Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự việt nam...

Tài liệu Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự việt nam

.PDF
175
255
134

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN THỊ NGỌC HIẾU CHỦ THỂ CỦA TỘI PHẠM THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2019 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN THỊ NGỌC HIẾU CHỦ THỂ CỦA TỘI PHẠM THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự Mã số: 9.38.01.04 LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. HỒ SỸ SƠN HÀ NỘI - 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các đề xuất, kết luận khoa học của luận án chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào. Nghiên cứu sinh Trần Thị Ngọc Hiếu MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU .............................. 7 1.1. Tình hình nghiên cứu về chủ thể của tội phạm .................................... 7 1.2. Đánh giá tình hình nghiên cứu và những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu liên quan đến chủ thể của tội phạm ........................................ 19 Chƣơng 2 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ CHỦ THỂ CỦA TỘI PHẠM ..................................... 23 2.1. Khái niệm và các điều kiện của chủ thể của tội phạm ....................... 23 2.2. Phân loại chủ thể của tội phạm .......................................................... 38 2.3. Mối quan hệ giữa chủ thể của tội phạm với một số phạm trù khác ... 43 2.4. Sự điều chỉnh của pháp luật đối với vấn đề về chủ thể của tội phạm ................................................................................................................... 48 2.5. Khái quát lịch sử hình thành, phát triển các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về chủ thể của tội phạm đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 2015 ....................................................................................... 59 Chƣơng 3 QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ CHỦ THỂ CỦA TỘI PHẠM VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG .. 69 3.1. Thực tiễn quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về chủ thể của tội phạm .......................................................................................................... 69 3.2. Thực trạng áp dụng quy định của Bộ luật hình sự về chủ thể của tội phạm ở nước ta .......................................................................................... 98 3.3. Đánh giá thực tiễn áp dụng quy định của Bộ luật hình sự về chủ thể của tội phạm và nguyên nhân.................................................................. 120 Chƣơng 4 YÊU CẦU VÀ CÁC GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VỀ CHỦ THỂ CỦA TỘI PHẠM .................................................................................................. 126 4.1. Yêu cầu bảo đảm áp dụng đúng các quy định của Bộ luật hình sự về chủ thể của tội phạm ............................................................................... 126 4.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của Bộ luật hình sự về chủ thể của tội phạm........................................................................... 127 KẾT LUẬN .................................................................................................. 149 DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC .............................................. 151 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 152 DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN BLDS: Bộ luật Dân sự BLHS: Bộ luật Hình sự CTTP: Cấu thành tội phạm NCTN: Người chưa thành niên NLTNHS: Năng lực trách nhiệm hình sự Nxb: Nhà xuất bản TAND: Tòa án nhân dân TNHS: Trách nhiệm hình sự XHCN: Xã hội chủ nghĩa MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Một trong những vấn đề quan trọng của luật hình sự là chủ thể của tội phạm. Tầm quan trọng của vấn đề về chủ thể của tội phạm không chỉ thể hiện ở chỗ chủ thể của tội phạm là một trong bốn yếu tố cấu thành tội phạm (CTTP) mà còn thể hiện ở chỗ chủ thể của tội phạm còn là yếu tố giữ vai trò “chi phối” các yếu tố khác của cấu thành tội phạm. Vấn đề là ở chỗ, nói đến tội phạm là nói đến hành vi phạm tội mà hành vi phạm tội đến lượt mình là sự thể hiện ý chí của chủ thể (cá nhân hoặc pháp nhân thương mại) ra thế giới bên ngoài dưới hình thức hành động hoặc không hành động phạm tội. Như vậy, nếu không có chủ thể của tội phạm (con người với tư cách là chủ thể của hành vi phạm tội, pháp nhân thương mại với tư cách là chủ thể của hoạt động phạm tội) thì không có hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm các quan hệ xã hội mà Bộ luật hình sự ghi nhận và bảo vệ. Điều đó cũng có nghĩa là, nếu không có chủ thể của tội phạm thì không cần phải xem xét đến các yếu tố khách thể, mặt khách quan của tội phạm và mặt chủ quan của tội phạm. Hơn thế, việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với cá nhân hoặc pháp nhân thương mại không phải là chủ thể của tội phạm tương ứng không những trái với các nguyên tắc, nhất là nguyên tắc nhân đạo trong luật hình sự mà còn không đạt được mục đích của luật hình sự. Mặc dù vậy, trong một thời gian dài, trong khoa học luật hình sự nước ta, tội phạm được coi là hành vi nguy hiểm cho xã hội do chủ thể là thể nhân (cá nhân) thực hiện. Hơn thế, vấn đề chủ thể của tội phạm chủ yếu được đề cập nghiên cứu trong các giáo trình luật hình sự ở bậc đào tạo đại học; có không nhiều các luận văn thạc sĩ luật học có đề cập nghiên cứu chủ thể của tội phạm, nhưng chưa toàn diện và sâu sắc; còn trong các công trình nghiên cứu khác, chủ thể của tội phạm chỉ được nhắc đến “một cách nhân tiện” khi nghiên cứu các vấn đề khác của luật hình sự, chẳng hạn như các dấu hiệu pháp lý của tội phạm, năng lực trách nhiệm hình sự (NLTNHS), miễn trách nhiệm hình sự…Nhiều vấn đề lý luận về chủ thể của tội phạm chưa được đặt ra hoặc đã được đặt ra nghiên cứu nhưng nhưng chưa phản ánh đầy đủ các khía cạnh lý luận cần phải có của chủ thể của tội phạm. Thực trạng nghiên cứu lý luận về chủ thể tội phạm ở nước ta, vì vậy chỉ mới dừng lại ở mức độ cơ bản (đại học). Nguyên nhân chính của thực trạng này không chỉ xuất phát từ tính đa dạng, phức tạp của chính bản thân vấn đề chủ thể của tội phạm mà còn xuất phát từ tiếp cận nghiên cứu đơn cực tức chỉ bằng một hoặc một vài cách tiếp cận được sử dụng để nghiên cứu chủ thể của tội phạm. Trong khi đó mối liên hệ đa chiều của lý luận về chủ thể của tội phạm chỉ có thể được làm sáng tỏ bằng phương pháp luận của nó không chỉ là phương pháp luận của triết học Mác-Lênin mà trong phương pháp luận này có cả các cách tiếp cận nghiên cứu (phương pháp nhận thức) xã hội học tâm lý học, hệ thống học, tội phạm học… 1 Thực trạng nghiên cứu lý luận như đã phân tích khái quát trên đây tác động mạnh mẽ đến kết quả lập pháp hình sự của nước ta về chủ thể của tội phạm. Trong các Bộ luật hình sự năm 1985 và 1999, chủ thể của tội phạm được quy định là thể nhân (cá nhân). Khá nhiều vấn đề, chẳng hạn như độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, chủ thể đặc biệt của tội phạm, trách nhiệm hình sự trong đồng phạm…chưa được thể chế hóa một cách đầy đủ và tối ưu. Thực trạng nghiên cứu lý luận cũng như thực trạng lập pháp hình sự nước ta về chủ thể của tội phạm như đã phân tích khái quát trên đây đã ảnh hưởng không nhỏ đến thực trạng áp dụng pháp luật hình sự về chủ thể của tội phạm. Trong số những vi phạm, sai lầm trong định tội danh, quyết định hình phạt đối với người phạm tội, có cả những vi phạm, sai lầm liên quan đến xác định chủ thể của tội phạm, nhất là trong trường hợp đồng phạm. Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự ở nước ta cho thấy, do nhận thức về chủ thể của tội phạm chưa đầy đủ và thống nhất dẫn đến quá trình xây dựng pháp luật hình sự và áp dụng pháp luật hình sự về chủ thể của tội phạm còn hạn chế, như việc xác định độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, xác định năng lực trách nhiệm hình sự, xác định những dấu hiệu đặc biệt của chủ thể đặc biệt do đó, ảnh hưởng đến việc quyết định trách nhiệm hình sự, hình phạt chưa phù hợp dẫn đến tình trạng bỏ lọt tội phạm, làm oan người vô tội, làm ảnh hưởng đến lòng tin của nhân dân đối với Nhà nước. Nghiêm trọng hơn, thực trạng áp dụng pháp luật hình sự đó phần nào làm cho tình hình tội phạm ở nước ta tuy có phần được kiềm chế nhưng diễn biến hết sức phức tạp. Theo thống kê chưa đầy đủ, hàng năm trong cả nước, các Tòa án thụ lý trên dưới 70 đến 80 ngàn vụ án hình sự với trên 100 ngàn bị cáo, trong đó, nổi bật các vụ án giết người, cướp tài sản, hiếp dâm, hiếp dâm trẻ em, tham ô, nhận hối lộ, … Để khắc phục những điểm hạn chế, bất cập trong các quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 về chủ thể của tội phạm, tăng cường khả năng và giá trị của pháp luật hình sự trong đấu tranh phòng, chống tội phạm và phát triển mạnh mẽ pháp luật hình sự nước ta theo hướng ngày càng nhân đạo hóa, phân hóa, quốc tế hóa…Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam bổ sung những quy định đối với pháp nhân thương mại phạm tội. Việc quy định và áp dụng trách nhiệm hình sự đối với pháp nhân thương mại phạm tội không những đáp ứng kịp thời những đòi hỏi mang tính tất yếu khách quan của cuộc sống, của cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, của sự nghiệp cải cách tư pháp và xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay, mà còn góp phần phát triển hơn nữa nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, thể hiện đầy đủ sự công bằng, văn minh trong xã hội hiện đại. Tuy nhiên, việc bổ sung các quy định đối với pháp nhân tương mại phạm tội cũng làm cho vấn đề chủ thể của tội phạm càng trở nên phức tạp hơn cả về mặt lý luận, cả về mặt thể chế hóa pháp luật cả về mặt áp dụng pháp luật 2 hình sự trong pháp luật hình sự trong thực tiễn khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Bởi sự động và phát triển không ngừng của đời sống xã hội, những điểm hạn chế trong các quy định về chủ thể của tội phạm là thể nhân (cá nhân) chưa được khắc phục hoàn toàn, những quy định đối với pháp nhân thương mại vừa được bổ sung vào Bộ luật hình sự, thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật hình sự về chủ thể của tội phạm chắc chắn không thể tránh khỏi những khó khăn, vướng mắc. Từ những điều phân tích khái quát trên đây, có thể khẳng định rằng, nghiên cứu một cách sâu sắc và toàn diện các khía cạnh của lý luận cũng như của thực trạng quy định và áp dụng pháp luật hình sự Việt Nam về chủ thể của tội phạm để đề xuất các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật hình sự về chủ thể của tội phạm, rõ ràng là việc làm có tính cấp thiết, có ý nghĩa quan trọng về mặt lý luận và thực tiễn. Đó chính là lý do mà nghiên cứu sinh đã chọn đề tài: “Chủ thể của tội phạm theo pháp luật hình sự Việt Nam” làm luận án tiến sĩ của mình. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở phân tích làm rõ những vấn đề lý luận, thực trạng quy định và áp dụng pháp luật hình sự Việt nam về chủ thể của tội phạm, Luận án đề xuất các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về chủ thể của tội phạm. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt được mục đích nêu trên, luận án xác định và thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu sau đây: - Thu thập, hệ thống hóa và đánh giá các kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã được công bố trong và ngoài nước về chủ thể của tội phạm, từ đó rút ra những vấn đề cần nghiên cứu trong luận án. - Phân tích khái niệm, các dấu hiệu, sự phân loại, mối quan hệ của chủ thể của tội phạm. - Phân tích sự điều chỉnh của pháp luật đối với vấn đề về chủ thể của tội phạm. - Khái quát quá trình phát triển quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về chủ thể của tội phạm đến trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 2015. - Phân tích, đánh giá quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành về chủ thể của tội phạm. - Phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về chủ thể của tội phạm. - Phân tích làm rõ yêu cầu áp dụng đúng quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành về chủ thể của tội phạm. 3 - Đề xuất các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành về chủ thể của tội phạm. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Luận án lấy các quan điểm khoa học về chủ thể của tội phạm đã được nêu ra trong khoa học luật hình sự Việt Nam và khoa học luật hình sự nước ngoài, các quy định pháp luật hình sự Việt Nam (là chủ yếu) và của một số nước ngoài về chủ thể của tội phạm, thực tiễn áp dụng quy định pháp luật hình sự về chủ thể của tội phạm trong thực tiễn xét xử ở nước ta để nghiên cứu các vấn đề thuộc nội dung nghiên cứu của đề tài. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Đề tài luận án được nghiên cứu dưới góc độ luật hình sự và tố tụng hình sự. Bởi BLHS năm 2015 có hiệu lực từ ngày 01/01/2018 nên thực tiễn áp dụng quy định của BLHS chưa nhiều, do đó, trong luận án này, nghiên cứu sinh chủ yếu tập trung phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự của Tòa án nhân dân ở nước ta về chủ thể của tội phạm trong giai đoạn Bộ luật hình sự năm 1999 có hiệu lực pháp luật (từ năm 2009 đến năm 2018). 4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu 4.1. Phương pháp luận nghiên cứu Đề tài Luận án được nghiên cứu dựa trên cơ sở chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, chính sách hình sự của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đường lối đổi mới đất nước, về cải cách tư pháp, chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, về tội phạm và hình phạt, về phòng, chống tội phạm. Đề tài luận án còn được thực hiện trên cơ sở tiếp cận nghiên cứu đa ngành, liên ngành khoa học xã hội, trong đó đặc biệt là các cách tiếp cận triết học, xã hội học, tâm lý học…Đặc biệt, đề tài còn được thực hiện trên cơ sở tiếp cận đa ngành, liên ngành luật học, trong đó đặc biệt là cách tiếp cận xã hội học pháp luật, triết học pháp luật, chính sách pháp luật… 4.2. Phương pháp nghiên cứu Trong quá trình nghiên cứu, luận án sử dụng trong một tổng thể các phương pháp nghiên cứu cụ thể sau đây: - Phương pháp tổng hợp và thống kê. Phương pháp này được tập trung sử dụng trong phần tổng quan tình hình nghiên cứu nhằm tổng hợp, thống kê một cách có hệ thống các công trình khoa học nghiên cứu đã được công bố trong và ngoài nước nghiên cứu hoặc có đề cập nghiên cứu chủ thể của tội phạm. 4 - Phương pháp phân tích. Đây là phương pháp nghiên cứu được luận án sử dụng trong các chương của luận án nhằm phân tích làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, thực trạng quy định và áp dụng pháp luật từ đó đưa ra những nhận định, đánh giá mang tính kết luận. - Phương pháp lịch sử. Phương pháp này được sử dụng để làm sáng tỏ khía cạnh lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam về chủ thể của tội phạm, qua đó làm rõ tính quyết định xã hội và tính kế thừa của quy định pháp luật hình sự về chủ thể của tội phạm và xu hướng phát triển của quy định này trong suốt chiều dài lịch sử phát triển của xã hội Việt Nam, trong đó có pháp luật hình sự. - Phương pháp so sánh. Đây là phương pháp được sử dụng để so sánh quy định của pháp luật hình sự về chủ thể của tội phạm qua các thời kỳ lịch sử phát triển của nước ta. Đồng thời phương pháp này cho phép so sánh quy định của pháp luật hình sự nước ta với quy định của pháp luật hình một số nước về chủ thể của tội phạm, qua đó phát hiện những điểm tương đồng và khác biệt trong các quy định đó và rút ra những kinh nghiệm lập pháp hình sự mà Việt Nam có thể tiếp thu để hoàn thiện quy định về chủ thể của tội phạm. - Phương pháp tổng kết thực tiễn. Đây là phương pháp được sử dụng để nghiên cứu đánh giá thực tiễn quy định và áp dụng pháp luật hình sự về chủ thể của tội phạm qua những kết quả, tài liệu thu thập được trong quá trình nghiên cứu đề tài, qua đó nhận thức sâu sắc hơn những vấn đề thuộc nội dung nghiên cứu của đề tài, nhất là những vấn đề lý luận và quy định của pháp luật về chủ thể của tội phạm. - Phương pháp điều tra án hình sự điển hình. Phương pháp này được sử dụng để thu thập thông tin từ một số vụ án hình sự điển hình nhằm chứng minh cho những nhận xét, kết luận rút ra từ việc nghiên cứu những vấn đề thuộc nội dung nghiên cứu của đề tài luận án. Trong một tổng thể phương pháp luận, các cách tiếp cận và các phương pháp nghiên cứu cụ thể cho phép nghiên cứu sinh hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu và đạt được mục đích nghiên cứu đã đặt ra. 5. Những đóng góp mới về khoa học của luận án Có thể khẳng định, luận án là một trong những công trình nghiên cứu chuyên khảo dưới góc độ Luật hình sự, có sự tiếp thu tri thức của các công trình khoa học đã được công bố trước đây về vấn đề chủ thể của tội phạm, đi sâu phân tích, luận giải một cách có hệ thống và khoa học về những khía cạnh khác nhau có liên quan đến lý luận và thực tiễn đối với chủ thể của tội phạm ở Việt Nam hiện nay. Ở dạng khái quát, đóng góp mới của luận án thể hiện ở những điểm chính sau đây: Thứ nhất, với sự bổ sung nội dung về điều chỉnh pháp luật đối với vấn đề chủ thể của tội phạm, luận án góp phần xây dựng khung lý luận về chủ thể của tội phạm. 5 Thứ hai, luận án góp phần khẳng định vị trí, vai trò và giá trị của cách tiếp cận đa ngành, liên ngành khoa học xã hội nói chung và đa ngành, liên ngành luật học nói riêng trong nghiên cứu chủ thể của tội phạm. Thứ ba, luận án góp phần vào việc xây dựng các cơ sở cho việc hoàn thiện quy định của pháp luật hình sự về chủ thể của tội phạm, xây dựng các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định pháp luật hình sự về chủ thể của tội phạm trong thời gian tới. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án 6.1. Ý nghĩa lý luận Kết quả nghiên cứu của luận án cho phép nhận thức sâu sắc hơn, đầy đủ hơn, thống nhất hơn và chuẩn xác hơn hơn hệ thống tri thức, hiểu biết về chủ thể của tội phạm; cho phép xác định khung lý luận về chủ thể của tội phạm, thiết lập định hướng nghiên cứu mới về chủ thể của tội phạm. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Kết quả nghiên cứu của luận án có thể được vận dụng vào thực tiễn xây dựng và hoàn thiện chính sách hình sự, pháp luật hình sự, cụ thể là quy định về chủ thể của tội phạm. Kết quả nghiên cứu của luận án còn có thể được vận dụng và thực tiễn định tội danh nhìn từ góc độ chủ thể của tội phạm và nghiên cứu, giảng dạy, học tập những nội dung liên quan đến chủ thể của tội phạm. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận án gồm 4 chương: Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu Chương 2. Những vấn đề lý luận và lịch sử hình thành, phát triển các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về chủ thể của tội phạm Chương 3. Quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành về chủ thể của tội phạm và thực tiễn áp dụng Chương 4. Yêu cầu và các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng quy định của Bộ luật hình sự về chủ thể của tội phạm 6 Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 1.1. Tình hình nghiên cứu về chủ thể của tội phạm Bởi tầm quan trọng của mình, vấn đề chủ thể của tội phạm đã và đang thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của các nhà luật học trong và ngoài nước. Chính vì vậy, cho đến nay đã có khá nhiều công trình nghiên cứu hoặc có đề cập nghiên cứu vấn đề chủ thể của tội phạm trong và ngoài nước được công bố ở các cấp độ khác nhau. Việc tổng quan tình hình nghiên cứu chẳng những cho phép nhận diện thực trạng nghiên cứu trong và ngoài nước vấn đề chủ thể của tội phạm mà còn tránh được sự trùng lặp trong nghiên cứu đề tài, nhất là rút ra được những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu hay nghiên cứu mới trong luận án này. Thường thì, các công trình nghiên cứu ở cấp độ luận án tiến sĩ luật học tổng quan theo các công trình nghiên cứu đã công bố ở nước ngoài và các công trình nghiên cứu đã công bố ở trong nước có liên qua đến đề tài, song trong luận án này, nghiên cứu sinh gộp các công trình nghiên cứu đã công bố ở trong nước và ở nước ngoài để tổng quan theo các nhóm vấn đề lớn thuộc nội dung nghiên cứu của đề tài, cụ thể: 1.1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan đến những vấn đề lý luận của chủ thể của tội phạm Một trong những vấn đề lý luận về chủ thể của tội phạm là khái niệm, dấu hiệu, ý nghĩa của chủ thể của tội phạm. Trong thời gian qua, những vấn đề này được đề cập nghiên cứu trong các công trình nghiên cứu ở những cấp độ, mức độ khác nhau. Trước hết, phải kể đến một số công trình nghiên cứu phân tích, luận giải những vấn đề lý luận về hành vi vi phạm pháp luật, về các dấu hiệu của chủ thể của quan hệ pháp luật, về quyền con người, về chính sách hình sự liên quan đến vấn đề chủ thể của tội phạm, cụ thể như: Lê Đình Thể (2006), Áp dụng Chính sách hình sự đối với người chưa thành niên phạm tội, Nxb. Tư pháp, Hà Nội; Phạm Văn Lợi (Chủ biên) (2007), Chính sách hình sự trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam, Nxb. Tư pháp, Hà Nội; Võ Khánh Vinh (Chủ biên) (2011), Quyền con người, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội; Võ Khánh Vinh (2012), Xã hội học pháp luật những vấn đề cơ bản, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội; Nguyễn Minh Đoan (2014), Giáo trình Lý luận về Nhà nước và Pháp luật, Nxb. Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội; Nhóm tác giả Nguyễn Đăng Dung - Vũ Công Giao - Lã Khánh Tùng (Đồng chủ biên) (2015), Giáo trình lý luận Nhà nước và Pháp luật về quyền con người, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội; Trịnh Quốc Toản (2015), Nghiên cứu hình phạt trong luật hình sự Việt Nam dưới góc độ bảo vệ quyền con người (Sách chuyên khảo), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội… Để xác định những vấn đề lên quan đến chủ thể của tội phạm việc nghiên cứu các vấn đề liên quan đến sự phát triển của con người, các yếu tố tác động, ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân cách con người qua 7 đó, tìm hiểu nguyên nhân của việc hình thành, phát sinh những hành vi “lệch chuẩn” ở một số người và lý giải được tầm quan trọng của pháp luật hình sự trong việc quy định về chủ thể của tội phạm trong pháp luật hình sự chính là một trong những nghiên cứu không thể thiếu trong đó phải kể đến các nghiên cứu như: Lê Văn Cương (Chủ biên) (1999), Tâm lý tội phạm và vấn đề chống tội phạm (Lứa tuổi vị thành niên), Nxb. Côn an nhân dân, Hà Nội; Nguyễn Văn Đồng (2012), Tâm lý học phát triển, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. Trong các sách, giáo trình được sử dụng làm tài liệu giảng dạy môn luật hình sự tại các trường đại học, trung cấp chuyên ngành luật luôn có một phần trình bày những vấn đề cơ bản về chủ thể của tội phạm với vai trò là một yếu tố cấu thành tội phạm bắt buộc. Cụ thể như: Lê Cảm (Chủ biên) (2007), “Chương X – Chủ thể của tội phạm: trong quyển Giáo trình Luật hình sự (phần chung)”, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội; Hoàng Văn Hùng (Chủ biên) (2008), “Chương VII – Chủ thể của tội phạm: trong quyển Giáo trình Luật hình sự Việt Nam”, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội; Phạm Văn Beo (2012), “Chương VIII, Chủ thể của tội phạm - trong quyển Luật hình sự Việt Nam (phần chung)”, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Võ Khánh Vinh (Chủ biên) (2014), “Chương IX – Chủ thể của tội phạm: trong quyển Luật hình sự Việt Nam phần chung”, Nxb. Khoa học Xã hội; Nguyễn Ngọc Hòa (Chủ biên) (2016), “Chương VII – Chủ thể của tội phạm: trong quyển Giáo trình Luật hình sự phần chung”, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội; Sách chuyên khảo sau đại học của GS. TSKH. Lê Cảm (2005), “Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự - Phần chung”, Nxb. Đại học Quốc gia, Hà Nội. Ở cấp độ luận văn có luận văn thạc sĩ của: Lê Đăng Doanh (1999), Chủ thể của tội phạm theo luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội; Nguyễn Phú Biền (2015), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ thể chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia, Hà Nội. Trong các công trình nghiên cứu này, các tác giả luôn dành một phần trong nghiên cứu để xem xét, luận giải những vấn đề liên quan đến chủ thể của tội phạm dưới góc độ chủ thể trong cấu thành tội phạm, trong đó các tác giả tập trung phân tích những nội dung cơ bản như khái niệm, dấu hiệu, nội dung… của chủ thể của tội phạm. Theo đó, các tác giả định nghĩa khái niệm và phân tích các dấu hiệu cần và đủ để một người có thể trở thành chủ thể của tội phạm như là độ tuổi, khả năng nhận thức, khả năng điều khiển hành vi (năng lực trách nhiệm hình sự). Đồng thời, các tác giả cũng luận giải các vấn đề khác liên quan đến chủ thể của tội phạm như là vấn đề chủ thể đặc biệt của tội phạm, nhân thân của người phạm tội…Khái niệm và dấu hiệu là những vấn đề đầu tiên được nghiên cứu khi đề cập đến vấn đề chủ thể của tội phạm. Về khái niệm chủ thể của tội phạm, pháp luật hình sự nước ta hiện nay chưa đưa ra một khái niệm trực tiếp, tuy nhiên, vấn đề này được thể hiện một cách gián tiếp thông qua các điều luật với cách thể hiện như là “người phạm tội”. Các công trình nghiên cứu hiện nay cho thấy, các tác giả đều đưa ra định nghĩa về chủ thể của tội phạm trên cơ sở ý tứ chính trong 8 Bộ luật hình sự (BLHS). Tuy nhiên, vẫn có những điểm chưa thống nhất trong các định nghĩa về chủ thể của tội phạm. Về dấu hiệu chủ thể của tội phạm, mặc dù các tác giả có đưa ra các nhận định về dấu hiệu của chủ thể của tội phạm trong các nghiên cứu có thể khác nhau nhưng trong chừng mực nhất định đều có những điểm chung giống nhau, đều có tính hợp lý và có giá trị lý luận riêng. Các kết quả nghiên cứu đều thừa nhận các dấu hiệu bắt buộc phải có của chủ thể của tội phạm và các dấu hiệu đó thuộc về cá nhân người thực hiện hành vi phạm tội bao gồm dấu hiệu độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự (TNHS) và NLTNHS. Ngoài ra, còn có các dấu hiệu khác như là chủ thể đặc biệt, nhân thân người phạm tội…Nhân thân người phạm tội là một trong các yếu tố thuộc nội dung của chủ thể của tội phạm. Nhân thân người phạm tội là một trong những căn cứ của việc quy định trách nhiệm hình sự và quy định hình phạt. Trong thực tiễn xét xử, để bảo đảm cho việc truy cứu trách nhiệm hình sự đúng người, đúng tội thì việc xem xét yếu tố nhân thân của người phạm tội cũng phải được áp dụng một cách chính xác. Do đó, hiện nay cũng có một số công trình nghiên cứu về vấn đề này. Cụ thể: Luận văn thạc sĩ luật học “Nhân thân người phạm tội với việc quyết định hình phạt từ thực tiễn thành phố Hà Nội” của tác giả Nguyễn Bích Huyền, Khoa Luật - Đại học Quốc gia, 2015. Tác giả đã định nghĩa nhân thân người phạm tội trên cơ sở phân tích, tổng hợp các quan điểm khác nhau về nhân thân người phạm tội. Qua đó, luận giải các đặc điểm về nhân thân người phạm tội. Đặc biệt, tác giả chỉ ra mối quan hệ giữa nhân thân người phạm tội với hoạt động quyết định hình phạt trong các trường hợp cụ thể. Trên cơ sở phân tích thực tiễn áp dụng quy định về nhân thân người phạm tội trên địa bàn thành phố Hà Nội, tác giả tìm ra những vi phạm, sai lầm trong việc áp dụng pháp luật, qua đó, đề xuất hệ thống các giải pháp nhằm áp dụng đúng nhân thân người phạm tội trong việc quyết định hình phạt. Trong Luận án tiến sĩ luật học về “Nhân thân người phạm tội trong luật hình sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Thanh Thủy, Viện Nhà nước và Pháp luật - Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, 2005. Tác giả đã giải quyết được những vấn đề lý luận chung về nhân thân của người phạm tội như khái niệm, đặc điểm, cách phân loại nhân thân của người phạm tội; Phân tích nhân thân người phạm tội trong việc quy định trách nhiệm hình sự, nhân thân người phạm tội trong việc quy định hình phạt. Qua đó, tác giả cũng nghiên cứu một cách toàn diện, đầy đủ nhân thân người phạm tội trong thực tiễn truy cứu trách nhiệm hình sự, quyết định hình phạt. Đây là một trong những nghiên cứu mang tính chất chuyên sâu về vấn đề nhân thân của người phạm tội. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu, chuyên khảo đề cập đến vấn đề nhân thân người phạm tội mới chỉ dừng lại ở việc giới thiệu khái quát nội dung của vấn đề, xem xét nhân thân người phạm tội ở các cấp độ khác nhau trong tội phạm học, trong luật hình sự nói chung hoặc về các khía cạnh khác nhau trong một nhóm chủ thể nhất định như người dưới 18 tuổi phạm tội, người phạm tội là phụ nữ. Đặc biệt, chưa có công trình 9 nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện về mối quan hệ giữa chủ thể của tội phạm với nhân thân người phạm tội. Bàn về chủ thể của tội phạm là pháp nhân, hiện nay, có nhiều công trình nghiên cứu về các vấn đề lý luận đối với loại chủ thể này, cụ thể: "Pháp nhân có là chủ thể của tội phạm hay không?" của Phạm Hồng Hải, Tạp chí Luật học, năm 1999, tr. 14-19; “Trách nhiệm hình sự của pháp nhân và mô hình lý luận của nó trong luật hình sự Việt Nam tương lai” của Trịnh Quốc Toản, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 5, năm 2006, tr.52 - 62; "Chủ thể của tội phạm qua so sánh pháp luật hình sự nước ta với pháp luật hình sự một số nước thuộc hệ thống châu Âu lục địa" của Hồ Sỹ Sơn, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 2, năm 2008, tr. 68-72; Trần Văn Độ (2011), Cơ sở thực tiễn của việc quy định TNHS của tổ chức pháp nhân, Tạp chí Khoa học pháp lý, Đại học Luật TP HCM, số 1(62), tr.18 -22; Luận văn thạc sĩ của Phạm Thị Huế (2015),“Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc quy định trách nhiệm hình của pháp nhân đối với các tội phạm về môi trường”, Khoa Luật - Đại học quốc gia. Đặc biệt, phải kể đến đề tài khoa học cấp Bộ của TS. Cao Thị Oanh làm chủ nhiệm: “Nghiên cứu so sánh cơ sở lý luận và thực tiễn của việc áp dụng trách nhiệm hình sự đối với tổ chức”, Hà Nội, 2011. Trong các nghiên cứu, các tác giả luôn bắt đầu bằng việc phân tích các cơ sở lý luận, cơ sở xã hội, cơ sở thực tiễn của việc quy định TNHS của pháp nhân trong pháp luật hình sự Việt Nam. Thông qua việc phân tích các quan điểm khác nhau TNHS của pháp nhân, sự hợp lý và bất hợp lý của các nhóm quan điểm đó, đồng thời, qua phân tích các cơ sở, điều kiện, nhu cầu thực tiễn ở Việt Nam, các tác giả luận giải quan điểm về việc quy định về chủ thể của tội phạm là pháp nhân trong pháp luật hình sự Việt Nam là hợp lý và cần thiết. Trong nhóm các bài viết về vấn đề này cũng cần phải kể đến bài viết của nước ngoài như: Steven D. Levitt, Juvenile Crime and Punishment, The Journal of Political Economy, Vol 106, Issue 6, 1998 (Steven D. Levitt, Tội phạm vị thành niên và hình phạt, Tạp chí Kinh tế chính trị, số 106, ấn bản 6, 1998). Tác giả nhận định, trong hơn hai thập kỷ qua, tình trạng tội phạm bạo lực do người chưa thành niên thực hiện tăng gấp hai lần so với tội phạm này ở tuổi trưởng thành. Đây chính là mối quan ngại hàng đầu của Hoa Kỳ và xây dựng một hệ thống hình phạt phù hợp dành cho đối tượng này đang là ưu tiên hàng đầu cho các nhà lập pháp. Bài viết phân tích mối quan hệ giữa hình phạt và tỷ lệ tội phạm bạo lực đối với thanh thiếu niên. Thêm vào đó, nó xem xét tác động của tính trừng phạt tương đối của hệ thống tư pháp dành cho người trưởng thành so với người chưa thành niên đối với sự thay đổi tỷ lệ tội phạm bạo lực khi trẻ vị thành niên bước sang tuổi trưởng thành. Tác giả phân tích xu hướng phát triển loại tội phạm này trong thời gian trước đó và cho thấy rằng, việc áp dụng các hình phạt theo hướng tăng cường tính trừng phạt, tăng hình phạt, đặc biệt là hình phạt tù (giam giữ) đối với người chưa thành niên phạm tội hoặc hạ thấp độ tuổi mà người phạm tội là 10 người chưa thành niên có thể bị xử… cũng không phải là giải pháp hữu hiệu trong việc kéo giảm tỉ lệ tội phạm bạo lực do người chưa thành niên thực hiện. Từ đó, tác giả khẳng định, cần phải xác định liệu những chính sách dựa trên hình phạt này thực sự có giúp giảm tội phạm bạo lực là người chưa thành niên. Chính vì thế, bắt buộc chúng ta xây dựng một số hiểu biết về sự trừng phạt hiệu quả như thế nào là nhằm ngăn chặn tội ác vị thành niên trong tương lai. Kết quả nghiên cứu cũng là một trong những nguồn tài liệu có giá trị tham khảo trong quá trình xây dựng pháp luật đối với nhóm đối tượng này. Kelly Richards, What makes juvenile offenders different from adult offenders?, Trends and Issues in Crime and Crimenal Justice, No. 409, Australia, 2011 (Kelly Richards, Điều gì tạo nên sự khác biệt giữa tội phạm là người chưa thành niên với tội phạm là người trưởng thành?, Tạp chí Xu hướng và vấn đề tội phạm và pháp lý hình sự, số 409, Australia, năm 2011). Bài viết nghiên cứu sự khác nhau giữa tội phạm là người chưa thành niên với tội phạm là người trưởng thành ở Úc. Hiện nay, ở Úc và ở các nước trên toàn thế giới đều thừa nhận rộng rãi rằng những người phạm tội là người chưa thành niên phải chịu một hệ thống tư pháp hình sự tách biệt với hệ thống tư pháp hình sự của người trưởng thành bởi nhiều lý do, trong đó có lý do quan trọng là sự thiếu kinh nghiệm và không trưởng thành của người chưa thành niên. Như vậy, trẻ vị thành niên thường được xử lý riêng biệt với người lớn và đối xử khác biệt hơn so với người lớn. Bài viết cũng phân tích độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự ở Úc và phân tích trách nhiệm hình sự đối với từng độ tuổi khác nhau. Bài viết chỉ ra rằng, do sự chưa trưởng thành về thể chất và trí tuệ mà người phạm tội là người chưa thành niên lâm vào tình trạng có nguy cơ cao về các vấn đề tâm lý như sức khỏe tâm thần và các chứng có liên quan đến rượu và ma túy vốn có thể dẫn đến tình trạng phạm tội ở lứa tuổi này. Do đó, đây chính là một trong những vấn đề quan trọng mà các nhà làm luật cũng như áp dụng pháp luật cần chú ý. 1.1.2. Các công trình nghiên cứu liên quan đến thực tiễn áp dụng quy định của Bộ luật hình sự về chủ thể của tội phạm Khoa học huật hình sự Việt Nam và khoa học luật hình sự của các nước đều đề cập nghiên cứu các dấu hiệu của chủ thể của tội phạm là cá nhân và của chủ thể của tội phạm là pháp nhân. Đối với chủ thể của tội phạm là cá nhân, dấu hiệu được quan tâm nghiên cứu là độ tuổi chịu TNHS. Độ tuổi chịu TNHS được nghiên cứu dựa trên các tiêu chí khảo sát về tâm, sinh lý của con người, đồng thời dựa trên chính sách hình sự của từng quốc gia. Bên cạnh những sách, giáo trình kể trên, các công trình nghiên cứu ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật cũng đề cập phân tích những vấn đề liên quan đến độ tuổi chịu TNHS được quy định trong pháp luật hình sự Việt Nam, trong số đó có thể kể đến: Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Trần Thị Hoàng Lan (2012),“Những vấn đề lý luận và thực tiễn về tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam”, Khoa Luật - Đại học Quốc Gia Hà Nội; Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Nguyễn Đức Hoàng (2015),“Vấn đề tuổi chịu trách nhiệm hình sự - Lý luận và thực tiễn”, 11 Trường Đại học Luật Hà Nội; Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Thiều Cẩm Sơn (2017), “Tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo pháp luật hình sự Việt Nam”, Học viện Khoa học Xã hội, Hà Nội… Trong các công trình nghiên cứu trên, ở những mức độ và phạm vi khác nhau, các tác giả đều tập trung phân tích khái niệm tuổi chịu trách nhiệm hình sự, các cơ sở quy định tuổi chịu TNHS theo pháp luật Việt Nam. Đặc biệt, các tác giả đều tập trung phân tích các cơ sở lý luận và thực tiễn của việc quy định tuổi chịu TNHS. Đồng thời, các tác giả đều đề cập đến khía cạnh lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam về tuổi chịu TNHS và phân tích các quy định của pháp luật hình sự hiện hành về tuổi chịu TNHS. Trong các công trình nghiên cứu của mình, các tác giả đều khẳng định tuổi chịu TNHS là yếu tố không thể thiếu trong quá trình xem xét truy cứu TNHS đối với người phạm tội. Đồng thời, trên cơ sở phân tích về tuổi chịu trách nhiệm hình sự, các tác giả đưa ra định nghĩa về tuổi chịu TNHS. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu đều tập trung luận giải, phân tích các quy định của pháp luật hình sự Việt nam về tuổi chịu TNHS, chỉ ra những điểm mạnh và những điểm hạn chế trong các quy định đó và những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng và đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về tuổi chịu TNHS. Độ tuổi chịu TNHS cũng được đề cập nghiên cứu trong các công trình nghiên cứu được công bố ở nước ngoài, trong số đó có thể kể đến: G Maher, “Age and criminal responsibility” - Ohio St. J. Crim. L., 2004 - HeinOnline (G Maher , Tuổi và trách nhiệm hình sự - Ohio St. J. Crim. L., 2004 - HeinOnline); Gregor Urbas, “The Age of Criminal Responsibility”, Australian in Stitute of Criminology trends & issues in crime and criminal justice, No. 181, 2000 (Gregor Urbas, "Tuổi chịu trách nhiệm hình sự", Tạp chí Xu hướng Tội phạm Úc và các vấn đề về tội phạm và hình sự, số 181, 2000); M’Naghten’s Case. 10Cl. & Fin. 200. 8 Eng. Rep. 718 (1843); Kennhi, K.: Các cơ sở của luật hình sự, Matsxcơva, 1949 (tiếng Nga); Wayne R. La Fave, Anstin W. Scott. Jr. Substantive criminal law; Courtney Stanhope Kenney, A Selection of cases illustrative of English Criminal Law, London: Cambrige University Press, 1912; O.V. Kecbicôp, M. V. Cockina, R. A. Natgiarôp. A. V. Xnhegiơnhepxki, Tâm thần học, Nxb. “MIR” - Mát-xcơ-va, Nxb. Y học - Hà Nội, 1980… Chẳng hạn, trong bài viết của mình về “tuổi và trách nhiệm hình sự”, G Maher đã tiến hành khảo sát dự án về tuổi chịu trách nhiệm hình sự được thực hiện bởi Ủy ban Luật Scotland và Cơ chế cải cách pháp luật ở Scotland. Ủy ban Luật Scotland và Cơ chế cải cách pháp luật ở Scotland khuyến cáo rằng đối với luật Scots, cần lưu ý đến độ tuổi chịu TNHS theo hướng miễn truy tố và miễn hình phạt đối với một đứa trẻ phạm tội. Bên cạnh đó, tác giả tập trung nghiên khía cạnh lý luận của vấn đề về tuổi chịu TNHS. G Maher cho rằng việc làm rõ khía cạnh lý luận của khái niệm tuổi chịu TNHS là quan trọng hơn cả. Theo ông, điều này chắc chắn tốt hơn so với những trường hợp ngăn ngừa trẻ em tham gia vào vụ án hình sự. Hơn nữa, có những khó khăn trong việc khái niệm hóa tuổi chịu 12 TNHS chỉ đơn giản là về khả năng hoặc sự bất lực của một đứa trẻ đối với hành vi vi phạm của mình. Các vấn đề khác, theo G Maher cũng cần xem xét đó là quan điểm trẻ em không phải là một trong các tiêu chuẩn cần hướng tới của hệ thống tư pháp hình sự. Những lý luận này có xu hướng sử dụng sự tương đồng giữa trẻ em và các trường hợp rối loạn tâm thần, nhưng sự tương tự này là không chính xác. Thay vào đó, nó được lập luận, trẻ em dưới tuổi chịu TNHS, ít nhất, ở một mức độ nào đó cũng phải chịu trách nhiệm về hành động phạm tội của họ. Tuy nhiên, cần lưu ý đến việc đảm bảo rằng trẻ em phạm tội được tiếp xúc với các mục tiêu xã hội đặc biệt của hệ thống tư pháp vị thành niên. Một trong những dấu hiệu của chủ thể của tội phạm được các công trình nghiên cứu đề cập nghiên cứu nhiều là dấu hiệu về năng lực trách nhiệm hình sự. NLTNHS là một trong các dấu hiệu cơ bản để xác định một người có thể phải chịu TNHS về hành vi nguy hiểm của mình hay không. Bởi pháp luật hình sự Việt Nam không ghi nhận khái niệm NLTNHS và cũng không quy định trực tiếp người như thế nào là người có NLTNHS, trong khi lại ghi nhận tình trạng không có NLTNHS, nên trong các công trình nghiên cứu của mình, các tác giả cũng trên cơ sở quy định của BLHS để nghiên cứu về tình trạng không có NLTNHS, qua đó, luận giải về tình trạng có NLTNHS. Chẳng hạn, tác giả Trịnh Tiến Việt, trong “Chương III – Những vấn đề chung về trách nhiệm hình sự: trong quyển Tội phạm và trách nhiệm hình sự”, Nxb. Chính trị Quốc gia, 2013, hoàn toàn đồng tình với cách quy định của BLHS Việt Nam về việc chỉ quy định về “tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự” để làm gọn nhẹ BLHS, bảo đảm kỹ thuật lập pháp hình sự mà vẫn đầy đủ và logic về mặt nội dung khoa học, từ đó tác giả này cũng đưa ra định nghĩa cụ thể về “tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự”. Trên cơ sở quy định của BLHS về tình trạng không có NLTNHS của một người, tác giả Trịnh Tiến Việt khẳng định nguyên nhân trực tiếp dẫn đến tình trạng một người không có NLTNHS là do mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác làm rối loạn hoạt động tâm thần của họ. Từ đó, tác giả này đã luận giải một số nguyên nhân của bệnh tâm thần và các bệnh khác làm rối loạn hoạt động tâm thần. Và tác giả này cũng khẳng định hai dấu hiệu để xác định tình trạng không có NLTNHS là dấu hiệu y học và dấu hiệu tâm lý là những điều kiện cần và đủ để xác định một người ở trong tình trạng không có NLTNHS. Dấu hiệu y học có vai trò như là nguyên nhân và dấu hiệu tâm lý là hậu quả. Tác giả Nguyễn Ngọc Hòa trong sách chuyên khảo “Tội phạm và cấu thành tội phạm”, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2015 đã tiếp cận các quan niệm truyền thống và quan niệm hiện đại về chủ thể của tội phạm. Theo đó, với cách tiếp cận truyền thống về chủ thể của tội phạm, tác giả Nguyễn Ngọc Hòa luận giải và đưa ra định nghĩa về năng lực trách nhiệm hình sự. Nhìn chung, định nghĩa này cũng có những nét chung giống với cách định nghĩa của nhiều tác giả khác, tuy nhiên, điểm khác biệt ở đây chính là việc tác giả khẳng định khái niệm NLTNHS của cá nhân. Đồng thời, ngoài việc đồng quan 13 điểm với các tác giả khác trong việc xác định dấu hiệu của tình trạng có NLTNHS là cá nhân phải thỏa mãn đồng thời cả hai điều kiện về dấu hiệu y học và dấu hiệu tâm lý học, nhưng tác giả cho rằng, tình trạng không có NLTNHS nên được gọi tên là tình trạng không có năng lực lỗi, giống như cách gọi trong BLHS Cộng hòa liên bang Đức thì sẽ phù hợp hơn. Bên cạnh đó, tác giả Nguyễn Ngọc Hòa cũng luận giải về tình trạng năng lực lỗi hạn chế. Đây là trường hợp do mắc bệnh tâm thần nên năng lực nhận thức hoặc năng lực điều khiển hành vi của người mắc bệnh bị hạn chế (tuy chưa bị loại trừ hoàn toàn), họ vẫn có điều kiện để có lỗi nhưng tình trạng năng lực lỗi hạn chế có ảnh hưởng nhất định đến mức độ lỗi. Dấu hiệu chủ thể đặc biệt của tội phạm cũng được các nhà khoa học luật hình sự trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu. Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có công trình nghiên cứu khoa học nào trực tiếp nghiên cứu nội dung này một cách toàn diện, có hệ thống mà chỉ được đề cập nghiên cứu như một phần trong những nghiên cứu về vấn đề chủ thể của tội phạm, một số nghiên cứu lại đề cập đến những nội dung có liên quan đến vấn đề chủ thể đặc biệt. Ở cấp độ luận án tiến sĩ có: Trần Văn Đạt (2012), “Các tội phạm về tham nhũng theo pháp luật hình sự Việt Nam”, Luận án tiến sĩ luật học, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội; Phạm Thị Huệ (2016), “Phòng, chống tham nhũng trong khu vực tư ở Việt Nam hiện nay”, Luận án tiến sĩ luật học, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội; Lê Thị Hồng Thương (2016), “Trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm bạo lực gia đình theo pháp luật hình sự Việt Nam”, Luận án tiến sĩ luật học, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội; Nguyễn Ngọc Tính (2017), “Trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về chức vụ theo pháp luật hình sự Việt Nam”, Luận án tiến sĩ luật học, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội. Ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học có “Tội giết con mới đẻ trong luật hình sự Việt Nam” của tác giả Đoàn Thị Vân, Khoa Luật Đại học Quốc Gia, 2015; “Chủ thể đặc biệt trong luật hình sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thị Hiên, Khoa Luật - Đại học Quốc gia, 2015; "Bàn về chủ thể của tội tham ô tài sản trong Bộ luật hình sự năm 1999" của Trương Thị Hằng. Ngoài ra, còn có một số bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành luật học, trong số đó tác giả Nguyễn Ngọc Minh (2011), "Nghiên cứu phạm vi chủ thể của tội phạm rửa tiền trong Luật hình sự Việt Nam", Tạp chí Dân chủ và pháp luật, tr. 9-14. Trong các công trình nghiên cứu đó, các tác giả đã trực tiếp hoặc gián tiếp phân tích những đặc điểm từ quy định của pháp luật về chủ thể đặc biệt của tội phạm, theo đó, chủ thể đặc biệt của tội phạm được hiểu là một người khi có đủ các điều kiện của một chủ thể bình thường (dấu hiệu chung, phổ biến) như đủ tuổi, có NLTNHS thì trong một số trường hợp họ phải thỏa một số dấu hiệu riêng biệt như về chức vụ, quyền hạn, về giới tính, quan hệ giữa tội phạm và nạn nhân... Từ đó, các tác giả tập trung đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật về chủ thể đặc biệt của tội phạm và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của pháp luật hình sự về chủ thể đặc biệt của tội phạm. 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan