Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Công tác quản lý nhà nước về chi trả bảo hiểm xã hội ở việt nam hiện nay...

Tài liệu Công tác quản lý nhà nước về chi trả bảo hiểm xã hội ở việt nam hiện nay

.DOC
101
312
71

Mô tả:

Mở đầu BHXH được coi là một chính sách cơ bản trong hệ thống chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước ta, nhằm chăm lo đời sống của người lao động góp phần ổn định chính trị, đảm bảo an sinh xã hội, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi để đẩy mạnh tăng trưởng và phát triển kinh tế trong thời kỳ đổi mới đất nước. Để chính sách BHXH thực sự trở thành chính sách lớn như mục tiêu đã đề ra khi xây dựng chính sách thì Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng vấn đề quản lý Nhà nước về lĩnh vực này. Thực hiện công tác quản lý Nhà nước đối với BHXH, chi trả BHXH để làm cho chính sách BHXH thống nhất, hài hoà với các chính sách xã hội khác. Vì vậy trong thời gian qua, chính sách BHXH luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm lãnh đạo, tổ chức thực hiện trong suốt quá trình xây dựng công cuộc cách mạng XHCN ở nước ta. Trước sự quan tâm đó nên chính sách BHXH ở Việt Nam có thể nói là được thực hiện sớm nhất so với các nước trong khu vực với việc ban hành sắc lệnh 29/SL ngày 12/3/1947 của Chính Phủ ấn định những chế độ BHXH đối với công nhân. Và cũng từ đó cơ chế BHXH dần được bổ sung, cải cách ngày càng hoàn thiện với quy luật phát triển của xã hội. Và với việc ban hành điều lệ BHXH mới( Nghị định 12/CP ngày 26/1/1995 của Chính phủ; nghị định 45/CP ngày 15/7/1995 ) chính sách BHXH Việt Nam đã trở thành một cơ chế thống nhất bảo vệ quyền lợi cho người lao động, hoà nhập vào nền kinh tế thị trường mà vẫn giữ vững và phát huy truyền thống nhân ái của dân tộc ta. Đây là kết tinh của quá trình lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ta: Luôn luôn thể hiện quan điểm chính của chính sách BHXH nước ta là vì con người. Và những thành tựu thu được trong những năm đổi mới của nước ta là do có sự đóng góp tích cực của công tác quản lý Nhà nước do Đảng ta lãnh đạo. Qua những thành tựu to lớn của BHXH nước ta đã khẳng định được rằng công tác quản lý nhà nước đối với lĩnh vực này là không thể thiếu và ngày càng trở nên quan trọng để đưa sự nghiệp BHXH nước ta ngày càng hoàn thiện và phát triển hơn. Nhận thức được vấn đề tầm quan trọng và tính cần thiết của vấn đề trên, cùng với sau một thời gian học tập được trang bị cơ sở lý luận và có điều kiện nghiên cứu tìm hiểu thực tế trong thời gian thực tập, em đã tìm hiểu, nghiên cứu và chọn đề tài: “ Công tác quản lý nhà nước về chi trả BHXH ở Việt Nam hiện nay”. Vấn đề này hiện nay đang được nhiều bộ, ngành quan tâm và nghiên cứu, nhưng đối với bản thân em- là một cử nhân kinh tế thì việc nghiên cứu vấn đề này đã thực sự trang bị thêm cho em nhiều kiến thức quan sâu hơn về chuyên ngành mà em đang học. Và em xin được trình bày vấn đề này như sau: Ngoài phần mở đầu và kết luận, kết cấu của chuyên đề thực tập bao gồm ba phần: Phần I. Lý luận chung về BHXH và quản lý nhà nước về chi trả BHXH Phần II. Thực trạng công tác quản lý nhà nước về chi trả BHXH ở Việt Nam hiện nay Phần III. Một số định hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý nhà nước về chi trả BHXH ở Việt Nam hiện nay. Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn nhiệt tình của cô giao hướng dẫn Tô Thị Thiên Hương, cũng như sự giúp đỡ nhiệt tình của toàn thể cơ quan BHXH quận Ba Đình đã hỗ trợ em về tài liệu nghiên cứu để em hoàn thành chuyên đề này. Chương I. lý luận chung về BHXH và quản lý nhà nước về chi trả BHXH I. Lý luận chung về BHXH 1. Sự cần thiết khách quan của BHXH Để có của cải vật chất con người phải lao động, để lao động con người cần phải có sức khoẻ và khả năng lao động nhất định. Trong thực tế cuộc sống không phải người lao động nào cũng có đủ điều kiện về sức khoẻ, khả năng lao động hoặc may mắn khác để hoàn thành nhiệm vụ lao động, công tác hoặc tạo nên cho mình và gia đình một cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Ngược lại không mấy ai tránh khỏi rủi ro, bất hạnh như: ốm đau, tai nạn, già yếu, chết hoặc công việc làm do những ảnh hưởng của tự nhiên, của những điều kiện sống, sinh hoạt và các tác nhân xã hội khác. Khi rơi vào các trường hợp đó, các nhu cầu thiết yếu không vì thế mà mất đi. Trái lại còn tăng thêm, thậm chi còn xuất hiện nhu cầu mới. Bởi vậy, muốn tồn tại con người và xã hội phải tìm ra và thực tế đã tìm ra nhiều cách để giải quyết. Để khắc phục những rủi ro, bất hạnh, giảm bớt khó khăn cho bản thân và gia đình thì ngoài việc tự mình khắc phục, người lao động phải được sự bảo trợ của cộng đồng, tập thể, tổ chức, cơ quan Nhà nước và xã hội. Sự bảo trợ này không thể bằng lời nói, bằng sự động viên thăm hỏi chung chung mà phải bằng nguồn vật chất cần thiết, nhằm phục hồi nhanh chóng sức khoẻ, duy trì sức lao động của xã hội góp phần giảm bớt khó khăn cho bản thân và gia đình người lao động khi gặp khó khăn về thu nhập trong các trường hợp bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, mất việc làm hoặc khó khăn khi về già… Tất cả những cái đó trở thành đe doạ đối với cuộc sống bình thường của người lao động. Tình cảnh này đã đưa đến những hành động tập thể, phát huy truyền thống tương thân, tương ái của giới chủ, giới thợ và của Nhà nước từng bước can thiệp để duy trì lực lượng công nhân cần thiết cho xã hội. Qua nhiều thời kỳ, cùng với sự tranh chấp giữa nhiều vấn đề giữa giới chủ và giới thợ, cùng với sự phát triển của nền kinh tế- xã hội, cùng với trình độ chuyên môn và nhận biết về BHXH của người lao động ngày càng nâng cao, cách chủ động đối phó và khắc phục khi không may xảy ra rủi ro ngày càng hoàn thiện. Tuy nhiên, chỉ đến khi có sự ra đời của BHXH thì tranh chấp cũng như việc giải quyết những khó khăn được giải quyết một cách ổn thoả và có hiệu quả tốt nhất. Đó là cách giải quyết chung nhất cho toàn xã hội loài người trong quá trình phát triển của đất nước. Sự xuất hiện của BHXH là một tất yếu khách quan khi mà mọi thành viên trong xã hội đều cảm thấy sự cần thiết phải tham gia vào hệ thống BHXH; cần thiết phải tiến hành BHXH cho người lao động. Vì vậy, BHXH trở thành nhu cầu và quyền lợi của người lao động; và được thừa nhận là một nhu cầu tất yếu khách quan, một trong những quyền lợi của con người như trong tuyên ngôn nhân quyền của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc họp thông qua ngày 10-12-1948 đã nêu: “ Tất cả mọi người với tư cách là thành viên của xã hội có quyền được hưởng BHXH, quyền đó được đặt trên cơ sở sự thoả mãn các quyền về kinh tế- xã hội và văn hoá, nhu cầu cho nhân cách và sự tự do phát triển con người”. Vậy, BHXH có thể định nghĩa như sau: BHXH là một trong những loại hình bảo hiểm ra đời sớm nhất và được thực hiện khá sớm ở nhiều nước trên thế giới. Cho đến nay hầu như chưa có một định nghĩa chính thống nào về BHXH. Vì vậy, căn cứ vào những đặc điểm nổi bật của BHXH có thể đưa ra một định nghĩa như sau: “ BHXH là sự thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với người lao động khi họ gặp những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trên cơ sở hình thành một quỹ tiền tệ tập trung nhằm đảm bảo cuộc sống cho người lao động và gia đình họ, góp phần bảo đảm an toàn xã hội”. Theo tổ chức lao động quốc tế ( ILO): “ BHXH là sự bảo vệ của xã hội đối với tất cả các thành viên của mình trước những khó khăn về kinh tế xã hội do bị ngừng hoặc bị giảm nhiều về thu nhập gây khó khăn bởi ốm đau, mất khả năng lao động, tuổi già và chết, cung cấp y tê và trợ cấp cho các gia đình đông con”. 2. Bản chất của BHXH BHXH ra đời vào những năm đầu của thế kỷ 19, khi nền công nghiệp và nền kinh tế hàng hoá đã bắt đầu phát triển mạnh mẽ ở các nước Châu Âu. Cho đến nay, dù đã được thực hiện ở nhiều nước trên thế giới nhưng nhìn chung bản chất của các chính sách BHXH ở các nước là tương tự nhau và được thể hiện qua các nội dung sau: - BHXH là nhu cầu khách quan, đa dạng và phức tạp của xã hội, nhất là trong xã hội có nền kinh tế hàng hoá hoạt động theo cơ chế thị trường, có mối quan hệ thuê mướn lao động phát triển đến một mức độ nào đó. Nền kinh tế càng phát triển thì BHXH càng đa dạng hơn, hoàn thịên hơn. Vì thế khi nói kinh tế là nền tảng của BHXH hay BHXH không vượt qua trạng thái kinh tế của mỗi nước. - Mối quan hệ giữa các bên trong BHXH phát sinh từ mối quan hệ ba bên: bên tham gia BHXH, bên được BHXH và bên được BHXH. Bên tham gia BHXH chỉ có thể là người lao động hoặc cả người lao động và người sử dụng lao động. Bên BHXH thông thường là cơ quan chuyên trách do nhà nước lập ra và bảo trợ. Bên được BHXH là người lao động và gia đình họ khi có đầy đủ điều kiện ràng buộc cần thiết. - Những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm trong BHXH có thể chỉ là những rủi ro ngẫu nhiên trái với ý muốn chủ quan của con người như: ốm đau, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp… Hoặc có thể là những trường hợp xảy ra hoàn toàn ngẫu nhiên như: tuổi già, thai sản, … Đồng thời có thể là những biến cố xảy ra trong quá trình lao động. - Phần thu nhập của người lao động có thể bị mất khi gặp phải những biến cố, rủi ro sẽ được bù đắp hoặc thay thế từ nguồn quỹ tập trung hoặc tồn tích lại. Nguồn quỹ này do các bên tham gia BHXH đóng góp là chủ yếu, ngoài ra còn được sự hỗ trợ của Nhà Nước. - Mục tiêu của BHXH là nhằm thoả mãn những nhu cầu thiết yếu của người lao động trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập, mất việc làm. Mục tiêu này được cụ thể hoá như sau: + Đền bù cho người lao động một khoản thu nhập bị mất để đảm bảo nhu cầu sinh sống thiết yếu cho họ. + Chăm sóc sức khỏe và chống lại bệnh tật cho người lao động + Xây dựng điều kiện sống, đáp ứng nhu cầu của dân cư và các nhu cầu đặc biệt của tuổi già, người tàn tật và trẻ em. 3. Vai trò của BHXH 3.1. Đối với người lao động Với tư cách là một chính sách kinh tế- xã hội của đất nước, BHXH góp phần trợ giúp cá nhân những người lao động gặp phải những rủi ro, bất hạnh; khắc phục khó khăn bằng cách tạo cho họ những thu nhập thay thế, những điều kiện lao động thuận lợi…giúp họ ổn định cuộc sống, yên tâm công tác, tạo niềm tin cho họ vào tương lai, từ đó góp phần quan trọng vào tăng năng suất lao động cho các cơ quan, xí nghiệp và toàn xã hội. 3.2. Đối với xã hội Thứ nhất, cần phải khẳng định rằng hoạt động BHXH là một hoạt động dịch vụ, BHXH sản xuất ra những dịch vụ bảo hiểm cho người lao động, một loại dịch vụ mà bất cứ người lao động nào cũng cần đến. Thứ hai, BHXH góp phần tác động trực tiếp đến việc nâng cao năng suất lao động cá nhân cũng như nâng cao năng suất lao động xã hội. Thứ ba, quỹ BHXH với tư cách là một quỹ tiền tệ tập trung, quỹ có tác động mạnh đến hệ thống tài chính ngân sách nhà nước, tới hệ thống tín dụng ngân hàng. Chính vì vậy, vấn đề đặt ra cho quỹ tiền tệ BHXH là phải bảo tồn và phát triển quỹ bằng nhiều hình thức khác nhau trong đó có đầu tư phát triển tiền nhàn rỗi của quỹ BHXH. Việc đầu tư khoản tiền nhàn rỗi của quỹ có tác động không nhỏ tới quá trình phát triển kinh tế của đất nước, tạo công ăn việc làm cho người lao động, giảm bớt gánh nặng cho ngân sách nhà nước, đồng thời tăng tổng sản phẩm quốc nội nói chung và thu nhập cho bản thân người lao động nói riêng. Thứ tư, BHXH góp phần vào việc thực hiện công bằng xã hội, là công cụ phân phối lại thu nhập cho những người tham gia BHXH. Sự phân phối thu nhập này được tiến hành qua hai cách: - Phân phối theo chiều ngang giữa những người khoẻ mạnh và những người già, người đang làm việc và người về hưu, người trẻ tuổi và người lớn tuổi, giữa nam và nữ, giữa người đang hưởng trợ cấp và người chưa được hưởng trợ cấp. - Phân phối theo chiều dọc là mục tiêu quan trọng của chính sách kinh tế- xã hội. Đó là thu nhập giữa những người có thu nhập cao và những người có thu nhập thấp. 4. Đối tượng của BHXH * Đối tượng được BHXH Như chúng ta đã biết, BHXH là một hệ thống đảm bảo thu nhập bị giảm hoặc mất cho người lao động khi bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm vì các nguyên nhân như: ốm đau, tai nạn, già yếu,.. Chính vì vậy, đối tượng được BHXH là thu nhập của người lao động bị biến động giảm hoặc mất do bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm của người lao động tham gia BHXH. Ngoài ra, hiện nay hệ thống còn có thêm cả BHYT, có thêm đối tượng được BHXH là sức khỏe của những người tham gia BHYT. * Đối tượng tham gia BHXH Đối tượng tham gia BHXH là người lao động và người sử dụng lao động. Tuy vậy, tuỳ theo điều kiện phát triển kinh tê- xã hội của mỗi nước mà đối tượng tham gia này có thể là tất cả hoặc chỉ một bộ phận người lao động nào đó. Nếu xét trên mối quan hệ ràng buộc trong BHXH, ngoài người lao động còn có người sử dụng lao động và cơ quan BHXH dưới sự bảo trợ của nhà nước. Người sử dụng lao động góp vào quỹ BHXH là trách nhiệm của họ đối với người lao động mà họ sử dụng, còn cơ quan BHXH nhận đóng góp BHXH của người lao động và người sử dụng lao động là trách nhiệm quản lý, sử dụng quỹ để thực hiện mọi công việc về BHXH đối với người lao động. Mối quan hệ này chính là đặc trưng riêng của BHXH. Nó quyết định sự tồn tại và phát triển của BHXH một cách ổn định và bền vững. 5. Chức năng của BHXH BHXH có các chức năng chủ yếu sau: - Thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động tham gia BHXH khi họ bị mất hoặc giảm thu nhập do mất khả năng lao động hoặc mất việc làm. Đây là chức năng cơ bản nhất của BHXH, nó quyết định nhiêm vụ, tính chất, cơ chế tổ chức và hoạt động của BHXH. - Tiến hành phân phối và phân phối lại thu nhập giữa những người tham gia BHXH. Tham gia BHXH không chỉ là người lao động mà còn có cả người sử dụng lao động. Các bên tham gia đóng góp hình thành nên quỹ BHXH, quỹ này được dùng để chi trả trợ cấp cho một số người tham gia BHXH khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập. Số lượng những người này thường chiềm tỷ lệ nhỏ trong tổng số người tham gia đóng góp. Như vậy, theo quy luật số đông bù số ít, BHXH thực hiện phân phối lại thu nhập theo cả chiều dọc lẫn chiều ngang. - Góp phần kích thích người lao động hăng hái tham gia lao động sản xuất nâng cao năng suất lao động cá nhân và năng suất lao động xã hội. - Phát huy tiềm năng và gắn bó lợi ích giữa người lao động va người sử dụng lao động, giữa người lao động với xã hội. 6. Tính chất của BHXH BHXH là chính sách không thể thiếu trong hệ thống an sinh xã hội của mỗi quốc gia, nó gắn liền với đời sống người lao động. Do vậy, BHXH có một số tính chất cơ bản sau: - Tính tất yếu khách quan trong đời sống xã hội - BHXH có tính ngẫu nhiên, phát sinh không đồng đều theo thời gian và không gian. - BHXH vừa có tính kinh tế vừa có tính xã hội, đồng thời có tính dịch vụ. 7. Một số nguyên tắc của BHXH BHXH là một chính sách không thể thiếu trong hệ thống an sinh xã hội của mỗi quốc gia, nó gắn lion với đời sống của người lao động và cả người sử dụng lao động. Một hệ thống BHXH muốn hoạt động thành công và có hiệu quả thì phải đảm bảo thực hiện một số nguyên tắc sau: - Mọi người lao động trong mọi trường hợp bị giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc mất việc làm đều có quyền hưởng BHXH. - Nhà nước và người sử dụng lao động có trách nhiệm phải BHXH cho người lao động, người lao động phải có trách nhiệm phải tự BHXH cho mình. - BHXH phải dựa trên sự đóng góp của các bên tham gia để hình thành quỹ BHXH độc lập, tập trung. - Nguyên tắc quan trọng trong BHXH là phải lấy số đông bù số ít. - Phải kết hợp hài hoà các lợi ích, các khả năng và phương thức đáp ứng nhu cầu BHXH - Mức trợ cấp BHXH phải thấp hơn mức tiền lương lúc đang đi làm, nhưng thấp nhất cũng phải đảm bảo được mức sống tối thiểu cho người lao động. - Kết hợp giữa bắt buộc và tự nguyện. - Bảo đảm tính thống nhất của BHXH trên phạm vi cả nước, đồng thời phát huy tính đa dạng, năng động của các bộ phận cấu thành. - BHXH phải được phát triển từng bước phù hợp với điều kiện kinh tếxã hội của đất nước trong từng giai đoạn phát triển cụ thể. Mỗi nguyên tắc trên không tồn tại và phát huy tác dụng một cách đơn lẻ, mà chúng vận dụng trong một hệ thống chặt chẽ. Bởi vậy, cần vận dụng chúng một cách tổng hợp và hợp lý vào mỗi vấn đề cụ thể thì mới có thể đạt được hiệu quả như mong muốn. 8. Những quan điểm cơ bản về BHXH Thứ nhất, chính sách BHXH là bộ phận cấu thành và quan trọng nhất của chính sách xã hội của mỗi quốc gia. Mục đích chủ yếu của chính sách này là nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ khi người lao động bị giảm hoặc mất thu nhập do bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm. Thực chất đây là một loại chính sách đối với con người, nhằm đáp ứng những quyền và nhu cầu hiển nhiên của con người đó là : nhu cầu về an toàn việc làm, an toàn lao động, an toàn xã hội,… Chính sách BHXH thể hiện trình độ văn minh, tiềm lực và sức mạnh kinh tế, khả năng tổ chức và quản lý của mỗi quốc gia. Trong một chừng mực nhất định, nó thể hiện tính ưu việt của mỗi chế độ xã hội. Nếu tổ chức và thực hiện tốt chính sách BHXH thì đó sẽ là động lực to lớn phát huy tiềm năng sáng tạo của người lao động trong quá trình phát triển kinh tếxã hội của đất nước. Thứ hai, người sử dụng lao động phải có nghĩa vụ và trách nhiệm BHXH cho người lao động. Người sử dụng lao động ở đây thực chất là các tổ chức, các doanh nghiệp, cá nhân thuê mướn lao động. Người sử dụng lao động phải có trách nhiệm đóng góp vào quỹ BHXH và có trách nhiệm thực hiện đầy đủ các chế độ BHXH đối với người lao động mà họ sử dụng theo đúng pháp luật quy định. Thứ ba, người lao động được bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi đối với BHXH, không phân biệt tôn giáo, nam nữ, nghề nghiệp,.. Mọi lao động trong xã hội đều được hưởng BHXH như tuyên ngôn nhân quyền đã nêu, đồng thời bình đẳng về nghĩa vụ đóng và quyền lợi hưởng trợ cấp BHXH. Tuy nhiên, nghĩa vụ và quyền lợi của người lao động về BHXH còn tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế- xã hội, vào mối quan hệ kinh tế, chính trị, xã hội, lịch sử của mỗi quốc gia. Nhìn chung, khi nền sản xuất phát triển, kinh tế tăng trưởng, chính trị, xã hội ổn định thì người lao động tham gia và được hưởng trợ cấp BHXH ngày càng đông. Thứ tư, mức trợ cấp phụ thuộc vào các yếu tố : + Tình trạng mất khả năng lao động + Tiền lương lúc đi làm của người lao động + Tuổi thọ bình quân của người lao động + Điều kiện kinh tế- xã hội của đất nước trong từng thời kỳ Tuy nhiên, về nguyên tắc mức trợ cấp BHXH phải thấp hơn tiền lương lúc đi làm, nhưng thấp nhất cũng phải đảm bảo mức sống tối thiểu của người lao động. Quan điểm này vừa phản ánh tính cộng đồng xã hội, vừa phản ánh nguyên tắc phân phối lại quỹ BHXH giữa những người lao động tham gia BHXH. Thứ năm, Nhà nước quản lý thống nhất chính sách BHXH, tổ chức bộ máy thực hiện chính sách. BHXH trước tiên là một bộ phận quan trọng của chính sách xã hội, nó vừa là nhân tố ổn định, vừa là nhân tố động lực phát triển kinh tế xã hội. Vì vậy, vai trò quản lý nhà nước rất quan trọng. Thực tế đã cho thấy nếu không có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước thì mối quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động sẽ không được duy trì bền vững, mối quan hệ ba bên trong BHXH bị phá vỡ. Thứ sáu, BHXH thực hiện thông qua một quy trình, từ việc hoạch định chính sách, đảm bảo vật chất đến xét trợ cấp chế độ cho người lao động,.. Do vậy, Nhà nước quản lý toàn bộ quy trình này, hay có những giới hạn về mức độ và phạm vi. Nhà nước sử dụng những công cụ chủ yếu như pháp luật, bộ máy tổ chức để thực hiện quản lý BHXH. Nhìn chung ở hầu hết các nước trên thế giới việc quản lý vĩ mô BHXH được Nhà nước giao cho Bộ lao động hoặc Bộ xã hội trực tiếp điều hành. 9. Quỹ BHXH và mục đích sử dụng 9.1. Nguồn quỹ BHXH * Khái niệm Quỹ BHXH là một quỹ tài chính độc lập, tập trung nằm ngoài ngân sách Nhà nước. Quỹ là tập hợp những đóng góp bằng tiền của các bên tham gia bảo hiểm nhằm mục đích chi trả trợ cấp BHXH và đảm bảo cho hoạt động cho bộ máy BHXH. Mục tiêu cơ bản và lâu dài của quỹ BHXH là hoàn thiện và đảm bảo chính sách BHXH cho tất cả mọi người lao động. Chính vì vậy, công tác xác lập, nâng cao vị thế của quỹ ; bảo đảm sự phát triển của quỹ trong khuôn khổ pháp luật ; bảo đảm sự an toàn, tăng trưởng quỹ và sự tin cậy của quỹ làm yên lòng người lao động tham gia BHXH, góp phần đắc lực đẩy mạnh sự tăng trưởng kinh tế là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của cơ quan BHXH và Nhà nước. * Nguồn hình thành quỹ BHXH Quỹ BHXH được hình thành chủ yếu từ các nguồn sau: - Người sử dụng lao động đóng góp - Người lao động đóng góp - Nhà nước đóng góp và hỗ trợ thêm - Các nguồn khác như: cá nhân và các tổ chức từ thiện đóng góp ủng hộ, lãi do đầu tư quỹ nhàn rỗi,… Trên thế giới hiện nay, quỹ BHXH của các nước đều được hình thành chủ yếu từ các nguồn trên. Tuy nhiên có sự khác nhau trong phương thức đóng góp và mức đóng góp của các bên tham gia: - Về phương thức đóng góp BHXH của người lao động và người sử dụng lao động hiện đang còn tồn tại hai quan điểm: Thứ nhất, là phải căn cứ vào mức tiền lương cá nhân và quỹ lương của cơ quan, doanh nghiệp. Thứ hai, là phải căn cứ vào mức thu nhập cơ bản của người lao động được cân đối chung trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân để xác định mức đóng góp. - Về mức đóng góp BHXH, một số nước quy định người sử dụng lao động phải chịu toàn bộ mọi chi phí cho chế độ tai nạn lao động; Chính phủ trả chi phí cho trợ cấp y tê và trợ cấp gia đình; các chế độ còn lại cả người lao động và người sử dụng lao động phải cùng đóng góp mỗi bên một phần bằng nhau. Một số nước phải quy định khác, chính phủ bù thiếu cho quỹ hoặc chịu toàn bộ chi phí quản lý BHXH,… Bảng1: Mức đóng góp BHXH ở một số nước trên thế giới Tên nước CHLB Đức CH pháp Indônêxia Philipin Malaxia chính phủ Bù thiếu Bù thiếu Bù thiếu Bù thiếu Chi toàn bộ chế độ ốm đau, thai sản Tỷ lệ đóng góp của người lao động so với tiền lương(%) 14,8-18,8 11,82 3.0 2,85-9,25 9,5 Tỷ lệ đóng góp của người lao động so với quỹ lương(%) 16,3-22,6 19,68 6,5 6,85-8,05 12,75 Nguồn: BHXH ở một số nước trên thế giới 9.2. Mục đích sử dụng quỹ BHXH Quỹ BHXH được sử dụng cho hai mục đích sau đây: - Chi trả và trợ cấp cho các chế độ BHXH - Chi phí quản lý sự nghiệp quản lý BHXH Theo khuyến nghị của tổ chức lao động quốc tế( ILO) quỹ được sử dụng để chi trả trợ cấp cho 9 chế độ mà tổ chức này đã nêu lên trong công ước 102 tháng 6 năm 1952 tại Giơnevơ đó là: 1. Chăm sóc y tế 2. Trợ cấp ốm đau 3. Trợ câp tuổi già 4. Trợ cấp thất nghiệp 5. Trợ câp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp 6. Trợ cấp gia đình 7. Trợ cấp sinh đẻ 8. Trợ cấp tàn phế 9. Trợ cấp cho người còn sống( trợ cấp mất người nuôi dưỡng). Chín chế độ trợ cấp này hình thành nên một hệ thống chế độ BHXH. Tuy nhiên, tuỳ vào điều kiện kinh tế- xã hội mà mỗi quốc gia tham gia thực hiện các chế độ ở các mức độ khác nhau, nhưng theo ILO thì ít nhất mỗi quốc gia cũng phải thực hiện 3 chế độ và trong đó bắt buộc phải có một trong 5 chế độ sau: trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp tuổi già, trợ cấp tai nạn và bệnh nghề nghiệp, trợ cấp khi tàn phế, trợ cấp cho người còn sống. Mỗi chế độ trong hệ thống trên khi xây dựng đều phải dựa trên cơ sở kinh tế- xã hội; tài chính; thu nhập; tiền lương; v.v…Đồng thời tuỳ từng chế độ khi xây dựng còn phải tính đến các yếu tố như: sinh học, tuổi thọ trung bình của quốc gia, nhu cầu dinh dưỡng, xác suất tử vong,.. II. Quản lý nhà nước về công tác chi trả BHXH 1. Khái niệm 1.1. Quản lý nhà nước và quản lý nhà nước đối với quỹ tài chính BHXH * Quản lý nhà nước Hiểu theo nghĩa rộng thì quản lý nhà nước là việc thực hiện quyền lực nhà nước về chính trị, kinh tế và hành chính để quản lý công việc quốc gia. Nói một cách khác đó là việc tổ chức thực thi quyền lực nhà nước trong việc quản lý các nguồn lực xã hội và kinh tế phục vụ cho sự phát triển đất nước. Theo nghĩa này quản lý nhà nước bao gồm toàn bộ tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước trong mối quan hệ tương quan của các nhân tố trong xã hội để quản lý có hiệu lực, hiệu quả các công việc của đất nớc. Theo nghĩa hẹp thì việc quản lý tổ chức thực thi quyền hành pháp một cách dân chủ để quản lý các hoạt động kinh tế của đất nước, được thực hiện bởi hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước. Quản lý nhà nước được đề cập đến trong đề tài này là quản lý nhà nước được hiểu theo nghĩa rộng, quản lý nhà nước vừa là hoạt động chấp hành vừa là hoạt động điều hành. Chấp hành là việc thực hiện trên thực tế các văn bản luật của nhà nước. Điều hành là chỉ đạo trực tiếp hoạt động của đối tượng bị quản lý. Trong hoạt động điều hành, cơ quan quản lý có thể áp dụng các hình thức tổ chức có lợi trực tiếp và các hình thức ít mang tính pháp lý khác. Đặc trưng của hoạt động điều hành là các văn bản dưới luật mang tính chất pháp lý thì quyền lực được đảm bảo bằng khả năng áp dụng cưỡng chế, chủ yếu là các văn bản cụ thể. * Quản lý nhà nước đối với quỹ tài chính BHXH Quản lý nhà nước đối với quỹ tài chính BHXH là quá trình tác động và điều hành của nhà nước đối với việc hình thành sử dụng quỹ BHXH nhằm đảm bảo cho việc hình thành và sử dụng quỹ BHXH đúng mục đích, đúng quy định trong việc thực hiện tốt chính sách BHXH. Đồng thời đảm bảo an toàn tài chính cho BHXH, đảm bảo chi trả đúng chế độ, đúng đối tượng hưởng theo quy định của nhà nước. 1.2. Quản lý nhà nước về công tác chi trả BHXH BHXH là chế độ bồi thường kinh tế được xây dựng trên cơ sở sự hỗ trợ lẫn nhau của những người cùng tham gia bảo hiểm về kinh tế- xã hội. BHXH là những chế độ và biện pháp mà Nhà nước hoặc xã hội áp dụng để trợ giúp vật chất cho các thành viên trong xã hội khi họ già yếu, mất khả năng lao động và có những khó khăn đặc biệt khác. Xét về góc độ tài chính thì BHXH là hình thức chủ yếu để tổ chức hình thành và sử dụng quỹ tiền tệ tập trung để cung cấp đảm bảo vật chất cho những người già yếu, mất khả năng lao động và những người có khó khăn đặc biệt khác. Bất kỳ nhà nước nào trên thế giới cũng phải thừa nhận rằng sự nghèo đói của những người dân do ốm đau, tai nạn, thất nghiệp…. gây ra không phải do trách nhiệm của bản thân họ mà còn phải là trách nhiệm chung của toàn xã hội; do đó để giải quyết vấn đề này thì không phảI chi do mỗi người dân mà phải có cả Nhà Nước. BHXH là một chính sách kinh tế xã hội lớn và quan trọng của mỗi quốc gia. Vì vậy, nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng trong các hoạt động của BHXH. Trong suốt quá trình lịch sử hình thành và phát triển của BHXH, nhà nước luôn là nhân tố có ảnh hưởng quan trọng nhất tới định hướng phát triển của ngành. Trong nền kinh tế thị trường ngày nay, hoạt động BHXH không ngừng phát triển cả về nội dung và hình thức tổ chức thực hiện theo hướng đa dạng hoá, xã hội hoá. Do vậy, vai trò của nhà nước ngày càng tăng lên và luôn giữ vai trò quan trọng trong các hoạt động của BHXH. Thông qua các chức năng lập pháp, hành pháp và tư pháp, nhà nước xây dựng các chính sách, pháp luật về BHXH đông thời thực hiện định hướng quản lý và điều hành các hoạt động BHXH trong khuôn khổ pháp luật. Trong đó, chức năng quản lý nhà nước về công tác chi trả BHXH cũng đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Vì: chi trả BHXH cho ngời lao động là một vấn đề quan trọng trong việc thực hiện chính sách BHXH của mỗi quốc gia. Hoạt động này có tác động trực tiếp đến quyền lợi của ngời tham gia BHXH sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ nộp BHXH của mình. Quản lý nhà nước về chi trả BHXH là nhằm xây dựng những chính sách, chế độ, mức hưởng phù hợp cho người lao động. Đồng thời cũng đảm bảo công tác chi trả được thực hiện đúng, kịp thời và chính xác,… để chính sách BHXH thực sự trở thành chính sách an sinh xã hội lớn của đất nước. Vậy có thể định nghĩa công tác quản lý Nhà nước về chi trả BHXH như sau: Quản lý Nhà nước về chi trả BHXH là sự tác động, điều hành của Nhà nước trong việc thực hiện chi trả BHXH cho người lao động nhằm bảo đảm cho công tác chi trả các chế độ BHXH được thực hiện công bằng, kịp thời và hiệu quả, đảm bảo được cuộc sống của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập khi gặp rủi ro hoặc mất khả năng lao động. 2. Mục tiêu của công tác quản lý nhà nước về chi trả BHXH Cũng như các hoạt động quản lý khác, công tác quản lý nhà nước về chi trả BHXH được khởi đầu với việc xác định mục tiêu. Đây là căn cứ đầu tiên của quá trình quản lý. Hơn nữa, BHXH là một chính sách an sinh xã hội lớn nhằm mục đích bảo đảm cuộc sống cho người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do giảm hoặc mất khả nămg lao động, mất việc làm. Do đó, trong lĩnh vực quản lý nhà nước về chi trả BHXH, các mục tiêu chỉ ra phương hướng, yêu cầu số lượng cho hoạt động quản lý nhà nước nhằm giải quyết các vấn đề cơ bản trong công tác chi trả BHXH. Như vậy, quản lý nhà nước về công tác chi trả BHXH là nhằm các mục tiêu sau: - Đảm bảo và ổn định thu nhập cho người lao động khi họ gặp những biến cố làm giảm hoặc mất thu nhập. Làm cho công tác chi trả BHXH thực sự có ý nghĩa và cần thiết đối với người lao động khi họ gặp khó khăn. - Đảm bảo sự công bằng trong công tác chi trả BHXH cho ngời lao động - Đảm bảo cho công tác chi trả phảI kịp thời, chính xác, đúng đối tượng, đúng chế độ chính sách BHXH - Đảm bảo sự cân đối của quỹ tài chính BHXH - Tránh tình trạng trục lợi BHXH 3. Đối tượng của quản lý nước về chi trả BHXH 3.1. Cơ quan quản lý nhà nước về chi trả BHXH BHXH trên thế giới đã có sự phát triển từ lâu đời và đa dạng. Các nước có bộ máy chính trị khác nhau thì có mô hình tổ chức quản lý Nhà nước về BHXH cũng như quản lý nhà nước về chi trả BHXH cũng khác nhau. Nhìn chung, hầu hết các nước trên thế giới, việc quản lý vĩ mô BHXH đều được Nhà nước giao cho Bộ Lao Động hoặc Bộ Xã Hội trực tiếp điều hành. Bộ tài chính kiểm soát hoạt động tài chính, Bộ Y Tế giám sát chăm sóc y tế. Hoạt động chuyên trách về quản lý nghiệp vụ thường có một hệ thống riêng. Và công tác quản lý Nhà nước về chi trả BHXH cũng do Bộ Lao Động Thương Binh và Xã Hội hoạch định chính sách chi trả, Bộ Tài Chính quản lý tài chính chi trả BHXH, các bộ ban nghành có liên quan như bộ Quốc Phòng, bộ Công An, Bộ Nội Vụ,…cùng nhau thực hiện chức năng hướng dẫn, kiểm tra công tác thực hiện chi trả BHXH cho người lao động. 3.2. Đối tượng bị quản lý Các cơ quan quyền lực nhà nước về BHXH, chi trả BHXH thực hiện chức năng quản lý nhà nước của mình bằng cách chi phối, tác động lên các chủ thể như : cơ quan BHXH các cấp , đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội, đối tượng hưởng BHXH- đó chính là đối tượng bị quản lý nhà nước về chi trả BHXH. - Cơ quan BHXH các cấp : Có nhiệm vụ nhận sự đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động, phải có trách nhiệm quản lý, sử dụng quỹ để thực hiện mọi công việc về BHXH đối với người lao động. - Đối tượng tham gia BHXH: Là người lao động, chủ sử dụng lao động tham gia vào hệ thống BHXH. Người lao động tham gia vào hệ thống BHXH là nhằm bảo hiểm cho mình; người sử dụng lao động tham gia vào hệ thống là mục đích bảo hiểm cho người lao động mà mình thuê mướn. Tuỳ vào điều kiện phát triển kinh tế- xã hội cụ thể của mỗi nước mà đối tượng này có thể là tất cả hoặc một bộ phận người lao động nào đó. - Đối tượng hưởng BHXH: là người lao động và thân nhân của họ khi bị biến động giảm hoặc mất thu nhập do người lao động bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm vì các nguyên nhân: ốm đau, tai nạn, già yếu,.. Tất cả các đối tượng trên đều chịu sự quản lý của các cơ quan Nhà nước trong quá trình thực hiện BHXH, chi trả BHXH. 4. Nội dung của công tác quản lý nhà nước về chi trả BHXH BHXH là một chính sách lớn của đảng và nhà nước, việc thực hiện tốt chính sách BHXH có ý nghĩa to lớn góp phần đảm bảo cho sự phát triển sản xuất, đảm bảo công bằng, ổn định chính trị, trật tự an toàn và tiến bộ xã hội. Do đó, công tác quản lý nhà nớc về BHXH nói chung, công tác quản lý nhà nước về chi trả BHXH nói riêng có vai trò rất lớn trong việc thực hiện tiêu trên. Vậy công tác quản lý nhà nớc trong chi trả BHXH cần phải thực hiện một số nội dung sau: 4.1. Xây dựng dự án luật, các văn bản pháp quy về thực hiện chi trả BHXH Luật là công cụ quản lý chủ yếu của mỗi quốc gia, mỗi lĩnh vực, mỗi ngành nghề trong xã hội. Và BHXH cũng vậy, cần phải có luật về BHXH, các văn bản pháp quy về BHXH. Bên cạnh đó, trong quá trình thực thi chính sách chi trả BHXH thì sẽ có một số bất cập nảy sinh, đòi hỏi phải được điều chỉnh bằng những chế định pháp luật rõ ràng, cụ thể có tính hiệu quả cao. Tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của mỗi nớc mà luật pháp về BHXH có những quy định khác nhau.Có nước ban hành một hoặc nhiều đạo luật riêng vê BHXH. Có nước lại ban hành luật BHXH nằm trong các loại luật như: Luật lao động, luật công chức, luật dân sự….Ngoài luật về BHXH, ở nhiều nước còn có các văn bản do nhà vua, tổng thống, thủ tướng ban hành các văn bản pháp quy về BHXH. Chẳng hạn như ở nước ta: Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã ban hành các sắc lện 76/Sl, 77/SL ấn định chế độ BHXH đối với công nhân viên chức và lực lượng vũ trang nhân dân và một số văn bản do Thủ Tướng ban hành như các quyết định về việc thực hiện BHXH,…v.v Và trong công tác quản lý nhà nước về chi trả BHXH thì việc xây dựng, ban hành các văn bản pháp quy về chi trả là rất cần thiết và quan trọng để nhà nước thực hiện chức năng quản lý của mình. 4.2. Hoạch định chính sách chi trả BHXH Việc hoạch định chính sách chi trả BHXH là khâu rất quan trọng trong quản lý nhà nước về chi trả BHXH. Trong công tác hoạch định chính sách chi trả BHXH thì tính toán mức trợ cấp cho các chế độ, xác đinh đối tượng hưởng, thực hiện chi trả trợ cấp BHXH. Tiếp đến là phạm vi các chế độ hưởng: ốm đau, thai sản, …sau đó là mức độ, hình thức đảm bảo vật chất: mức độ trợ cấp; điều kiện trợ cấp BHXH. Trong khi xây dựng mức chi trả các chế độ BHXH cần phải căn cứ được tính toán dựa trên nhiều yếu tố cấu thành, nhưng yếu tố quan trọng nhất là mức đóng của người lao động trong thời giant ham gia BHXH trước đó. Khi ban hành các chế độ cần xem xét những loại chế độ nào được trả định kỳ thường xuyên vĩnh viễn, chi trả thường xuyên tạm thời, chi trả một lần,.. Tuy nhiên, phần lớn các chế độ nên thực hiện chi trả định kỳ. Việc đưa ra phương thức chi trả này là nhằm ổn định một cách tốt nhất cuộc sống cho người lao động. Việc hoạch định chính sách chi trả BHXH nó liên quan trực tiếp đến các vấn đề quản lý, sử dụng lao động, thu nhập, thuế và bảo đảm xã hội. Bên cạnh đó trong hoạch định chính sách chi trả BHXH nó còn phụ thuộc vào điều kiện kinh tế- xã hội của đất nước trong từng thời kỳ. Tuy nhiên, trong công tác hoạch định chính sách về chi trả BHXH phải chú ý đến điều kiện sống của người lao động,phải đảm bảo cho họ có mức sống tối thiểu, thoả mãn các nhu cầu thiết yếu của cuộc sống. Để hệ thống các chính sách BHXH nói chung và chính sách chi trả BHXH nói riêng ngày càng hoàn thịên và ngày càng thiết thực, đảm bảo được cuộc sống cho người lao động thì việc quản lý nhà nước trong việc hoạch định chính sách là cần thiết và quan trọng. 4.3. Xác định các chế độ trợ cấp BHXH phù hợp với các loại đối tượng khác nhau Việc xác định các loại chế độ trợ cấp BHXH là rất quan trọng trong hoạch định và thực hiện chính sách BHXH của mỗi quốc gia. Một chế độ BHXH cũng như mọi quy định pháp lý đều phải được xây dựng một cách chặt chẽ, tránh tình trạng lạm dụng, nhng đồng thời cũng không gây tổn hại lợi ích vật chất, tinh thần của các bên tham gia BHXH. Ngoài ra khi nhà nước xây dựng một chế độ chính sách về BHXH cũng cần phải quan tâm tới công ước của liên hợp quốc. Để xây dựng một chế độ phải xác định các yếu tố sau: Đối tượng hưởng BHXH, các trờng hợp được hưởng, điều kiện hưởng, mức trợ cấp và thời hạn hưởng trợ cấp. 4.4. Nhà nước quy định việc sử dụng quỹ BHXH, điều kiện và mức trợ cấp BHXH trong công tác chi trả BHXH * Việc quy định sử dụng quỹ BHXH Quỹ BHXH được hình thành nhằm mục đích chi trả các chế độ trợ cấp cho các chế độ BHXH. Để công tác chi trả BHXH được thực hiện tốt thì việc nhà nước quy định mục đích sử dụng quỹ, công tác quản lý quỹ BHXH là rất quan trọng. Công tác quản lý sử dụng quỹ tốt thì sẽ thiết lập được một nền tài chính của BHXH an toàn, vững mạnh,… là cho công tác chi trả BHXH được thực hiện tốt hơn. Chính vì vậy mà nhà nước cần phải có những quy định pháp lý trong việc sử dụng quỹ để chi trả cho người lao động hưởng trợ cấp BHXH. * Xác định điều kiện hưởng và mức trợ cấp BHXH Để xây dựng được điều kiện hưởng và mức trợ cấp BHXH, phải dựa trên nhều căn cứ khác nhau, nhưng cơ sở chung nhất có thể gồm các nhu cầu cần thiết trong trường hợp được BHXH và các cơ sở kinh tế xã hội. Đó là: - Về việc xác định điều kiện hưởng thì phảI căn cứ vào: điều kiện sinh học, điều kiện lao động và môi trường, điều kiện kinh tế- xã hội, điều kiện quan hệ tài chính BHXH. - Về việc xác định trợ cấp BHXH thì cơ sở làm căn cứ xác định trợ cấp BHXH là: những chi phí cần thíêt để đáp ứng nhu cầu BHXH trong từng trường hợp, mức độ giảm hoặc mất thu nhập do giảm hoặc mất khả năng lao động, điều kiện lao động và môI trường sống, mức thu nhập theo nghề nghiệp của người lao động, mức sống của dân cư, mức và thời hạn đóng phí BHXH. 4.5. Nhà nước kiểm tra, kiểm soát và hướng dẫn công tác chi trả BHXH Song song với các công tác trên thì công tác kiểm tra, kiểm soát và hướng dẫn việc thực hiện chi trả các chế độ BHXH của nhà nước là không thể thiếu. Nhà nước phải thường xuyên thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra các hoạt động chi trả BHXH đến tay người lao động. Việc kiểm tra, thanh tra thực hiện của nhà nớc sẽ đảm bảo cho việc thực hiện chi trả BHXH luôn luôn đợc thực hiện tốt: chi trả đúng chế độ, đúng đối tượng tránh tình trạng gian lận, trục lợi, làm không đến nơi trong việc thực hiện tổ chức chi trả BHXH. Đồng thời trong công tác quản lý nhà nớc cũng phải có hướng dẫn việc thực hiện các chính sách, chế độ BHXH đã đưa ra trong đó có công tác chi trả BHXH. Bên cạnh đó, công tác chi trả BHXH là rất phức tạp, nó gắn với quyền lợi và lợi ích của ngời lao động khi họ đã tham gia đóng góp vào BHXH. Vì vậy, thanh tra, kiểm tra các hoạt động chi trả BHXH là nhằm đảm bảo cho các bên liên quan thực hiện đúng nghĩa vụ và trách nhiệm của mình trong công tác chi trả BHXH, đồng thời cũng nhằm đảm bảo quyền lợi hợp pháp cho người lao động. Các hoạt động thanh tra, kiểm tra thường bao gồm: thanh tra, kiểm tra việc thực hiện chi trả BHXH cho ngời lao động của cơ quan BHXH, các trường hợp chi trả có đúng với quy định không, thanh tra hoạt động tài chính của BHXH,… Đây là một hoạt động có tính chất thờng xuyên trọng quản lý nhà nước về BHXH nói chung và quản lý nhà nước về công tác chi trả nói riêng. 4.6. Nhà nước bảo hộ cho quỹ BHXH trong công tác chi trả BHXH BHXH là một chính sách an sinh xã hội, không phải vì mục đích sinh lời. Vì vậy, ngoài quỹ BHXH được dùng để chi trả BHXH thì còn có sự bù thiếu của ngân sách nhà nước. Việc nhà nước bảo hộ cho quỹ BHXH sẽ tạo điều kiện để công tác chi trả trợ cấp BHXH cho người lao động được đảm bảo hơn, làm cho người lao động yên tâm hơn. Sự bảo hộ, bảo trợ của nhà nước cho quỹ thể hiện ở một số điểm sau: đảm bảo giá trị của quỹ tài chính BHXH trong các tài khoản tại ngân hàng để đảm bảo mức chi trả cho đối tượng hưởng BHXH, bảo đảm các trợ cấp BHXH cho các đối tượng hưởng trước những biến động kinh tế- xã hội và chính trị; bảo hộ cho quỹ tài chính BHXH trong hoạt động đầu tư bảo toàn và tăng trưởng quỹ. Nhà nước ưu tiên cho quỹ tài chính được đầu tư phần nhàn rỗi vào lĩnh vực an toàn, rủi ro thấp nhất và thuận lợi khi thu hồi vốn để kịp thời chi trả các khoản chi BHXH khi có nhu cầu lớn; bảo trợ về tài chính cho quỹ tài chính BHXH trong trường hợp quỹ bị thâm hụt vì những lý do bất khả kháng… nhằm đảm bảo chi trả cho các chế độ BHXH luôn luôn kịp thời. 5. Công cụ quản lý nhà nước về chi trả BHXH Nhà nước với vai trò quản lý, điều hành xã hội, có rất nhiều công cụ để thực hiện chức năng của mình. Đối với mỗi đối tượng quản lý khác nhau nhà nước sử dụng các công cụ khác nhau. Các công cụ chủ yếu của nhà nước nhằm quản lý chi trả BHXH là: 5.1. Văn bản pháp quy Để thực hiện chức năng quản lý của mình thì luật là một công cụ quan trọng nhất và được sử dụng phổ biến nhất; đặc biệt là trong chức năng quản lý chi trả BHXH. Hệ thống các văn bản luật về BHXH nói chung và về công tác
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan