Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người việt tt...

Tài liệu đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người việt tt

.PDF
30
511
90

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI ---------------------- VŨ THỊ TUYẾT ĐẶC ĐIỂM NGỮ NGHĨA CỦA TỪ NGỮ TRONG CA DAO TÌNH YÊU NGƯỜI VIỆT Ngành: Mã số: Ngôn ngữ học 9.22.90.20 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC HÀ NỘI - 2018 Công trình được hoàn thành tại: HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM VIỆN NGÔN NGỮ HỘC VIỆN KHOA HỌC XÁC HỘI VIỆT NAM Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Đỗ Việt Hùng Phản biện 1: GS.TS. Lê Quang Thiêm Phản biện 2: GS.TS. Nguyễn Văn Khang Phản biện 3: GS.TS. Đinh Văn Đức Luận án được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án cấp Học viện, họp tại Học viện Khoa học xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, 477 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội. Vào hồi giờ, ngày tháng năm 2018 Có thể tìm hiểu luận án tại: - Thư viện Quốc gia Việt Nam - Thư viện Học viện Khoa học xã hội 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Từ là đơn vị căn bản của hệ thống ngôn ngữ, là đối tượng có lịch sử nghiên cứu lâu dài và phức tạp. Từ là đối tượng có vị trí cốt yếu, điều đặc biệt và quan trọng khi khám phá các đơn vị ngôn ngữ là cần nắm được nghĩa của từ. Đây được xem là chìa khóa để giải mã các lớp ý nghĩa của các đơn vị ngôn ngữ. Việc phân lập vốn từ của mỗi ngôn ngữ thành các trường từ vựng - ngữ nghĩa đã tạo điều kiện dễ dàng cho việc phát hiện ra tính hệ thống cũng như các cơ chế thuộc về kết cấu và ngữ nghĩa của bản thân ngôn ngữ ấy. Việc dùng lí thuyết ngôn ngữ để nghiên cứu văn học đã tạo nên cái nhìn đa chiều cũng như góp phần tạo nên sự khoa học trong tư duy, nhận thức của con người khi tìm hiểu về ngôn ngữ và văn học. Nghiên cứu ngữ nghĩa của từ trong văn học dân gian mà cụ thể trong phạm vi đề tài này là loại hình ca dao tình yêu của người Việt cũng là một trong những hướng nghiên cứu dùng lí thuyết ngôn ngữ để giải mã văn học. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 1.1. Mục đích nghiên cứu Đề tài là tập trung tìm hiểu nghĩa chuyển, ý nghĩa biểu trưng, cơ chế tạo nghĩa biểu trưng của từ ngữ ở trường nghĩa chỉ thực vật và vật thể nhân tạo trong ca dao tình yêu người Việt. Qua đó, chỉ ra những nét đặc trưng trong bức tranh ngữ nghĩa của từ ngữ và những đặc trưng tư duy của người Việt xưa về tình yêu. Đồng thời, luận án cũng muốn làm rõ những điểm tương đồng và sự phái sinh của các nghĩa biểu trưng mà từ ngữ trong 1 2 hai trường nghĩa tiêu biểu mang lại trên cơ sở các nghĩa biểu trưng được khái quát trong Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới. 1.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Tổng quan vấn đề nghiên cứu, xây dựng những cơ sở lí luận có liên quan đến đề tài luận án như các nghiên cứu về nghĩa của từ, sự chuyển nghĩa, trường nghĩa, trường nghĩa “thực vật”, trường nghĩa “vật thể nhân tạo” và các nghiên cứu về nghĩa biểu trưng. - Thống kê, xác lập được hệ thống các tiểu trường, các nhóm từ thuộc hai trường nghĩa chỉ “thực vật” và “vật thể nhân tạo”. - Phân tích ngữ nghĩa của từ, sự chuyển trường của từ cũng như nghĩa biểu trưng của các từ ngữ chỉ “thực vật” và “vật thể nhân tạo” tiêu biểu trong ca dao tình yêu người Việt. - Chỉ ra được đặc trưng văn hóa của dân tộc trong việc sử dụng từ ngữ chỉ thực vật, vật thể nhân tạo để biểu trưng cho một số vấn đề trong ca dao tình yêu. Trên cơ sở các nghĩa biểu trưng được nêu trong Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, chúng tôi soi chiếu vào hệ thống các nghĩa biểu trưng có được trong ca dao tình yêu người Việt. Qua đó, làm rõ điểm tương đồng cũng như sự phái sinh các nghĩa biểu trưng trên cơ sở các mẫu gốc. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Luận án tập trung nghiên cứu ngữ nghĩa của từ ngữ thuộc hai trường nghĩa “thực vật” (là đại diện điển hình cho nhóm từ ngữ chỉ thế giới tự nhiên) và trường nghĩa chỉ “vật thể nhân tạo”. Luận án tập trung tìm hiểu ngữ nghĩa của từ trong mối quan hệ với các từ khác trong các ngữ. Vấn đề nghiên cứu của đề tài là ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao 2 3 tình yêu người Việt. Luận án đi sâu tìm hiểu về sự chuyển nghĩa, ý nghĩa biểu trưng của các từ ngữ chỉ “thực vật” và “vật thể nhân tạo”. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Ngữ liệu được chọn nghiên cứu là các lời ca dao tình yêu trong Kho tàng ca dao người Việt (do Nguyễn Xuân Kính, Phan Đăng Nhật làm chủ biên), NXB Khoa học xã hội năm 1998. Sự khảo sát và phân tích sẽ tập trung vào các từ ngữ chỉ các loại thực vật, vật thể nhân tạo xuất hiện trong các lời ca dao tình yêu người Việt. 4. Phương pháp nghiên cứu Luận án chủ yếu sử dụng một số phương pháp sau: Phương pháp miêu tả, phương pháp phân tích ngữ nghĩa; thủ pháp phân tích ngữ cảnh; thủ pháp thống kê,… 5. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn 5.1. Ý nghĩa lí luận Với đề tài này, chúng tôi cho rằng kết quả đạt được sẽ góp phần làm sâu sắc hơn về tính hệ thống cấu trúc, tính tầng bậc và tính giao thoa trong ngôn ngữ. Do đó, luận án góp phần vào việc nghiên cứu lí thuyết về trường nghĩa, nghĩa chuyển, chuyển trường, mối quan hệ giữa nghĩa của từ và ý nghĩa biểu trưng, những giá trị văn hóa trong tiếng Việt. Đồng thời giúp cho những nghiên cứu tiếp theo có thêm những cơ sở lý thuyết và thực tiễn trong việc đi sâu hơn nghiên cứu trường nghĩa nói riêng và ngữ nghĩa của từ tiếng Việt nói chung. 5.2. Ý nghĩa thực tiễn Kết quả nghiên cứu mà luận án mang lại có thể sử dụng như một tài liệu phục vụ cho việc học tập, nghiên cứu và giảng dạy ngôn ngữ và văn 3 4 học trong nhà trường. Những kết quả nghiên cứu của luận án góp phần làm rõ thêm một đường hướng nghiên cứu văn học từ góc độ ngôn ngữ. Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng cung cấp cho người làm công tác giảng dạy thêm một công cụ chiếm lĩnh ngôn ngữ văn chương từ phương diện ngôn ngữ. Các kết quả nghiên cứu có thể phục vụ cho việc biên soạn từ điển về nghĩa biểu trưng trong kho tàng ca dao Việt Nam. 6. Những đóng góp mới của luận án - Luận án đã hệ thống hóa được các nhóm từ cơ bản, điển hình trong ca dao tình yêu người Việt. Từ đó, sẽ cho người đọc thấy được một bức tranh khái quát về hệ thống các từ ngữ trong loại hình ca dao tình yêu của người Việt. - Luận án cũng xác lập và phân tích được nghĩa gốc, nghĩa chuyển, chỉ ra được cơ chế chuyển nghĩa của các từ ngữ tiêu biểu mang tính đại diện cho hệ thống các từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt. - Trên cơ sở phân tích đặc điểm nghĩa của từ về các phương diện nghĩa gốc, nghĩa chuyển, luận án cũng chỉ ra được cơ chế tạo nghĩa biểu trưng, ý nghĩa biểu trưng của các từ ngữ tiêu biểu trong nhóm từ chỉ thực vật và vật thể nhân tạo. Những phân tích này cũng góp phần làm rõ mối quan hệ giữa ngôn ngữ - văn hóa và tư duy. 7. Bố cục luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận án gồm 3 chương. Chương 1: Tổng quan về tình hình nghiên cứu và cơ sở lí thuyết Chương 2: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ chỉ thực vật trong ca dao tình yêu người Việt 4 5 Chương 3: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ chỉ vật thể nhân tạo trong ca dao tình yêu người Việt CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ THUYẾT 1.1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu 1.1.1. Tình hình nghiên cứu về từ và nghĩa của từ 1.1.1.1. Tình hình nghiên cứu về từ và nghĩa của từ trên thế giới Nghiên cứu về nghĩa của từ trải qua nhiều giai đoạn khác nhau gắn liền với nhiều xu hướng và trường phái. Từ góc độ ngôn ngữ học cấu trúc, tác giả Lê Quang Thiêm cho rằng vấn đề và sự phát triển nghĩa của từ được chia thành ba thời kì: tiền cấu trúc luận, thời kì cấu trúc luận và thời kì hậu cấu trúc luận. Thời kì tiền cấu trúc luận, theo tác giả Lê Quang Thiêm, tác giả người Pháp Michel Bréal với công trình Essai de Sesmantique (Science des significations) xuất bản năm 1877 được xem là người đi tiên phong trong nghiên cứu bộ môn khoa học này. Nghiên cứu nghĩa của từ trong giai đoạn này chủ yếu được tiến hành nhằm mục đích phát hiện ra các quy luật biến đổi nghĩa của từ, trước hết từ góc độ thời gian lịch sử. Năm 1825, cuốn “Semasiology” (ngữ nghĩa học) được ra đời ở Đức, đó là cuốn sách tập hợp các bài nghiên cứu của tác giả Reizig Berary về ngữ nghĩa. Bên cạnh đó, ngữ nghĩa giai đoạn này cũng gắn với tên tuổi nhiều nhà nghiên cứu tên tuổi như: Agathon Benary, Karl Reisig, Oskar Hey, Friedrich Haase, …. Giai đoạn này trong nghiên cứu nghĩa của từ là giai đoạn nghiên cứu các quy luật biến đổi nghĩa từ vựng. 5 6 Tác giả đặt nền móng cho ngữ nghĩa học là nhà ngôn ngữ học người Anh Benjamin Humphrey Smart. Ông được xem là người có đóng góp to lớn tới khoa học ngữ nghĩa với một số bài nghiên cứu về khoa học này. Nghiên cứu về nghĩa và sự chuyển nghĩa giai đoạn này cũng gắn liền với nhiều tác giả như: Ch. Ogden, V. Lady Welly, I. Richard, Peirce,… Ngôn ngữ học cấu trúc đánh dấu sự trở lại vào những năm 20 của thế kỉ XX với cuốn Giáo trình ngôn ngữ học đại cương của F. de Saussure (1916). Giai đoạn này có rất nhiều các công trình nghiên cứu nổi tiếng của giả G. Stern, S. Uilimann, A. Schaff… Nghiên cứu ngữ nghĩa đánh một dấu mốc quan trọng xác lập vị trí của mình với các công trình của Bloomfield và Chomsky. Thời kì này, ngữ nghĩa còn đi cùng với tâm lí thực nghiệm và logic toán. Thời kì tiền cấu trúc luận và cấu trúc luận, các nghiên cứu đa số đều tập trung vào vấn đề ngữ nghĩa và sự biến đổi ngữ nghĩa. Các nghiên cứu thời kì này xem xét ngữ nghĩa của từ tách rời, biệt lập, không chú ý đến văn cảnh, ngữ cảnh. Tác giả Lê Thị Thanh Tâm trong luận án của mình đã chỉ ra rằng việc nghiên cứu sự phát triển nghĩa của từ của các nhà ngôn ngữ học nước ngoài có thể tạm chia làm ba khuynh hướng chính: Thứ nhất là nghiên cứu theo logic học, thứ hai là nghiên cứu theo tâm lí học; thứ ba là khuynh hướng nghiên cứu theo lịch sử. Nguyên nhân chủ yếu của hiện tượng chuyển nghĩa theo các nhà nghiên cứu này là do sự biến đổi lịch sử xã hội. Trong lịch sử ngôn ngữ học, các nhà nghiên cứu đã cố gắng tập hợp và hệ thống hóa những nguyên nhân có ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến sự phát triển nghĩa của từ. 6 7 Một xu hướng khác trong nghiên cứu từ ngữ là nghiên cứu về vấn đề trường từ vựng – ngữ nghĩa. Công trình đầu tiên trên thế giới theo hướng này là Kho từ ngữ tiếng Anh (Thésaurus of English Words and Phrases) của P. A. Roget. Đây là công trình nói về cách tiếp cận nghĩa từ vựng ở trường – tầng nghĩa vĩ mô. Tiếp sau Roget, cũng ở Anh là hai tác giả C. K. Ogden và I. A. Richards. Và nói đến trường nghĩa không thể không nói đến giả thuyết về “tính tương đối ngôn ngữ” do Sapir (1921) và Whorf (1956) khởi xướng. Năm 1986, nhà nghiên cứu M.Pokrovxkij đặt ra nhiệm vụ nghiên cứu từ vựng một cách hệ thống. Nhưng lí thuyết về trường ngữ nghĩa chỉ thực sự được nghiên cứu vào những năm 20 của thế kỉ thứ XX, bắt nguồn từ những lí thuyết ngôn ngữ học của V.F. Humboldt và F. de. Saussure. Đặc biệt I. Trier (1934) được coi là người mở ra một giai đoạn mới trong lịch sử ngữ nghĩa học. Sau I. Trier, một số nhà ngôn ngữ khác như Weisgerber, John Lyons cũng đã có những quan niệm bổ sung cho lí thuyết trường. 1.1.1.2. Tình hình nghiên cứu về từ và nghĩa của từ trong Việt ngữ học Trải qua ba thời kì là tiền cấu trúc luận, cấu trúc luận, hậu cấu trúc luận, việc nghiên cứu ngữ nghĩa của ngôn ngữ đã được các nhà nghiên cứu trên thế giới quan tâm từ cuối thế kỉ XIX đến nay. Ở Việt Nam từ năm 1954, từ vựng học đã trở thành vấn đề rất được quan tâm nghiên cứu, các giáo trình nghiên cứu về vấn đề này lần lượt ra đời như Từ vựng học tiếng Việt hiện đại và Từ và vốn từ tiếng Việt hiện đại của Nguyễn Văn Tu, Từ vựng – Ngữ nghĩa tiếng Việt, Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng,… của Đỗ Hữu Châu. 7 8 Ở Việt Nam, khi nghiên cứu từ, các tác giả cũng tập trung nghiên cứu về sự phát triển ngữ nghĩa. Đó chính là kết quả của quá trình chuyển nghĩa của từ. Hầu hết các công trình nghiên cứu về sự phát triển nghĩa của từ đều bàn đến các nội dung như: hướng chuyển nghĩa, nguyên nhân chuyển nghĩa, các phương thức phát triển nghĩa, mối quan hệ giữa nghĩa cũ và nghĩa mới. Hiện nay, trong nghiên cứu ngữ nghĩa, còn xuất hiện xu hướng so sánh nghĩa chuyển trong các ngôn ngữ khác nhau. Việc nghiên cứu ngữ nghĩa cũng thường gắn với lí thuyết trường nghĩa. Ở Việt Nam có khá nhiều các nhà nghiên cứu đề cập đến lí thuyết trường nghĩa: Nguyễn Văn Tu, Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Thiện Giáp,… Người giới thiệu về lí thuyết trường nghĩa đầy đủ, hệ thống nhất là Đỗ Hữu Châu. 1.1.2. Tình hình nghiên cứu về ca dao tình yêu người Việt dưới góc độ ngôn ngữ Từ góc độ ngôn ngữ, ca dao nói chung và ca dao tình yêu nói riêng đã được khai thác ở nhiều phương diện khác nhau: trường nghĩa, hiện tượng nhiều nghĩa, nghệ thuật ca dao,… Một bức tranh tổng quát về ngữ nghĩa của từ ngữ trong loại hình này là chưa xuất hiện. Ca dao tình yêu dưới góc nhìn của các nhà ngôn ngữ được khai thác ở nhiều góc độ như các biện pháp tu từ được sử dụng trong ca dao: các hành động, hành vi ngôn ngữ,... Nghiên cứu về ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu được khai triển trên một số phương diện: đặc điểm ngữ pháp – ngữ nghĩa của từ ngữ; hiện tượng chuyển di trường nghĩa,... 1.1.3. Tình hình nghiên cứu về nghĩa biểu trưng trong ca dao tình yêu người Việt 8 9 Nghĩa biểu trưng của từ ngữ trong ca dao là một xu hướng nghiên cứu ca dao ở góc độ ngôn ngữ. Những nghiên cứu này được thực hiện nhiều góc độ và phạm vi khác nhau với các tác giả: Nguyễn Thị Ngọc Điệp, Nguyễn Thùy Vân, Nguyễn Thị Vân Anh,… 1.2. Cơ sở lí thuyết của đề tài 1.2.1. Từ và nghĩa của từ 1.2.1.1. Quan niệm về từ Hiện nay có tới trên 300 định nghĩa khác nhau về từ. Chúng tôi theo quan điểm của tác giả Đỗ Hữu Châu, tác giả khẳng định: “ Từ của tiếng Việt là một hoặc một số âm tiết cố định, bất biến, mang những đặc điểm ngữ pháp nhất định, tất cả ứng với một kiểu ý nghĩa nhất định, lớn nhất trong tiếng Việt và nhỏ nhất để tạo câu” 1.2.1.2. Nghĩa của từ a. Quan niệm về nghĩa của từ Nghĩa của từ được nhìn nhận từ nhiều góc độ khác nhau: nghĩa của từ là bản thể, nghĩa của từ là quan hệ, nghĩa của từ là thực thể tinh thần, cụ thể: Ở Việt Nam, tác giả Nguyễn Thiện Giáp nhận định về nghĩa của từ “Nghĩa của từ là một đối tượng phức tạp, bao gồm một số thành tố đơn giản hơn” như “nghĩa sở chỉ”, “nghĩa sở biểu”, “nghĩa sử dụng” và “nghĩa kết cấu”. Tác giả Lê Quang Thiêm cho rằng “nghĩa là một thực thể tinh thần trừu tượng tồn tại trong mọi biểu hiện, cấp độ của ngôn ngữ để ngôn ngữ thực hiện chức năng công cụ giao tiếp và tư duy cũng như mọi loại chức năng cụ thể đa dạng khác, đặc biệt là trong lời nói, trong văn bản, diễn 9 10 ngôn” và “Nghĩa là nội dung xác định hình thành nhờ chức năng, song không là chức năng riêng rẽ trong hoạt động mà là một loại chức năng thể hiện qua văn cảnh”. Tác giả Đỗ Hữu Châu cho rằng “nghĩa của từ là một thực thể tinh thần cùng với phương diện hình thức lập thành một thể thống nhất gọi là từ”. b. Nét nghĩa và cấu trúc nghĩa của từ Đỗ Hữu Châu kết luận: “Tập hợp một số nét nghĩa thành nghĩa biểu niệm là một tập hợp có quy tắc… Chúng ta thấy có những nét nghĩa chung cho nhiều từ và những nét nghĩa riêng cho từng từ”. c. Hiện tượng chuyển nghĩa của từ Bàn về vấn đề này, các nghiên cứu tập trung vào các nội dung sau: sự chuyển nghĩa, chuyển trường, mối quan hệ giữa các nghĩa chuyển, phương thức chuyển nghĩa,… d. Các phương thức chuyển nghĩa Sự chuyển biến nghĩa của từ chủ yếu diễn ra theo hai phương thức: phương thức ẩn dụ và phương thức hoán dụ. 1.2.1.3. Khái niệm ngữ Ngữ được xem là tổ hợp của các từ theo một quan hệ ngữ pháp nhất định, có thể là quan hệ chủ - vị, quan hệ đẳng lập hoặc quan hệ chính phụ. 1.2.2. Trường nghĩa 1.2.2.1. Khái niệm trường nghĩa “Mỗi tiểu hệ thống ngữ nghĩa được gọi là một trường nghĩa. Đó là tập hợp những từ đồng nhất về ngữ nghĩa”. 1.2.2.2. Phân loại trường nghĩa 10 11 Đỗ Hữu Châu đã phân loại trường nghĩa thành hai loại: trường nghĩa ngang (trường nghĩa tuyến tính) và trường nghĩa dọc (trường nghĩa trực tuyến). Căn cứ vào kiểu loại ý nghĩa của từ để phân ra trường nghĩa biểu vật và trường nghĩa biểu niệm trong trường nghĩa trực tuyến. Ngoài ra còn căn cứ vào đặc trưng liên tưởng để xác lập trường liên tưởng. 1.2.2.3. Hiện tượng chuyển trường Về mặt từ vựng, quy luật này thể hiện ở chỗ, cùng một hình thức âm thanh có thể diễn đạt được nhiều nội dung khác nhau. Sự chuyển biến ý nghĩa của từ tạo ra từ đa nghĩa. Từ ban đầu chỉ có một nghĩa biểu vật. Trong quá trình sử dụng chúng được gán thêm nghĩa biểu vật mới. 1.2.2.4. Biến thể trong trường nghĩa - Hằng thể (điển dạng) là dạng thể hiện đơn giản, phổ biến và tiêu biểu nhất của một tín hiệu. - Biến thể (hiện dạng): Biến thể là thể có khác ít nhiều so với thể gốc. 1.2.3. Biểu trưng 1.2.3.1. Giới thuyết về biểu trưng Biểu trưng, tượng trưng: “Biểu trưng là cách lấy một sự vật, hiện tượng nào đó để biểu hiện có tính chất tượng trưng, ước lệ một cái gì đó khác mang tính trừu tượng. Đó là hiện tượng khá phổ biến và quen thuộc đối với các dân tộc và phản ánh quan niệm ngây thơ dân gian của mỗi tộc người đôi khi được cố định hóa trong ngôn ngữ. Khi một sự vật, hiện tượng có giá trị biểu trưng thì nó sẽ gợi lên trong ý thức người bản ngữ sự liên tưởng khá bền vững”. 1.2.3.2. Khái niệm tín hiệu ngôn ngữ 11 12 Tín hiệu ngôn ngữ có hai mặt là cái biểu đạt và cái được biểu đạt nhưng quan hệ giữa hai mặt này mang tính võ đoán cao. Cái biểu đạt là hình thức âm thanh hoặc chữ viết còn cái được biểu đạt là nội dung, ý nghĩa mà tín hiệu đó biểu đạt. 1.2.3.3. Khái niệm tín hiệu thẩm mĩ Tín hiệu thẩm mĩ thuộc hệ thống các phương tiện được lựa chọn và sáng tạo trong tác phẩm nghệ thuật nhằm biểu hiện nội dung thẩm mĩ. Tính thẩm mĩ của các tín hiệu thẩm mĩ biểu hiện ở sự thống nhất biện chứng giữa nội dung và hình thức, giá trị nghệ thuật và giá trị tư tưởng nằm ở cả nội dung và hình thức của tín hiệu. 1.2.3.4. Quan hệ giữa biểu trưng và nghĩa gốc Theo quan niệm của L. HjemSlev, nghĩa biểu trưng bao giờ cũng được xây dựng trên nghĩa gốc, nghĩa bản thể của tín hiệu ngôn ngữ. Khi trở thành tín hiệu thẩm mĩ thì hai mặt CBĐ và CĐBĐ của tín hiệu ngôn ngữ sẽ trở trở thành CBĐ của tín hiệu thẩm mĩ. 1.2.3.5. Con đường hình thành biểu trưng Quá trình lao động, hình thành kinh nghiệm sống, các nét văn hóa được kết tụ theo thời gian đã góp phần chuyển nghĩa từ gốc dần thành một biểu trưng trong ý niệm của mỗi thế hệ trong mỗi dân tộc. 1.2.4. Vài nét về ca dao 1.2.4.1. Khái niệm ca dao Theo cách hiểu thông thường, ca dao là: “lời của bài hát dân ca đã tước bỏ đi những tiếng đệm, tiếng láy,... hoặc những câu thơ có thể bẻ đi làm điệu dân ca… Khái niệm ca dao được quyết định dùng để chỉ bộ phận 12 13 cốt lõi nhất, tiêu biểu nhất, đó là những câu hát đã trở truyền của nhân dân”. 1.2.4.2. Phân loại ca dao Thứ nhất, phân loại theo đề tài và nội dung phản ánh (trong các sách sưu tầm, khảo cứu về ca dao như: Tục ngữ ca dao dân ca, Thi ca bình dân, Kho tàng ca dao người Việt,…). Thứ hai, phân loại ca dao dựa vào mối quan hệ của nó với nghi lễ. Thứ ba, phân loại kết hợp nhiều tiêu chí, tác giả Hoàng Tiến Tựu đưa ra hệ thống như sau: đồng dao, nghi lễ phong tục, ca dao lao động, ca dao trào phúng bông đùa, ca dao ru con, ca dao trữ tình. Theo tác giả Nguyễn Việt Hùng ca dao được chia thành 4 nhóm lớn: ca dao thực hành nghi lễ, ca dao thực hành lao động, ca dao sinh hoạt (hát ru, đồng dao, trào phúng,…), ca dao giao duyên. 1.2.4.3. Vài nét về ca dao tình yêu Ca dao tình yêu là bộ phận phong phú, đặc sắc nhất trong kho tàng ca dao của người Việt. Sự độc đáo này được thể hiện qua rất nhiều phương diện: nội dung, tư tưởng, kết cấu,… CHƯƠNG 2 ĐẶC ĐIỂM NGỮ NGHĨA CỦA TỪ NGỮ CHỈ THỰC VẬT TRONG CA DAO TÌNH YÊU NGƯỜI VIỆT 2.1. Bức tranh tổng quát về từ ngữ chỉ thực vật trong ca dao tình yêu người Việt Bảng 2.1. Bảng thống kê sự xuất hiện và tương quan của các từ ngữ chỉ thực vật: cây/ hoa/ quả trong ca dao tình yêu người Việt STT Từ ngữ chỉ thực vật Số lời ca xuất hiện 13 Tỉ lệ % Số lượt xuất hiện Tỉ lệ % 14 1. Cây 1514 2. Hoa 709 3. Quả 535 Tổng số 2758 2.2. Sự chuyển nghĩa của các từ ngữ 54.9 25.7 19.4 100 chỉ thực vật 1708 54.2 818 26.0 624 19.8 3150 100 trong ca dao tình yêu người Việt 2.2.1. Khái quát về sự chuyển nghĩa của các từ ngữ chỉ thực vật trong ca dao tình yêu người Việt Sự chuyển nghĩa của các từ ngữ chỉ thực vật là kết quả của sự kết hợp của từ với các từ ngữ thuộc nhiều trường nghĩa khác nhau. 2.2.2. Sự chuyển nghĩa của các từ ngữ chỉ cây trong ca dao tình yêu người Việt Các từ ngữ chỉ cây có sự chuyển nghĩa trên tất cả từ ngữ chỉ các loài. Sự chuyển nghĩa xảy ra do bản thân nghĩa của từ và do ngữ cảnh. 2.2.3. Sự chuyển nghĩa của các từ ngữ chỉ hoa trong ca dao tình yêu người Việt Tỉ lệ các từ ngữ chỉ hoa chuyển nghĩa là cao nhất, sự chuyển nghĩa của những từ ngữ này xuất phát từ mối quan hệ gần gũi với đời sống con người nhất là người phụ nữ. 2.2.4. Sự chuyển nghĩa của các từ ngữ chỉ quả trong ca dao tình yêu người Việt So với các từ ngữ chỉ thực vật khác, từ ngữ chỉ quả có sự chuyển nghĩa khiêm tốn nhất. 2.3. Ý nghĩa biểu trưng của từ ngữ chỉ thực vật trong ca dao tình yêu người Việt 14 15 2.3.1. Mối quan hệ giữa đặc điểm bản thể và ý nghĩa biểu trưng của từ ngữ chỉ thực vật trong ca dao tình yêu người Việt Nghĩa biểu trưng có quan hệ chặt chẽ với đặc điểm sự vật được định danh bằng ngôn ngữ. Những hiểu biết về các đặc điểm của thế giới thực vật về đặc điểm hình thức bên ngoài như hình dáng, màu sắc, kích thước, mùi vị,… ; môi trường sống, tập quán sống, quá trình sinh trưởng đã trở thành những đặc điểm quan trọng cho quá trình biểu trưng hóa. 2.3.2 Nghĩa biểu trưng của từ ngữ chỉ cây trong ca dao tình yêu người Việt 2.3.2.1. Khái quát về nghĩa biểu trưng của từ ngữ chỉ cây trong ca dao tình yêu người Việt Cây biểu trưng cho quy luật tuần hoàn của cuộc sống. Cây biểu trưng cho vẻ đẹp hình thức và tâm hồn của con người đặc biệt là người phụ nữ. Cây biểu trưng cho những phẩm chất cao đẹp của con người, cho các cung bậc, sắc thái cũng như các triết lí về tình yêu nam nữ 2.3.2.2. Nghĩa biểu trưng của từ ngữ chỉ một số loài cây trong ca dao tình yêu người Việt a. Nghĩa biểu trưng của từ ngữ chỉ cây tre trong ca dao tình yêu người Việt - Tre biểu trưng cho vẻ đẹp của người phụ nữ, cho tính nữ. - Tre biểu trưng cho quy luật của cuộc sống. - Tre biểu trưng cho hạnh phúc lứa đôi bền chặt. - Tre biểu trưng cho triết lí của tình yêu. - Tre biểu trưng cho cách thức bày tỏ trong tình yêu đôi lứa. b. Nghĩa biểu trưng của từ ngữ chỉ cây lúa trong ca dao tình yêu người Việt - Lúa biểu trưng cho vẻ đẹp của người phụ nữ. 15 16 - Các từ ngữ chỉ vòng đời của cây lúa biểu trưng cho các giai đoạn của tình yêu lứa đôi. - Từ ngữ chỉ các giai đoạn phát triển của cây lúa biểu trưng cho thời gian. 2.3.3. Nghĩa biểu trưng của từ ngữ chỉ hoa trong ca dao tình yêu người Việt 2.3.3.1. Khái quát về nghĩa biểu trưng của từ ngữ chỉ hoa trong ca dao tình yêu người Việt Hoa biểu trưng cho vẻ đẹp của người phụ nữ. Các phương diện của hoa là cơ sở hình thành ý nghĩa biểu trưng về vẻ đẹp người phụ nữ. Hình thức của hoa (sắc và thì của hoa) thường biểu trưng cho vẻ đẹp hình thức, hương sắc của hoa biểu trưng cho vẻ đẹp tâm hồn. Hoa biểu trưng cho các cung bậc cảm xúc và triết lí của tình yêu. Trạng thái của hoa biểu trưng cho số phận của người phụ nữ. Tư thế, trạng thái của hoa cũng là những căn cứ để tạo ra các ý nghĩa biểu trưng về tình yêu.. Đời hoa biểu trưng cho đời người phụ nữ. Các từ ngữ chỉ các loài hoa trong ca dao tình yêu biểu trưng cho khát vọng của hạnh phúc. Hoa biểu trưng cho những nguyên tắc ứng xử trong tình yêu, cho thái độ và lối sống của người Việt. Các kết hợp của hoa biểu trưng cho sự gắn kết lứa đôi trong tình yêu: hoa – bướm, ong – hoa, lan – huệ, liễu – đào, nguyệt – đào, mận – đào,… hoặc giữa hoa với môi trường sống như: lựu – bồn, sen – hồ,… 2.3.3.2. Nghĩa biểu trưng của từ ngữ chỉ một số loài hoa trong ca dao tình yêu người Việt a. Nghĩa biểu trưng của từ ngữ chỉ hoa đào trong ca dao tình yêu người Việt - Hoa đào biểu trưng cho vẻ đẹp của người thiếu nữ. - Hoa đào biểu trưng vẻ đẹp chóng phai tàn của đời người phụ nữ. 16 17 - Hoa đào biểu trưng cho phương thức tỏ tình trong tình yêu. - Cặp đôi mận – đào mang ý nghĩa biểu trưng tinh tế về sự cân xứng trong tình yêu lứa đôi. Kết hợp hoa đào – hoa lựu biểu trưng cho sự xa cách, sự trắc trở trong tình yêu - Các từ ngữ chỉ tập hợp liên quan đến các loài hoa đã trở thành phương tiện để biểu trưng cho không gian của tình yêu. b. Nghĩa biểu trưng của từ ngữ chỉ hoa sen trong ca dao tình yêu người Việt - Hoa sen biểu trưng cho vẻ đẹp thuần khiết giữa bụi trần tục lụy. - Hương sắc của hoa sen biểu trưng cho vẻ đẹp nội tâm của người con gái nói riêng và của người Việt Nam nói chung. - Hoa sen biểu trưng cho vẻ đẹp nam giới. - Hoa sen không những là biểu trưng cho vẻ đẹp về hình thức và tâm hồn của người thiếu nữ mà còn là biểu tượng cho khí chất của người Việt nói chung. - Hoa sen cũng được nhân cách hóa để biểu trưng cho sự gắn kết trong tình yêu đôi lứa qua kết hợp sen – hồ. 2.3.4. Nghĩa biểu trưng của từ ngữ chỉ quả trong ca dao tình yêu người Việt 2.3.4.1. Quả biểu trưng cho vẻ đẹp của người phụ nữ - Quả biểu trưng cho vẻ đẹp người phụ nữ ở các giai đoạn khác nhau - Quả biểu trưng cho vẻ đẹp hình thể người phụ nữ. 2.3.4.2. Quả biểu trưng cho vòng đời người phụ nữ - Quả non biểu trưng cho người phụ nữ khi còn trẻ - Quả chín biểu trưng cho người phụ nữ trưởng thành - Quả chín nẫu, rụng biểu trưng cho người phụ nữ khi về già 17 18 - Vị của quả biểu trưng cho thân phận người phụ nữ 2.3.4.3. Quả biểu trưng cho triết lí của tình yêu đôi lứa - Quả biểu trưng cho triết lí, phẩm chất của tình yêu - Quả biểu trưng cho cách ứng xử của người phụ nữ trong tình yêu - Quả biểu trưng cho sự gắn bó hòa hợp trong tình yêu Chương 3 ĐẶC ĐIỂM NGỮ NGHĨA CỦA TỪ NGỮ CHỈ VẬT THỂ NHÂN TẠO TRONG CA DAO TÌNH YÊU NGƯỜI VIỆT 3.1. Bức tranh tổng quát về từ ngữ chỉ vật thể nhân tạo trong ca dao tình yêu người Việt Khảo sát ca dao tình yêu, chúng tôi thu được 374 lời ca có từ ngữ chỉ vật thể nhân tạo là phương tiện và công cụ sản xuất chiếm 6,1%, 694 lời ca có từ ngữ chỉ đồ dùng cá nhân chiếm 11,4%, 478 lời ca có từ ngữ chỉ dụng cụ sinh hoạt gia đình chiếm 7,8% và 411 lời ca có từ ngữ chỉ công trình kiến trúc chiếm 6,7% trong tổng số 6102 lời ca dao tình yêu. 3.2. Sự chuyển nghĩa của từ ngữ chỉ vật thể nhân tạo trong ca dao tình yêu người Việt 3.2.1. Sự chuyển nghĩa của từ ngữ chỉ công trình kiến trúc trong ca dao tình yêu người việt Các từ ngữ chỉ công trình kiến trúc có sự chuyển nghĩa ít nhất trong các từ chỉ vật thể nhân tạo. 3.2.2. Sự chuyển nghĩa của các từ ngữ chỉ vật dụng sinh hoạt gia đình trong ca dao tình yêu người việt Các từ ngữ chỉ vật dụng sinh hoạt gia đình có sự chuyển nghĩa với tần số cao nhất ở các từ chỉ chăn, gối, giường, chiếu, bát, đũa, nồi, mâm. 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan