BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THĂNG LONG
CAO THỊ HOÀNG VÂN - C00245
CÔNG TÁC XÃ HỘI ĐỐI VỚI VIỆC PHÁT HUY
TÍNH TÍCH CỰC CỦA NHÓM CÁN BỘ CAO TUỔI
HƯU TRÍ TẠI CÂU LẠC BỘ THĂNG LONG,
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CÔNG TÁC XÃ HỘI
MÃ SỐ : 60 90 01 01
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS. TS Đặng Cảnh Khanh
HÀ NỘI - 2016
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Người cao tuổi là những người có độ tuổi từ 60 tuổi trở lên
(Luật người cao tuổi, 2009), chiếm 10% dân số của Việt Nam. Trong
những năm gần đây, quá trình phát triển dân số đang bước vào giai
đoạn già hóa dân số, điều đó đồng nghĩa với việc tỷ lệ người cao tuổi
trên 60 tuổi ngày càng đông hơn trong xã hội.
Người cao tuổi là một trong nhóm yếu trong xã hội, sau một
quãng dài trong cuộc đời, sức khoẻ họ sẽ bị suy yếu một cách rõ nét
do ảnh hưởng của quá trình lão hóa. Sức khoẻ là vấn đề quan trọng,
có ảnh hưởng lớn đến cuộc sống của người cao tuổi.
Cùng với quá trình lão hóa, quá trình thay đổi về sinh lý, tâm lý
con người trong giai đoạn cao tuổi cũng có rất nhiều vấn đề nổi bật.
Hơn nữa, bước vào giai đoạn cao tuổi đồng nghĩa là con người
bước vào giai đoạn nghỉ ngơi. Tuy nhiên chỉ có một số ít người cao
tuổi có điều kiện kinh tế khá giả: Cán bộ, viên chức nhà nước nghỉ
hưu, sự hỗ trợ của con cháu…Còn lại đa số người tuổi, nhất là những
người neo đơn đều gặp phải những khó khăn về kinh tế do sự suy
giảm của thu nhập. Trong khi đó các nhu cầu của người cao tuổi,
nhất là khám chữa bệnh hay chế độ dinh dưỡng đòi hỏi những chi phí
nhất định…
Trên thế giới, các mô hình trợ giúp người cao tuổi khá phổ biến,
đặc biệt ở các nước châu Âu. Tại các nước có nền kinh tế phát triển,
khi dân số già đi sẽ gia tăng nhu cầu về các dịch vụ chăm sóc cho
người già và trung tâm dưỡng lão đã trở thành nơi bầu bạn cùng chia
sẻ và được chăm sóc y tế tốt nhất.
Chính vì vậy, người cao tuổi nói chung và nhóm người cao tuổi
về hưu ngày càng trở thành một vấn đề cần quan tâm của xã hội, đặc
biệt từ góc độ chính sách và công tác xã hội nhằm có những biện
pháp giúp đỡ.
Nhóm người cao tuổi, đặc biệt là cán bộ lão thành cách mạng và
hưu trí có nhiều thành tích đóng góp trong mọi lĩnh vực phát triển
kinh tế- xã hội của đất nước. Thực tế cho thấy, bề dày tri thức, kinh
nghiệm của nhóm cán bộ hưu trí là tài sản quý của cộng đồng và xã
hội. Phần đông trong số họ khi còn đủ sức khoẻ và điều kiện, ngay cả
sau khi nghỉ hưu họ vẫn tìm cơ hội để tiếp tục lao động, cống hiến,
sáng tạo trong cộng đồng với nhiều hình thức và cấp độ khác nhau
1
tạo ra nhiều hoạt động mang ý nghĩa thiết thực đối với sự phát triển
chung.
Bên cạnh các vấn đề y tế, chăm sóc sức khoẻ cho người cao
tuổi, việc xây dựng cơ chế đối với các hoạt động công tác xã hội tại
cộng đồng nhằm phát huy khả năng lao động, cống hiến của người
cao tuổi không chỉ đem lại niềm vui cho các cụ (sống vui, sống khoẻ,
sống có ích) mà còn đem lại thành quả, lợi ích xã hội từ các sản
phẩm vật chất và tri thức do người cao tuổi làm ra.
Câu lạc bộ Thăng Long là một trong những mô hình hoạt động
của người cao tuổi và công tác xã hội đối với người cao tuổi đầu tiên
ở nước ta, đươ ̣c thành lập năm 1978. Đây là nơi sinh hoạt, mái nhà
chung của những cán bộ trung, cao cấp của Trung ương và thành phố
Hà Nội sau khi hoàn thành nhiệm vụ, về nghỉ hưu. Những hoạt động
của câu lạc bộ góp phần quan trọng nhằm củng cố, nâng cao nhận
thức và tăng cường niềm tin vào sự nghiệp của Đảng, Nhà nước và
công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy
nhiên, CLB Thăng Long vẫn chưa đáp ứng hết được những nhu cầu
của những thành viên như mặt đời sống tinh thần, một số thành viên
chưa có tiếng nói trong CLB, vai trò của một số người chưa được
phát huy… Vì vậy, để hoàn thiện hơn các hoạt động cũng như đưa
CLB trở thành một trung tâm chuẩn đầu tiên điển hình về người cao
tuổi ở Việt Nam cần có những biện pháp can thiệp của CTXH.
Chính từ thực tế trên, chúng tôi lựa chọn chủ đề nghiên cứu
“Công tác xã hội đối với việc phát huy vai trò tích cực của nhóm
cán bộ cao tuổi hưu trí tại Câu lạc bộ Thăng Long Hà Nội”. Qua
chủ đề nghiên cứu này, chúng tổi muốn nghiên cứu thực trạng, đề
xuất giải pháp phát huy vai trò người cao tuổi qua các mô hình công
tác xã hội không chỉ góp phần cải thiện, đem lại hiệu quả cao hơn
cho các mô hình công tác xã hội nói chung mà còn góp phần nâng
cao các hoạt động của ngành công tác xã hội hướng tới phát huy khả
năng lao động, cống hiến của nhóm cán bộ hưu trí cao tuổi, vì mục
tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích
Nghiên cứu, đánh giá thực trạng hoạt động công tác xã hội trong
việc phát huy tích cực vai trò tích cực của nhóm cán bộ hưu trí cao
tuổi tại câu lạc bộ Thăng Long từ đó đề xuất các giải pháp, khuyến
2
nghị nâng cao hiệu quả của các mô hình công tác xã hội đối với
người cao tuổi.
2.2. Nhiệm vụ
Thứ nhất, luận văn sử dụng các lý thuyết cơ bản của ngành
công tác xã hội, các lý thuyết liên ngành có liên quan, quan điểm
Mác - Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về các hoạt động công tác xã
hội đối với người cao tuổi. Luận văn cũng thao tác hóa và làm rõ các
khái niệm cơ bản sử dụng trong nghiên cứu này như: người cao tuổi,
tuổi nghỉ hưu, cán bộ hưu trí, vai trò và phát huy vai trò người cao
tuổi, công tác xã hội đối với người cao tuổi.
Thứ hai, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu định
tính, phỏng vấn sâu, thu thập, phân tích các nguồn tài liệu khác làm
rõ thực trạng công tác xã hội hướng đến phát huy vai trò tích cực của
cán bộ hưu trí cao tuổi tại mô hình câu lạc bộ Thăng Long, các yếu
tố chủ quan và khách quan tác động, đặc biệt là các vấn đề về cơ chế,
chính sách, so sánh biểu hiện của cơ chế, chính sách thông qua các
loại hình công tác xã hội khác đối với người cao tuổi
Thứ ba, từ kết quả phân tích thực trạng, luận văn tập trung
nghiên cứu, đề xuất các giải pháp, khuyến nghị góp phần nâng cao
hiệu quả hoạt động công tác xã hội, phát huy vị thế, vai trò của người
cao tuổi về hưu trong hoạt động lao động, cống hiến cho sự nghiệp
phát triển đất nước.
3.Tổng quan vấn đề nghiên cứu
Trên thế giới, vấn đề người cao tuổi đã được quan tâm từ rất
lâu ở các nước phát triển, qua đó xây dựng được những mô hình công
tác xã hội chăm sóc người cao tuổi phù hợp với từng quốc gia. Tuy
nhiên ở các nước đang phát triển, trong đó có châu Á, vấn đề người
cao tuổi cho tới nay mới bắt đầu thu hút được sự quan tâm của nhiều
chuyên gia và nhà nghiên cứu.
5. Đối tượng nghiên cứu
Công tác xã hội đối với việc phát huy vai trò tích cực của cán bộ
hưu trí cao tuổi
6. Khách thể nghiên cứu
Nhóm khách thể nghiên cứu chính là cán bộ hưu trí cao tuổi
(trên 60 tuổi) đang sinh hoạt tại câu lạc bộ Thăng Long.
Ngoài ra, luận văn sẽ nghiên cứu các nhóm khách thể nghiên cứu
khác có liên quan đến chủ đề nghiên cứu như nhóm các nhà quản lý,
hoạch định chính sách đối với người cao tuổi, nhóm lãnh đạo chính
3
quyền, đoàn thể địa phương, nhóm quản lý câu lạc bộ, nhóm những
người làm công tác xã hội đối với người cao tuổi.
7. Câu hỏi nghiên cứu
Người cao tuổi là cán bộ hưu trí sinh hoạt tại câu lạc bộ Thăng
Long hiện nay đang có vai trò gì, đóng góp gì trong các hoạt động
cộng đồng
Công tác xã hội đối với việc phát huy vai trò tích cực của cán bộ
hưu trí cao tuổi tại câu lạc bộ Thăng Long hiện nay đang được triển
khai, thực hiện như thế nào
Cần những giải pháp gì để nâng cao chất lượng, hiệu quả của công
tác xã hội đối với việc phát huy vai trò tích cực của cán bộ hưu trí
cao tuổi tại câu lạc bộ Thăng Long
8. Giả thuyết nghiên cứu
Vai trò cán bộ hưu trí cao tuổi biểu hiện qua hoạt động xã
hội tiếp tục lao động, cống hiến, hoạt động vui chơi giải trí, sinh hoạt
cộng đồng, hoạt động tuyên truyền, vận động tạo ra sự đồng thuận
của nhân dânvới các chính sách của Đảng, nhà nước là hiện tượng
khá phổ biến của người cao tuổi tại câu lạc bộ Thăng Long.
Hoạt động xã hội của cán bộ hưu trí cao tuổi là hoạt động có
tổ chức, phong phú, đa dạng theo nhiều lĩnh vực, nhiều cấp độ khác
nhau, phụ thuộc vào khả năng, điều kiện, mong muốn bản thân người
cao tuổi, phụ thuộc vào mô hình tổ chức, hoạt động của câu lạc bộ
Thăng Long và đơn đặt hàng của xã hội.
9. Phạm vi nghiên cứu
Về thời gian: từ năm 2015 - 2016
Về không gian: địa bàn thành phố Hà Nội.
10. Phương pháp nghiên cứu
10.1 Phương pháp phân tích tài liệu
10.2. Phương pháp điều tra Xã hội học
10.3. Phương pháp công tác xã hội
4
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ LÝ THUYẾT ÁP DỤNG
1.1. Khái niệm nghiên cứu
1.1.1. Công tác xã hội
CTXH là sự vận dụng các lý thuyết khoa học về hành vi con
người và hệ thống xã hội và thúc đẩy sự thay đổi lieen quan đến vị
trí, địa vị, vai trò của cá nhân, nhóm, cộng đồng người yếu thế nhằm
tới sự bình đẳng và tiến bộ xã hội.
CTXH còn là một dịch vụ chuyên môn hóa, góp phần giải
quyết những vấn đề xã hội liên quan đến con người nhằm thỏa mãn
các nhu cầu căn bản của những cá nhân, nhóm, cộng đồng xã hội;
mặt khác, góp phần giúp cá nhân tự nhận thức về vị trí, vai trò xã hội
của chính mình.
1.1.2 Công tác xã hội nhóm
Công tác xã hội nhóm trước hết phải được coi là một phương
pháp can thiệp của công tác xã hội. Đây là một tiến trình trợ giúp mà
trong đó các thành viên trong nhóm được tạo cơ hội và môi trường
có các hoạt động tương tác lẫn nhau, chia sẻ những mối quan tâm
hay những vấn đề chung, tham gia vào các hoạt động nhóm nhằm đạt
tới mục tiêu chung của nhóm và hướng đến giải quyết những mục
đích của cá nhân thành viên giải tỏa những vấn đề khó khăn. Trong
hoạt động công tác xã hội nhóm, một nhóm thân chủ được thành lập,
sinh hoạt thường kỳ dưới sự điều phối của người trưởng nhóm (có
thể là nhân viên xã hội và có thể là thành viên của nhóm) và đặc biệt
là sự trợ giúp, điều phối của nhân viên xã hội (trong trường hợp
trưởng nhóm là thành viên của nhóm).
1.1.3
Khái niệm người cao tuổi
Theo Luật người cao tuổi năm 2009 thì người cao tuổi được
quy định là công dân Việt Nam từ đủ 60 tuổi trở lên. Như vậy, trong
luận văn, tác giả sẽ sử dụng định nghĩa này đảm bảo được tính khách
quan và tin cậy.
1.1.4
Khái niệm nhóm cán bộ cao tuổi
Khái niệm nhóm cán bộ cao tuổi là nhóm công dân Việt Nam
được bầu cử, phê chuẩn để đảm nhiệm vào các tổ chức chính trị
trong các cơ quan của Đảng và Nhà nước, hưởng lương từ Nhà nước.
Nhóm cán bộ này đủ từ 60 trở lên đã hoặc chuẩn bị nghỉ hưu.
5
1.2. Phương pháp luận
Trong bài luận văn, tác giả sử dụng nghiên cứu về triết học duy
bật biện chứng và duy vật lịch sử
Hướng tiếp cận nghiên cứu
Tiếp cận Y học – xã hội
Vận dụng lý thuyết này để lý giải về các loại hình dịch vụ
chăm sóc người cao tuổi: chúng ta thấy tình trạng sức khoẻ của người cao tuổi và bệnh tật của người cao tuổi ngoài những nguyên nhân
về mặt thể chất, chế độ sinh hoạt còn có những nguyên nhân từ phía
xã hội. Một trong những nguyên nhân mang tính xã hội là tình hình
chăm sóc người cao tuổi, mà trong đề tài này chủ yếu đề cấp đến.
Ngược lại, sức khoẻ và bệnh tật ở người cao tuổi cũng có những tác
động và ảnh hưởng đến xã hội.
Tiếp cận truyền thông
Lý thuyết truyền thông được áp dụng trong việc tiếp cận vấn
đề nghiên cứu người già ở chỗ cần phải coi truyền thông nh là một
công cụ để nâng cao hiệu quả, chất lợng hoạt động và phổ biến các
loại hình dịch vụ chăm sóc người cao tuổi. Muốn loại hình này phát
triển, đặc biệt là ở một xã hội truyền thống như ở nước ta - nơi người
cao tuổi thường được kính trọng và chăm sóc trong gia đình hơn là
việc sử dụng các dịch vụ chăm sóc bên ngoài xã hội, thì việc áp dụng
các mô hình truyền thông có vai trò to lớn.
1.3. Các lý thuyết vận dụng trong luận văn
Lý thuyết hệ thống
Thuyết hệ thống được sử dụng rộng rãi trong Công tác xã hội
nhóm, giúp cho nhân viên xã hội và xác định nhóm là một hệ thống
của các yếu tố tương tác với nhau, Thuyết hệ thống cung cấp một mô
hình, lí thuyết để giúp hiểu biết và phương cách đáp ứng nhu cầu,
giải quyết vấn đề của con người trong môi trường sống. Thuyết hệ
thống giúp hiểu sâu sắc hơn về các thể chế, mối tương tác của con
người với nhau, với hoàn cảnh và các thể chế có tác động đến con
người.
Thuyết vai trò
Thuyết vai trò được áp dụng vào Công tác xã hội nhóm để
chỉ ra rằng trong nhóm nhất định tồn tại các vị trí khác nhau, các vai
trò khác nhau và các vị trí, vai trò này được phân công, thể hiện bởi
các thành viên nhóm. Mỗi vị trí thể hiện chi tiết các vai trò bao gồm
một chuỗi các chức năng cần thiết. Vì vậy, khi là thành viên của
6
nhóm trong Công tác xã hội nhóm, các cá nhân thành viên luôn đóng
một vai trò cụ thể nào đó với những yêu cầu, nhiệm vụ được giao để
thực hiện vai trò và họ luôn cố gắng để hoàn thành các chức năng đó.
1.4. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về người cao tuổi
Vấn đề người cao tuổi và an sinh tuổi già là mối quan tâm
đặc biệt của Nhà nước ta. Kể từ ngày thành lập nước, Hiến pháp
nước ta mặc dù đã có sự thay đổi nhiều lần nhưng bao giờ cũng đều
có điều khoản về bảo vệ và chăm sóc người cao tuổi. Nhà nước đã đề
một loạt các chương trình xã hội thực hiện bảo đảm xã hội cho tuổi
già. Đảng và Chính phủ luôn có những chính sách phù hợp với tình
hình phát triển kinh tế - xã hội để giúp người già có cuộc sống ổn
định, tiếp tục đóng góp công sức, những kinh nghiệm quý báu cho sự
nghiệp cách mạng. Từ sau cách mạng Tháng Tám đến nay, Đảng và
Nhà nước ta đã có rất nhiều chính sách liên quan đến người cao tuổi.
Chương 2
PHÂN TÍCH VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Tình hình người cao tuổi ở Việt Nam hiện nay
Theo tổ chức y tế thế giới (WHO) thì một đất nước có trên
10% người cao tuổi được coi là một đất nước già hoá dân số. Già hoá
dân số có tác động mạnh mẽ đến đời sống kinh tế- xã hội của một
quốc gia. Dưới góc độ nhân khẩu học, khi số người già tăng lên sẽ
tác động trực tiếp làm tăng tỷ lệ phụ thuộc tuổi già. Điều này cho
thấy số lượng những người hưởng thụ tiềm năng về sức khoẻ và quĩ
hưu trí tăng lên và được hỗ trợ bởi một số tương đối nhỏ hơn những
người đóng góp tiềm năng (những người trong độ tuổi hoạt động
kinh tế từ 15-64).
Theo các kết quả nghiên cứu về già hoá dân số thì ở các quốc
gia đang phát triển như Việt Nam tốc độ già hoá dân số sẽ rất nhanh
và nó đòi hỏi có những giải pháp kịp thời nhằm thích nghi với một
xã hội nhiều ngừơi già. Những chính sách về an sinh cho người già,
chăm sóc, phát huy tài năng trí tuệ của họ trong thời kỳ xây dựng đất
nước cần được quan tâm nghiên cứu và ban hành. Đời sống kinh tế,
xã hội phát triển, hoạt động chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân cũng
từng bước được nâng cao trong đó chăm sóc sức khoẻ người cao tuổi
cũng được chú trọng.
2.2. Hiện trạng đời sống người cao tuổi
2.2.1. Một số đặc điểm tâm sinh lý của người già
7
Người già là một người có sự suy thoái tự nhiên của các tế
bào như: tóc bạc, da nhăn nheo, khả năng tình dục giảm, cơ bắp
nhão, xương dễ bị giòn, dễ bị gãy do vôi hoá nhiều, trí nhớ ngắn hạn
giảm (là những sự việc vừa mới xảy ra, họ có thể quên ngay) nhưng
những trí nhớ dài hạn lại vẫn ở mức độ cao ( chẳng hạn những kỉ
niệm xưa cũ, họ vẫn có thể nhớ từng chi tiết nhỏ), quá trình đồng hoá
và dị hoá giảm mạnh, hoạt động của các cơ quan nội tạng như phổi
bị teo, bộ phận tuần hoàn, tiêu hoá, bài tiết... giảm sút do vậy việc đi
lại gặp nhiều khó khăn.
2.2.2. Những lĩnh vực hoạt động sống chủ yếu của người già
+ Về hoạt động lao động : nhiều người già nhất là những
người sau khi về hưu vẫn tiếp tục làm việc dưới nhiều hình thức khác
nhau như : tiếp tục làm những công việc cũ, làm những việc mới phù
hợp với sức lực, năng lực và điều kiện của mình, làm các công việc
nội trợ, trông cháu trong gia đình... không mấy ai chịu ‘bó tay’ nghỉ
ngơi hoàn toàn. Có rất nhiều động cơ khiến người già tiếp tục tham
gia vào công việc. Từ những động cơ kinh tế (do hoàn cảnh bức
bách), động cơ mang tính chất tâm lý- xã hội (do không muốn mất đi
uy tín và địa vị xã hội)... cho đến những động cơ mang tính chất
nghề nghiệp thuần tuý ( những người say mê với nghề nghiệp, sống
bằng ‘ công việc’.
+Về thu nhập : do phải lao động để kiếm sống vào lúc tuổi
cao sức yếu, mà thu nhập cuộc sống của người già thấp thậm chí
nhiều người còn khó khăn chật vật. Thu nhập của người già phụ
thuộc chủ yếu tương đối ổn định là dựa vào bảo hiểm, lương hưu, lợi
tức, việc làm, sự giúp đỡ của cộng đồng và sự trợ giúp của con cháu.
+ Về sinh hoạt : trong mọi thể chế xã hội hiện tồn dưới mọi
hình thức hiện có, gia đình là một thực thể văn hoá song hànhbiến
đổi theo hai chiều : không gian và thời gian. Chiều không gian là
những đặc trưng văn hoá giữa các vùng khác nhau, còn chiều thời
gian là sự biến đổi của gia đình từ truyền thống đến hiện đại.
+ Về cách sắp xếp cuộc sống : khi còn sức khoẻ và khả năng
lao động và nhất là khi con cái đã trưởng thành và có gia đình riêng
người già mong muốn được tách ra để có cuộc sống độc lập với con
cái. Họ chỉ muốn quay trở về sống với con cháu cho vui vẻ hơn, để
có được những điều kiện chăm sóc tốt hơn, khi tuổi đã cao, sức đã
yếu và một trong hai vợ chồng họ có người không may bị mất sớm
hơn. Vì thế, trong gia đình con cái luôn đóng một vai trò lớn trong
8
việc chăm sóc và giúp đỡ cha mẹ già, nhất là khi cha mẹ họ muốn
quay trở lại sống cùng con cháu.
+ Về việc sử dụng thời gian rỗi : Ở cái tuổi gần đất xa trời,
người già bị hạn chế bởi bệnh tật bởi sức khoẻ, bởi khả năng đi lại...
nên thời gian rỗi của người già thường dùng trong những hoạt động
có tính chất cá nhân nhiều hơn là các hoạt động mang tính tập thể và
cộng đồng. Những hình thức sinh hoạt mang tính chất hưởng thụ cá
nhân được người già tham gia thường xuyên là đọc sách báo, nghe
đài, xem vô tuyến.. Những hình thức sinh hoạt có tính chất nhóm ít
thường xuyên hơn, nhưng lại có số đông người già thích tham gia là
hoạt động giao tiếp trong gia đình, họ hàng và trong các bạn bè tri
kỷ. Các hình thức sinh hoạt cộng đồng có tính phi chính thức như
cưới hỏi, cúng giỗ, lễ hội, chùa chiền đặc biệt là ma chay ở các nước
phương Đông là những hoạt động được nhiều người già tham gia.
Còn đối với các sinh hoạt cộng đồng có tính chất chính thức hơn
như : hội bảo thọ, mặt trận tổ quốc, hội phụ nữ... mặc dù có tên trong
danh sách các hội viên, nhưng thực chất không được người già quan
tâm nhiều lắm.
+ Về tính tích cực xã hội của người già : So với các nước
phương Tây, người già Việt Nam có được những điều kiện thuận lợi
để thực hiện được nguyện vọng của mình hòng đóng góp công sức,
kinh nghiệm và kiến thức cho xã hội.
+ Về sức khoẻ : Ở tuổi đáng được nghỉ ngơi, song do thích
lao động (đối với các cụ chưa quen hẳn với cách sống mới), do phải
lao động kiếm sống (đối với những người già có hoàn cảnh khó
khăn) và với mức sống hạn chế ( có thể nói là thấp)... mà sức khoẻ
của người già ngày càng bị suy giảm nhanh chóng theo độ tuỏi và
theo giới tính. Cùng với sự tăng lên của tuổi tác là sự xuất hiện
thường xuyên hơn của bệnh tật. Nhất là các bênh về tim mạch, thiếu
dinh dưỡng, phong thấp, hen suyễn... Những người già nào càng hút
thuốc, uống rượu nhiều, lại ít tập thể thao, ít vận động thì sức khoẻ
lại càng tồi tệ. Đặc biệt là những người già nào rơi vào hoàn cảnh có
nhiều vấn đề như : cô đơn, mất người thân trong gia đình, nghỉ hưu
do mất vị trí xã hội và thu nhập thấp, quan hệ với con cái có những
xung đột thế hệ... thì họ dễ bị nhiễm bệnh, thậm chí có thể bị rối
loạn tâm thần.
1.2.3. Phản ứng của xã hội đối với người già
9
Từ trong gia đình ra ngoài xã hội, bên cạnh những quan niệm
cứng nhắc, đôi khi sai lệch về người già như : người già thì yếu và vô
ích không còn đóng góp được cho xã hội nữa... còn có những nét ứng
xử thiếu văn hoá của một số người đặc biệt là một bộ phận thanh
niên với hàng loạt những điều chướng tai, gai mắt trong cách xưng
hô, cử chỉ, thái độ, hành vi, thậm chí trong cả những lời nói như :
ông khốt, bà bô... tất cả những điều đó làm cho người già chạnh
lòng., hoặc phẫn nộ cảm giác bị xúc phạm.
2.2.4. Các nhu cầu cơ bản của người già
Cũng như ở mọi lứa tuổi, người già cần phải được đáp ứng
những nhu cầu vật chất và tinh thần cần thiết. Song bên cạnh đó còn
có những nhu cầu đặc biệt cần được quan tâm hơn.
2.3. Xu hướng đưa hoạt động công tác xã hội vào chăm sóc giúp
đỡ người cao tuổi trên thế giới và ở Việt Nam
2.4. Xu hướng đưa hoạt động công tác xã hội vào chăm sóc giúp
đỡ người cao tuổi trên thế giới
Trên thế giới hiện nay, các quốc gia ngày càng quan tâm hỗ
trợ và có những chính sách đặc biệt nhằm đảm bảo việc chăm sóc
sức khoẻ cho người cao tuổi. Chăm sóc người cao tuổi không còn là
vấn đề riêng biệt và gói gọn trong phạm vi mỗi quốc gia mà còn là
một vấn đề xã hội mang tình chất toàn cầu. Mặt khác, Người cao tuổi
đã được coi như một nguồn lợi quí giá chứ không phải là gánh nặng
cho xã hội, vì họ sẽ còn đóng góp nhiều cho đất nước bằng những
kiến thức, kinh nghiệm của họ. Liên Hiệp quốc đã đề ra một số
nguyên tắc để giúp đỡ người cao tuổi như: Họ phải có cơ hội được sử
dụng dễ dàng về thực phẩm, nước uống, nhà ở, chăm sóc y tế, việc
làm và có một đời sống an toàn; họ phải được sử dụng các dịch vụ
pháp lý; phải được sống trong vinh dự; không bị khai thác, lợi dụng
và được đối xử bình đẳng.
2.4.1. Kinh nghiệm của các nước Bắc Âu
Hiện nay ở các nước phương Tây, phần đông người già đều
đến Viện dưỡng lão miễn phí. Chi phí từ nguồn quỹ phúc lợi và bảo
hiểm cho người già. ở đó có cuộc sống đầy đủ tiện nghi như: vườn
hoa, phòng thể dục, phòng đọc sách... Thường xuyên tổ chức sinh
hoạt tập thể và khám sức khoẻ định kỳ. Vật chất đầy đủ, nhưng do
con cái ít viếng thăm, nên các cụ vẫn cảm thấy cô đơn.
2.4.2. Kinh nghiệm của Mỹ
10
Ở Mỹ có viện dưỡng lão tư nhân dành cho giới trung lưu [có
đóng tiền] do các tổ chức phi chính phủ tổ chức. Đó là những khu
nhà hoặc thành phố dành riêng cho người già, được thiết kế đẹp đẽ
và kiến trúc phù hợp với người cao tuổi.
2.4.3. Kinh nghiệm của Nhật Bản
Dân số Nhật Bản già nhanh bởi sự giảm sút về tỷ lệ sinh và
tỷ lệ tử vong. Dân số già tăng nhanh chóng ở quốc gia này đang đòi
hỏi chính phủ Nhật Bản phải có hệ thống chính sách, quản lý phù
hợp để giải quyết tình hình dân số già. Đặc biệt là vấn đề chăm sóc
sức khoẻ người già.
2.4.4. Kinh nghiệm của Trung Quốc
Lịch sử lâu đời ở Trung Quốc đã cho thấy truyền thống kính
trọng người cao tuổi của nước này. Ngày nay, trong hệ thống chính
sách an sinh xã hội của Trung Quốc đã có nhiều chính sách nhằm hỗ
trợ chăm sóc người cao tuổi ở gia đình và cộng đồng.
2.4.5. Kinh nghiệm của Singapore
Tại Singapore, ngay từ những năm 1980, chính phủ đã quan
tâm đến vấn đề già hoá. Năm 1988, Hội đồng tư vấn quốc gia về già
hoá đã được hình thành để đảm nhận việc xem xét toàn diện về già
hoá tại Singapore. Một trong những kiến nghị chính được đề xuất bởi
Hội đồng tư vấn là thành lập Hội đồng quốc gia về già hoá. Bên cạnh
đó, nhiều đề xuất khác cũng được đưa ra như nâng tuổi nghỉ hưu từ
55 lên 60, mở rộng các chương trình giáo dục công cộng cho người
cao tuổi, giao đất cho các tổ chức phi chính phủ để xây dựng nhà ở
cho người cao tuổi, nghiên cứu tính khả thi của việc cung cấp các
dịch vụ y tế và chăm sóc sức khoẻ cho những người cao tuổi ốm yếu
tại gia đình và giảm thuế đối với những người chăm sóc người cao
tuổi.
2.4.6. Thực trạng và xu thế phát triển dịch vụ chăm sóc người cao
tuổi ở Việt Nam
Trong xã hội phát triển, dù muốn hay không, như nhiều ý
kiến trái chiều tranh luận trên các phương tiện thông tin đại chúng
gần đây về nên hay không nên đưa cha mẹ vào nhà dưỡng lão, thì các
kiểu trung tâm dưỡng lão cũng sẽ hình thành và gia tăng nhanh
chóng ở nước ta trong vài năm tới, trước hết thường tập trung ở các
đô thị. Chủ động đón bắt xu thế xảy ra theo qui luật của đô thị hóa và
sự chuyển đổi lối sống sang xã hội công nghiệp sẽ là giải pháp tích
cực để phát triển phù hợp với thời đại mà vẫn giữ được sự ổn định
11
của cuộc sống gia đình, trong đó thành viên cần được quan tâm nhất
là người cao tuổi. Biện pháp tích cực để giải quyết những mâu thuẫn
và thách thức nêu trên là cần tạo ra một môi trường sống tốt ngay
trong chính gia đình mình và cần có sự phối hợp hiệu quả của những
hoạt động của tổ chức y tế, các đoàn thể xã hội trong việc tạo điều
kiện để người cao tuổi được khám chữa bệnh tốt hơn và được tham
gia các hoạt động cộng đồng, theo khả năng phù hợp.
2.4.7. Nhận thức, thái độ, hành vi của cộng đồng đối với
các loại hình dịch vụ chăm sóc người cao tuổi
Việc đánh giá về các loại hình chăm sóc người cao tuổi đã
phần nào cho chúng ta hiểu hơn tâm lý và sở thích của người cao tuổi
đối với các loại hình này.
Hầu hết người dân chưa từng được nghe nói đến những dịch
vụ chăm sóc người già. Thậm chí, những nhà dưỡng lão do nhà nước
quản lý họ cũng chưa từng nghe nói đến. Đây cũng là một mặt hạn
chế cho việc nhìn nhận một cách rõ ràng hơn về các trung tâm chăm
sóc người cao tuổi
Mô hình bệnh viện chăm sóc người cao tuổi
Ở nước ta, bệnh viện giành cho người cao tuổi vẫn còn rất
hạn chế, mặc dù việc cung cấp các dịch vụ chăm sóc sức khoẻ cụ thể
như chăm sóc lão khoa cho người cao tuổi, cả ở khu vực nhà nước
cũng như tư nhân trong thời gian gần đây đã tăng lên đáng kể. Chúng
ta cũng biết, mục tiêu của tại tất cả các bệnh viện cấp huyện vào năm
2020 là cung cấp chăm sóc lão khoa. Tuy nhiên, việc đạt được mục
tiêu này là rất khó, liên quan đến sự thiếu hụt đội ngũ cán bộ có
chuyên môn nghiệp vụ về lão khoa.
Mô hình do sở lao động thương binh xã hội quản lý
Mô hình Trung tâm chăm sóc người cao tuổi do hội trữ thập đỏ quản lý
Một số mô hình khác do cơ quan nhà nước quản lý
Mô hình hoạt động chăm sóc người cao tuổi do tư nhân quản lý
Hoạt động chăm sóc người cao tuổi tại trung tâm
Mô hình dịch vụ chăm sóc người cao tuổi tại Gia đình
Mô hình dịch vụ chăm sóc người cao tuổi tại cộng đồng
2.5 Nhu cầu hoạt động công tác xã hội
Trong cuộc sống, con người ở nhóm tuổi nào cũng có những
nhu cầu chung và nhu cầu đặc thù để đáp ứng những đòi hỏi của
cuộc sống cá nhân, nhóm hoặc cộng đồng. Có rất nhiều loại nhu cầu
khác nhau của con người nhưng nhìn chung, đối với người cao tuổi
12
thì nhu cầu được chăm sóc sức khoẻ, nhu cầu về vật chất và nhu cầu
về tinh thần là ba loại nhu cầu rất quan trọng nhất. Việc đưa CTXH
vào áp dụng giúp đỡ người cao tuổi cũng là điều cần thiết. Điều hoà
mối quan hệ giữa nhu cầu và việc đáp ứng nhu cầu là trách nhiệm
chính quyền đoàn thể, cộng đồng cũng như của mỗi gia đình và mục
đích cuối cùng là nhằm tạo dựng cho người cao tuổi môi trường sống
tốt đẹp nhất.
Chương 3
THỰC HÀNH CÔNG TÁC XÃ HỘI VỚI NGƯỜI CAO TUỔI
QUA MÔ HÌNH CÂU LẠC BỘ THĂNG LONG
3.1. Giới thiệu về Câu lạc bộ Thăng Long
Câu lạc bộ Thăng Long là nơi sinh hoạt của các đồng chí cán
bộ lão thành cách mạng, cán bộ trung, cao cấp của Đảng, Nhà nước
và thành phố Hà Nội khi nghỉ hưu. CLB là một tổ chức văn hoá – xã
hội do các thành viên tự nguyện tham gia, mục đích của CLB là
nhằm tạo cho các cán bộ về hưu có một địa chỉ để hội họp, nghe thời
sự, nghe phổ biến các chính sách, chủ trương của Đảng và Nhà nước,
các báo cáo về khoa học xã hội và công nghệ để nâng cao hiểu biết,
các thành viên được hướng dẫn về giữ gìn sức khoẻ, phòng bệnh,
chữa bệnh. Ngoài ra còn tổ chức đi tham quan, xem phim, kịch, chơi
thể thao, thơ…
3.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của CLB Thăng Long
Sau giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, nhiều cán bộ
trung cao cấp của Đảng và Nhà nước được nghỉ hưu tại Hà Nội,
trong đó có những đồng chí hoạt động trước cách mạng tháng 8 năm
1945.
Trước yêu cầu có một tổ chức hội tụ số cán bộ trên để có
điều kiện gặp gỡ giao lưu, trao đổi thông tin thời sự, vui chơi giải trí
giữ gìn sức khoẻ và có điều kiện đóng góp ý kiến cho tổ chức vào
việc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc, một số đồng chí cùng với đồng chí
Lê Tất Đắc đã đề xuất thành lập một Câu lạc bộ(CLB) hưu trí tại Hà
Nội.
gia trên 100 người, hiện nay số hội viên có khoảng 1.500
người.
3.1.2.Về quản lý, điều hành Câu lạc bộ
Các bộ phận chuyên trách trước đây có 6 tiểu ban, từ năm 2009
đến nay chuyển thành 5 ban, mỗi ban có 3 đến 4 đồng chí do một Ủy
13
viên Ban chủ nhiệm làm Trưởng ban đảm nhiệm chương trình sinh
hoạt chính:
+ Thứ nhất: Thông tin – thời sự.
+ Thứ hai: Văn hóa – Văn học – Nghệ thuật, thể thao, du lịch.
+ Thứ ba: Khoa học – công nghệ, đối ngoại, an ninh quốc phòng.
+ Thứ tư: Chính trị, kinh tế, xã hội.
+ Thứ năm: Y tế, sức khoẻ.
Thông thường mỗi tháng Ban chủ nhiệm và các Ban chuyên
trách họp định kỳ một lần đánh giá hoạt động trong tháng và thông
qua chương trình sinh hoạt tháng sau, in và cung cấp lịch sinh hoạt
đến hội viên CLB. Có việc cần thiết thì tổ chức họp trao đổi thảo
luận để thực hiện.
Năm 2012 CLB tổ chức 16 tổ hội viên theo địa bàn quận huyện
bước đầu có những hoạt động tốt.
3.1.3. Hoạt động của CLB Thăng Long
3.1.3.1. Tổ chức thông tin, thời sự, chính sách
3.1.3.2. Tổ chức đóng góp ý kiến có tổ chức với Trung ương và Thành
phố Hà Nội
3.1.3.3.Về rèn luyện sức khoẻ, vui chơi giải trí, tham quan du lịch.
3.1.3.4. Về hoạt động đối ngoại
3.2. Những kinh nghiệm CLB Thăng Long đạt được trong suốt
quá trình hoạt động
3.3. Đặc điểm chung của nhóm cán bộ tại CLB Thăng Long
3.3.1. Nhu cầu được công tác xã hội vào hoạt động tại Câu lạc bộ
Thăng Long
3.3.1.1. Những nhu cầu chủ yếu của Hội viên CLB Thăng Long
3.3.1.2 Nhu cầu được công tác xã hội vào hoạt động của CLB Thăng
Long
Qúa trình hoạt động, CLB Thăng Long đã gặt hái được rất nhiều
thành công và có những đóng góp to lớn cho xã hội, cho Đảng và
Nhà nước. Tuy nhiên, sau quá trình nghiên cứu, tìm hiểu CLB vẫn có
một số khó khăn, tồn tại một số khuyết điểm:
Thứ nhất, người cao tuổi không những chỉ cập nhật tình hình
thời sự, thông tin kinh tế - xã hội, mà cần được chăm sóc dưới góc độ
sức khoẻ, bệnh tật cũng như chăm sóc về tâm lý, tâm tư tình cảm.
CLB Thăng Long, thông qua tìm hiểu, nghiên cứu, chúng tôi nhận
thấy rằng hầu hết nội dung của các chương trình hoạt động vẫn mang
14
tính cập nhật tình hình thời sự, các báo cáo viên truyền tải thông tin
cho các cụ ngồi nghe vào mỗi buổi sáng, không khí rất nghiêm trang.
Tuổi già là giai đoạn con người cần được nghỉ ngơi với trạng
thái thoả mái nhất. Tuy nhiên, CLB vẫn chưa có được cách tổ chức
hoạt động theo hướng công tác xã hội, CLB vẫn chưa nhiều các hoạt
động nhóm xã hội, chưa phát huy được sức mạnh của mỗi thành
viên, thiếu những hoạt động mang tính chất giải trí, vui vẻ cho các cụ
thư giãn. Trong các buổi sinh hoạt mang nặng không khí trang
nghiêm, các cụ lắng nghe tình hình thời sự trong và ngoài nước một
cách thụ động, không có sự sáng tạo. Nếu như các cụ nghe được
những thông tin hay và tích cực các cụ sẽ vui vẻ, phấn khởi. Khi
nghe những tin xấu, những vấn đề tiêu cực thì các cụ lại thêm những
suy nghĩ và đau đáu trong lòng, cả ngày không yên. Điều đó rất có
ảnh hưởng đến tinh thần cũng như sức khoẻ của các cụ.
Vì vậy, CLB Thăng Long cần tổ chức các hoạt động giao lưu
trao đổi thông tin nhiều chiều giữa các thành viên. Cần tạo điều kiện
để cùng nhau chia sẻ thông tin, đóng góp ý kiến xây dựng xã hội.
Nên tạo thêm diễn đàn để các cụ đóng góp ý kiến. Bên cạnh đó cũng
cần lồng ghép các hình thức sinh hoạt chính trị tư tưởng vào hoạt
động vui chơi giải trí. Tuy có một số hoạt động văn nghệ, đi tham
quan… nhưng chỉ theo thời gian ngắn ngày hoặc theo các sự kiện
nhất định, do đó kết quả không cao.
Câu lạc bộ sinh hoạt tất cả các ngày trong tuần từ thứ 2 đến thứ 6,
tuy nhiên hầu hết các buổi là do các bác báo cáo viên nói qua loa
phóng thanh rồi các bác nghe, cũng không có chương trình trao đổi
gì, chỉ có họ nói mình nghe vậy thôi. Do hội trường quá bé nên
không đủ chứa mọi người, thậm chí bác phải ngồi ở ngoài sân,
không có bàn…
Phỏng vấn sâu, nam, 65 tuổi, Hà Nội
Hơn nữa, tuổi cao sức yếu luôn song hành với những biến
đổi về tâm sinh lý. Điều đó đã khiến cho người cao tuổi khó tính,
buồn rầu. Nhiều cụ gặp chịu những mất mát, thiệt thòi, thiếu thốn
tình cảm, vấn đề về gia đình, con cháu… nhưng vẫn chưa được bộc
bạch và chia sẻ với các cụ khác. Cho dù chia sẻ nhưng vẫn mang tính
cá nhân khác hoặc nhóm bạn khác chứ chưa phải mang tính tập thể,
một nơi chia sẻ và giải toả tâm lý... CLB cũng cần tổ chức thêm các
15
hình thức tham vấn về tâm lý, trợ giúp về công tác xã hội với người
gặp khó khăn trong cuộc sống.
Điển hình như Mô hình chăm sóc người cao tuổi do sở lao
động thương binh xã hội quản lý. Tại trung tâm có một đội ngũ cán
bộ là những người có trình độ, tâm huyết, yêu nghề, các điều dưỡng
viên vẫn phải tận tình, ân cần chăm sóc các cụ. Các cụ ngoài chăm
sóc sức khoẻ ra còn được chia sẻ những câu chuyện, những người
bạn lắng nghe, trao đổi tình cảm, giải toả tâm lý cho các cụ. Hay
như Trung tâm nghiên cứu và chăm sóc người cao tuổi Phù Đổng
còn phục vụ các cụ về mặt đời sống tinh thần như là đặt báo cho các
cụ đọc, thuê những các chuyên gia, y tế, xã hội đến trung tâm nói
chuyện về sức khỏe với các cụ; thực hiện các hoạt động tham quan,
du lịch làng nghề, du lịch sinh thái...Đặc biệt, trung tâm có một hoạt
động hoàn toàn khác biệt so với những trung tâm khác đó là tổ chức
hoạt động nghiên cứu khoa học về lĩnh vực người cao tuổi và ứng
dụng thành tựu của việc nghiên cứu khoa học vào công tác chăm sóc,
nuôi dưỡng người cao tuổi.
Bác tham gia CLB Thăng Long được 5 năm rồi, tham gia CLB chủ
yếu là nhằm gặp gỡ với các cụ khác, trò chuyện cho đỡ buồn, rồi
nghe tình hình đất nước diễn biến ra sao… Xã hội bây giờ phức tạp
quá, ngày nào nghe cũng có những chuyện đau lòng, nhiều khi nghe
xong mà cứ suy nghĩ cả ngày không yên như cái vấn đề Biển Đông …
Không nghe thì không rõ xã hội giờ thế nào, mà biết thì đâm lo, già
rồi cũng chả biết làm gì…
Phỏng vấn sâu, nữ, 59 tuổi, Hà Nội
Thứ hai, tiếng nói của nhiều cụ vẫn chưa được lớn đến đông
đảo các thành viên khác. Tác giả có dịp dự các buổi sinh hoạt của
CLB Thăng Long tổ chức, tuy nhiên, hầu hết vẫn chưa thực sự là một
diễn đàn cho các cụ chia sẻ. Trong buổi sinh hoạt, các báo cáo viên
trình bày tình hình thời sự trong nước và quốc tế, đưa ra những vấn
đề của đất nước, tuy nhiên, chỉ một vài cụ có thể trao đổi thông tin,
sự tương tác, phản hồi tại các buổi họp vẫn mang tính một chiều là
chủ yếu. Các thành viên trong CLB như đã trình bày, đây là nhóm
người cao tuổi có trình độ hiểu biết cao, khi hết tuổi lao động về hưu
vẫn mong muốn có sự cống hiến, trao đổi kiến thức… Vì vậy, việc
tăng cường sự tương tác, nâng cao tiếng nói để đáp ứng nhu cầu của
các cụ là rất cần thiết.
16
Thứ ba, địa điểm hạn hẹp không đủ chỗ cho hội viên dự sinh
hoạt thời sự - chính trị, vui chơi thể thao rèn luyện sức khoẻ. Theo
báo cáo của CLB Thăng Long, hiện nay số hội viên đã lên đến
khoảng 1.500 người, tuy nhiên, theo quan sát của tác giả, hội trường
của CLB hiện nay mới đáp ứng được khoảng 60% nhu cầu. Có rất
nhiều cụ phải ngồi ngoài sân, trong khi đó phải ngồi ghế nhựa, không
có bàn, trên tay các cụ cầm quyển sổ ghi chép rất vất vả. Nếu như
trong khi sinh hoạt trời có mưa, thiết nghĩ CLB sẽ khó có thể sinh
hoạt được bình thường. Phòng BCN của CLB có không gian khá hạn
hẹp, ồn ào, khiến các cụ cũng khó có thể họp tập trung và bàn thảo
công việc. Hơn nữa, sân chơi cho các cụ hầu hết cũng không có, nếu
có các chương trình văn hoá, giai trí, các cụ sẽ phải sang một khu
vực khác rất bất lợi.
… bác cũng tạm hài lòng với CLB, tuy nhiên có điều là không gian,
cơ sở vật chất của CLB còn hạn chế quá. Phòng họp bé quá mà có
hôm đến muộn phải ngồi ngoài sân, có những hôm mưa ướt khổ quá,
mà bàn ghế rồi quạt cũng chẳng đủ… Nhiều khi CLB cũng kiến nghị
lên đấy nhưng vẫn chưa được…
Phỏng vấn sâu, nam, 65 tuổi, Hà Nội
Chính vì vậy, để giúp hoàn thiện CLB Thăng Long, đáp ứng
nhiều hơn những nhu cầu của các thành viên, đặc biệt là nâng cao vai
trò tích cực của thành viên nhóm cán bộ hưu trí trong CLB, việc đưa
CTXH vào là vô cùng cần thiết.
3.3.2. Vận dụng công tác xã hội với người cao tuổi trong CLB Thăng
Long
Tiến trình trợ giúp người cao tuổi là một chuỗi các hoạt động
tương tác giữa nhân viên xã hội với người cao tuổi để cùng họ giải
quyết vấn đề. Trong quá trình này, nhânviên xã hội dùng chính các
quan điểm giá trị, kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng của mình để tham
gia vào việc giải quyết các vấn đề của đối tượng và với hỗ trợ đó, đối
tượng cũng huy động hết khả năng, sức lực của mình để giải quyết
những khó khăn đang mắc phải.
Với CLB Thăng Long, nên xây dựng một ban công tác xã hội cơ
bản trong CLB. Các thành viên trong ban nhờ những người có nhiều
kinh nghiệm, cách ứng xử trong cuộc sống, đồng thời mời chuyên
gia vào tham vấn cơ bản. CLB trở thành một nhóm có thể chia sẻ hỗ
trợ về mặt tâm lý, gần gũi nhau, giúp đỡ nhau. Chẳng hạn như có
17
những thành viên đang gặp khó khăn trong vấn đề cuộc sống cá
nhân, vấn đề tâm lý, có thể chia sẻ nhằm giải tỏa hay mời các chuyên
gia tham vấn nhằm giúp cho họ có cuộc sống tốt hơn. Hay như nhiều
cụ gặp khó khăn về sức khỏe, các thành viên chia sẻ địa điểm khám
tốt, có thể mời các chuyển gia y tế tham gia, các cụ trong ngành lão
khoa giúp đỡ.
3.3.2.1. Tiếp cận người cao tuổi
Tiếp cận người cao tuổi là bước đầu tiên có thể người cao tuổi
tự tìm đến với nhân viên xã hội khi họ gặp vấn đề và cần sự giúp đỡ,
song trong một chừng mực nào đó cũng có thể chính nhân viên xã
hội lại là người tìm đến với người cao tuổi trong phạm vi hoạt
độngtheo chức năng của mình.
Do hạn chế vì chưa có tổ chức xã hội nên các cụ trong CLB chưa
có cơ hội tiếp xúc. Vì vậy, CLB cần thành lập một ban xã hội, chịu
trách nhiệm các vấn đề về xã hội, là nơi các thành viên gắn kết với
nhau hơn, tăng cường tính liên kết, nơi giao lưu, chia sẻ về mặt xã
hội hơn.
Bác S chỉ đạo tốt, nhưng vẫn còn cứng nhắc, không được gần gũi với
các thành viên, do không hiểu sâu về CTXH nên trong CLB các hoạt
động cũng vẫn còn cứng nhắc không có sự thân mật giữa các thành
viên, BCN với các hội viên khách. Theo bác thì để CLB hoạt động tốt
hơn họ phải có được tinh thần của một thủ lĩnh xã hội. Khi họ gần
gũi, thân thiện, tạo được sân chơi hòa đồng, thì thành viên sẽ cảm
thấy tin cậy hơn, sẵn sàng trao đổi thông tin với mọi người…
Phỏng vấn sâu, nam, 66 tuổi
3.3.2.2. Xác đinh
̣ vấn đề
Do CLB chưa có CTXH nên các thành viên chưa gần gũi nhau,
không có sự liên kết chặt chẽ cho nên họ khó xác định được tư cách
của mình trong CLB. Những người lãnh đạo chưa nắm được những
nhu cầu của các thành viên là gì? Không tìm ra những vấn đề còn tồn
tại và cần gì để làm cho CLB trở nên hoàn thiện hơn. Đồng thời, ban
lãnh đạo tại CLB chưa nắm rõ hết được những mục đích của các
thành viên khi tìm đến CLB và đáp ứng được những điều đó.
18
Bác năm nay cũng gần 70 tuổi rồi, ở nhà thì buồn, tham gia CLB để
cho vui, có người nọ người kia cùng lứa tuổi…Nhưng nhiều khi đến
cũng chưa thấy thỏa mái lắm, ban chủ nhiệm vẫn chưa tạo được cho
các bác tâm lý thỏa mái lắm. Nhiều khi đến nghe thông tin các bác
báo cáo xong rồi về, nghe nhiều cũng mệt mỏi, lo âu với những gì
mình nghe được. Ban chủ nhiệm có cảm giác chưa gần gũi với thành
viên, có lẽ cũng do thành viên đông quá nên không quan tâm hết
được mọi người…
Phỏng vấn sâu, nam, 69 tuổi, Hà Nội
3.3.2.3. Thu thập dữ liệu
CLB Thăng Long muốn tăng cường sự liên kết, thấu hiểu lẫn
nhau và biến CLB trở thành nơi các thành viên có thể thỏa mái chia
sẻ, tin cậy lẫn nhau thì cần phải có các cuộc thăm hỏi lẫn nhau, tìm
hiểu về cuộc sống của nhau. Các thành viên phải có những hồ sơ rõ
ràng, lý lịch cá nhân, trong đó có đầy đủ những thông tin cần thiết để
họ có thể thấu hiểu nhau hơn. Tuy nhiên, với những hồ sơ như vậy sẽ
khó có thể nắm bắt được tâm tư và những vấn đề thuộc về tâm lý mà
thông qua một số các hoạt động như:
- Tổ chức các chương trình giải trí, các buổi trò chuyện, diễn
đàn, để có cơ hội giao lưu, thấu hiểu, tin cậy, nhờ đó có thể thỏa mái
chia sẻ, giải tỏa tâm lý…
- Bổ sung hồ sơ nhu cầu, nguyện vọng của các thành viên
- Ban lãnh đạo nên tăng cường kiến thức về CTXH nhằm để
có thể thấu hiểu và giúp đỡ được các thành viên trong CLB
Như vậy, để hoàn thiện hơn, Ban lãnh đạo CLB cần tổ chức
các buổi báo cáo, tổ chức sinh hoạt mang tính linh động hơn, không
chỉ tại hội trường của CLB mà có thể tại nhà các thành viên thông
qua bữa cơm vui vẻ, tạo cảm giác hòa đồng không chỉ có thành viên
trong CLB mà có cả các thành viên trong gia đình họ.
3.3.2.4. Chẩn đoán
Trên cơ sở chẩn đoán được họ có nhu cầu gì. Các thành viên
trong nhóm họ ứng xử được để họ có kế hoạch đề phòng: như sức
khỏe, tâm lý, ứng phó biến đổi triệu chứng cao tuổi của các thành
viên.
3.3.2.5. Lên kế hoạch trợ giúp
19
- Xem thêm -