất nước. Ở nước ta do những điều kiện kinh tế- xã hội chưa cho phép các tổ chức và cá nhân thực hiện BHXH mà chỉ có BHXH của NHà nước. Để BHXH hoạt động có hiệu quả, nhất thiết phải đảm bảo tính thống nhất trên những vấn đề lớn hoặc cơ bản nhất để tránh sự tuỳ tiện, tính cục bộ, cát cứ, hoặc những mâu thuẫn nảy sinh. Đồng thời cũng phải có cơ chế để bộ phận cấu thành có thể năng động trong hoạt động để chúng có thể bù đắp, bổ sung những ưu điểm cho nhau. Bên cạnh đó, quỹ BHXH là hạt nhân của chính sách BHXH nói chung và CĐTS nói riêng, vừa mang tính kinh tế, vừa mang tính xã hội rất cao và là điều kiện hay cơ sở vật chất quan trọng nhất đảm bảo cho toàn bộ hệ thống BHXH tồn tại và phát triển 12 Do đó, quỹ BHXH được quản lý thống nhất và hạch toán theo các quỹ thành phần trên cơ sở công khai, minh bạch, sử dụng đúng mục đích nhằm đảm bảo cho việc quản lý, đầu tư quỹ có hiệu quả và phục vụ cho công tác hạch toán, đánh giá tình hình cân đối quỹ để có điều chỉnh về chính sách cho phù hợp, đảm bảo cân đối thu – chi, điều chỉnh kịp thời khi các quỹ thành phần tạm thời bị mất cân đối, không ảnh hưởng đến quyền lợi của người tham gia BHXH. Có như vậy thì mới đảm bảo được mục đích ổn định cuộc sống cho NLĐ và gia đình họ khi gặp các biến cố, rủi ro hoặc sự kiện thai sản làm giảm hoặc mất thu nhập từ lao động. 1.2.4. Nguyên tắc 4: Việc thực hiện chế độ bảo hiểm thai sản phải đơn giản, dễ dàng, thuận tiện, bảo đảm kịp thời và đầy đủ quyền lợi của người tham gia BHXH Với nguyên tắc này, việc thực hiện CĐTS đối với người lao động phải được nghiên cứu để quy định cụ thể về hồ sơ, quy trình, thời hạn giải quyết sao cho phù hợp, tạo điều kiện thuận lợi nhất cho người lao động, người sử dụng lao động khi tham gia BHXH và khi giải quyết hưởng các chế độ BHXH. 1.2.5. Nguyên tắc 5: Các quy định về chế độ thai sản phải đảm bảo quyền lợi về vật chất và tinh thần của cả NLĐ và trẻ sơ sinh Đặc điểm của thai sản là một chu kỳ kéo dài và liên tục từ lúc mang thai, quá trình nghỉ sinh con, chăm sóc trẻ sơ dinh đến khi ổn định lại sức khoẻ trở lại lao động bình thường, nên việc khám thai đều đặn để phát hiện sớm các sự cố, quá trình nghỉ sinh con, nuôi con nuôi sơ sinh… phải có chính sách cụ thể và nhất quán nhằm đảm bảo người phụ nữ phải được chăm sóc chu đáo, liên tục. Các chính sách chế định bảo hiểm thai sản cũng phải bảo đảm đủ thời gian để người mẹ ổn định và phục hồi sức khoẻ sau khi sinh con 13 và chăm sóc con trong thời gian ban đầu cũng như tạo điều kiện cho trẻ sơ sinh thích nghi và phát triển trong môi trường mới. 1.3. Chế độ thai sản theo quy định của tổ chức lao động quốc tế và một số quốc gia trên thế giới 1.3.1. BHXH thai sản theo quy định của tổ chức lao động quốc tế ILO Tổ chức lao động quốc tế (ILO) được ra đời vào năm 1919, sau các cuộc đàm phán của Hiệp định Versailles và là thành viên của Hội Quốc Liên. Sau khi Chiến tranh thế giới lần thứ 2 kết thúc và Hội Quốc liên giải tán, ILO trở thành thành viên của Liên Hiệp quốc. ILO được thành lập với nhiệm vụ tăng cường các cơ hội cho lao động nữ và lao động nam để có được những công việc tốt trong môi trường tự do, công bằng, an toàn và nhân phẩm. Mục đích chính của tổ chức là thúc đẩy quyền lợi trong lao động, khuyến khích các cơ hội việc làm, thúc đẩy sự bảo vệ của xã hội và tăng cường các cuộc đối thoại nhằm giải quyết các vấn đề lao động. Do đó, ngay sau khi thành lập, ILO đã cho ra đời rất nhiều công ước về đảm bảo quyền lợi cho NLĐ nữ đặc biệt liên quan đến các CĐTS như: Công ước số 3 thông qua ngày 29/10/1919 là công ước quốc tế đầu tiên quy định trợ cấp thai sản với các quyền lợi cho lao động nữ được hưởng khi sinh con và mang thai trong các ngành thuộc lĩnh vực công nghiệp. Theo đó, ngoài khoản trợ cấp đủ để nuôi sống bản thân và đứa con với những điều kiện vệ sinh tốt do quỹ công cộng hoặc do hệ thống bảo hiểm chi trả thì người phụ nữ còn được nhận sự chăm sóc miễn phí của thầy thuốc hoặc nữ hộ sinh. Công ước số 102 năm 1952 quy định những tiêu chuẩn tối thiểu về Bảo đảm xã hội với 9 chế độ chính: trợ cấp ốm đau, trợ cấp thai sản. Trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp tuổi già, trợ cấp tàn tật, trợ cấp tử tuất,chăm sóc y tế,trợ cấp gia đình mà trong đó có chế độ về trợ cấp thai sản khi người phụ nữ mang thai và sinh đẻ là một trong 14 những nội dung quan trọng nhất. Trong Công ước 102 mỗi chế độ BHXH đều được cụ thể hoá bằng những điều những mục vừa cụ thể vừa mang tính định hướng để các nước vận dụng. Nếu nhìn một cách tổng quát, mỗi chế độ đều được kết cấu bởi các nội dung sau: (i) Mục đích thực hiện chế độ; (ii) Đối tượng đuợc bảo hiểm; (iii) Điều kiện được trợ cấp; và (iv) Mức trợ cấp và thời gian trợ cấp BHXH. Về CĐTS, Công ước số 102 nói về mục đích của chế độ này là “nhằm bảo toàn, phục hồi hoặc cải thiện sức khỏe của phụ nữ được bảo vệ, và khả năng làm việc, khả năng ứng phó với nhu cầu cá nhân của họ”. Đối tượng được hưởng trợ cấp thai sản bao gồm mọi phụ nữ là người lao động làm công ăn lương với số lượng tham gia tối thiểu là 50% hoặc toàn bộ phụ nữ hoạt động kinh tế thường trú trong nước với số lượng tham gia tối thiểu là 20%; hoặc toàn bộ phụ nữ hoạt động kinh tế thường trú trong nước với số lượng tham gia tối thiểu là 50%. Đối với các quốc gia có nền kinh tế và phương diện y tế chưa phát triển đủ mức và có bản tuyên bố được phê chuẩn việc thực hiện chưa đầy đủ các khuyến cáo theo công ước 102 thì đối tượng được hưởng trợ cấp bảo hiểm thai sản là những người lao động làm công ăn lương nhưng tối thiểu là 50% số người làm việc trong các cơ sở công nghiệp sử dụng ít nhất 20 lao động. Theo quy định tại Công ước 102, về điều kiện nhận trợ cấp thai sản, tất cả những người phụ nữ khi mang thai, sinh đẻ đều được quyền hưởng trợ cấp thai sản. Tuy nhiên, quy định này chỉ dừng lại ở mức khuyến nghị và các quốc gia có quyền quy định siết chặt hơn về điều kiện hưởng trợ cấp thai sản tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, xã hội, trình độ phát triển của mỗi quốc gia. Tỷ lệ trợ cấp thai sản tối thiểu theo Công ước 102 là 45% thu nhập trước đó của người lao động nữ và thời gian trợ cấp là toàn bộ thời gian được bảo vệ và không được ít hơn 12 tuần Công ước số 103 và Công ước 103 (sửa đổi) thông qua năm 1952, được coi là Công ước tiêu biểu nhất về vấn đề bảo vệ phụ nữ trong thời kỳ 15 thai sản. Đối tượng được hưởng trợ cấp thai sản được quy định là “những phụ nữ làm việc trong các cơ sở công nghiệp và trong các công việc phi công nghiệp và nông nghiệp, kể cả những phụ nữ làm công ăn lương, làm việc tại nhà”. Quy định này thể hiện tính chất bao quát của chế độ bảo hiểm thai sản, mọi người lao động nữ đang tham gia quan hệ lao động không phân biệt ngành nghề đều là đối tượng được hưởng trợ cấp chế độ thai sản khi họ mang thai, sinh con, nuôi con nuôi sơ sinh. Công ước 103 quy định thời gian nghỉ thai sản là 12 tuần trong đó có trong đó một phần thời gian bắt buộc phải nghỉ sau khi sinh đẻ nhưng bất kỳ trường hợp nào cũng không được dưới 6 tuần. Trong thời gian nghỉ sinh, phụ nữ được quyền hưởng mọi quyền lợi về tài chính và trợ cấp y tế. Mức trợ cấp bằng tiền được quy định cụ thể theo luật pháp, quy định của từng quốc gia nhưng nó phải đảm bảo duy trì sức khoẻ cho người mẹ và đứa trẻ theo tiêu chuẩn mức sống tối thiểu. Đối với những nước thực hiện trợ cấp thai sản theo hệ thống bảo hiểm xã hội bắt buộc thì mức trợ cấp được tính trên cơ sở mức thu nhập trước đó. Mức trợ cấp không được thấp hơn 2/3 mức thu nhập trước đó của người lao động nữ. Chăm sóc y tế bao gồm: chăm sóc trước sinh, trong khi sinh và sau khi sinh bởi một bác sĩ đủ năng lực và trong một bệnh viện tuỳ theo sự lựa chọn của người mẹ. Cũng theo Công ước 103, việc NSDLĐ cho NLĐ nữ thôi việc trong thời gian nghỉ thai sản là bất hợp pháp. Công ước số 183 thông qua ngày 15/06/2000, đây là công ước có nội dung quy định cụ thể nhất về các chế độ trợ cấp thai sản cho NLĐ bao gồm chế độ chi trả bằng tiền, chế độ y tế, chế độ trợ cấp khác. Thời gian nghỉ việc nhận trợ cấp thai sản của lao động nữ tuỳ thuộc vào luật pháp và quy định của từng quốc gia nhưng không dưới 14 tuần trong đó thời gian nghỉ tối thiểu sau khi sinh là 6 tuần. Nếu lao động nữ bị đau ốm trong quá trình mang thai hoặc nảy sinh những vấn đề phức tạp ngoài việc mang thai hoặc sinh nở thì thời gian nghỉ sẽ 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan